Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu này nhằm xác định và phân tích ảnh hưởng của đặc điểm Hội đồng quản trị (HĐQT) đến hành vi quản trị lợi nhuận (QTLN) của các công ty niêm yết trên sàn HOSE Dựa trên kết quả thu được, tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm kiểm soát hành vi QTLN, đồng thời nâng cao chất lượng báo cáo tài chính (BCTC) của các công ty niêm yết.
Mục tiêu cụ thể
Nghiên cứu này nhằm xác định các yếu tố liên quan đến đặc điểm Hội đồng Quản trị (HĐQT) và xây dựng mô hình hồi quy để phân tích mối quan hệ giữa những đặc điểm này với hành vi quản trị lợi nhuận (QTLN) của các công ty niêm yết trên sàn HOSE.
Phân tích cụ thể mức độ tác động của những nhân tố này đến hành vi QTLN của các CTNY trên HOSE.
Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu đã đề ra, nghiên cứu sẽ tập trung vào câu hỏi: Những yếu tố nào trong đặc điểm của Hội đồng Quản trị (HĐQT) có tác động đến hành vi quản trị lợi nhuận (QTLN) của các công ty niêm yết trên sàn HOSE?
Câu hỏi 2: Mức độ tác động của từng nhân tố thuộc đặc điểm HĐQT ảnh hưởng đến hành vi QTLN của các CTNY trên HOSE ra sao?
Phương pháp nghiên cứu
Để xác định các yếu tố thuộc đặc điểm Hội đồng Quản trị (HĐQT) ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận (QTLN), tác giả đã tổng hợp và phân tích kết quả từ các nghiên cứu trước đây Phương pháp nghiên cứu định lượng được áp dụng để kiểm tra mức độ tác động của từng yếu tố HĐQT đối với hành vi QTLN của các công ty niêm yết trên sàn HOSE Dữ liệu thứ cấp được thu thập từ báo cáo tài chính đã được kiểm toán, báo cáo thường niên và báo cáo quản trị của các công ty này trong giai đoạn 2015 – 2018 thông qua website https://finance.vietstock.vn/ Sau khi thu thập và tính toán, dữ liệu sẽ được tổng hợp thành bảng trên Microsoft Excel 2016 và sau đó được xử lý bằng phần mềm Stata 14.
Ý nghĩa của nghiên cứu
Về mặt lý luận
Luận văn này đóng góp vào tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu liên quan đến tác động của đặc điểm Hội đồng quản trị (HĐQT) đến hành vi quản trị lợi nhuận (QTLN), đặc biệt nhấn mạnh vai trò của thành viên HĐQT nước ngoài Ngoài ra, nghiên cứu cũng cung cấp bằng chứng bổ sung về ảnh hưởng của các yếu tố kiểm soát như loại công ty kiểm toán, quy mô công ty, đòn bẩy tài chính, ROA và dòng tiền từ hoạt động kinh doanh, đã được khảo sát trong các nghiên cứu trước.
Về mặt thực tiễn
Nghiên cứu cho thấy, Hội đồng Quản trị (HĐQT) với cơ cấu tổ chức phù hợp với đặc điểm ngành nghề sẽ góp phần quan trọng trong việc kiểm soát hành vi quản trị doanh nghiệp Do đó, kết quả nghiên cứu của luận văn về mức độ tác động của các yếu tố thuộc đặc điểm này là rất đáng lưu ý.
HĐQT và hành vi quản trị lợi nhuận (QTLN) của các công ty niêm yết trên HOSE sẽ cung cấp thông tin hữu ích cho các bên liên quan, giúp các công ty nhận thức rõ vai trò quan trọng của HĐQT trong quản lý và kiểm soát QTLN Điều này cho phép các công ty tìm ra giải pháp phù hợp để cải thiện cấu trúc và chất lượng HĐQT, từ đó nâng cao chất lượng báo cáo tài chính (BCTC) và thông tin nói chung, đảm bảo cung cấp thông tin trung thực và hợp lý, đáp ứng nhu cầu của người sử dụng.
Kết cấu luận văn
Luận văn được chia thành 5 chương:
Chương 1 Tổng quan các nghiên cứu trước Chương 2 Cơ sở lý thuyết
Chương 3 Phương pháp nghiên cứu Chương 4 Kết quả nghiên cứu và bàn luận Chương 5 Kết luận và kiến nghị
TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC
Các nghiên cứu trên thế giới
Mối quan hệ giữa quản trị lợi nhuận (QTLN) và đặc điểm hội đồng quản trị (HĐQT) đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu Nghiên cứu của Chtourou và cộng sự (2001) trên 3451 công ty Mỹ vào năm 1996 đã chỉ ra rằng tỷ lệ thành viên độc lập trong Ủy ban Kiểm toán (UBKT), mức độ chuyên môn tài chính, và trách nhiệm giám sát của UBKT đều ảnh hưởng ngược chiều đến hành vi QTLN Ngược lại, số lượng cuộc họp của UBKT có mối quan hệ cùng chiều với hành vi này Các yếu tố như tính độc lập của HĐQT, sự kiêm nhiệm giữa Chủ tịch HĐQT và TGĐ, và loại công ty kiểm toán không có ảnh hưởng đáng kể đến QTLN.
Nghiên cứu của Kao và Chen (2004) đã phân tích mối quan hệ giữa đặc điểm Hội đồng quản trị (HĐQT) và hành vi quản trị lợi nhuận (QTLN) thông qua phương pháp hồi quy với giả định phân phối loga chuẩn Các tác giả đã khảo sát dữ liệu từ tất cả các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Đài Loan, trừ các công ty tài chính, và áp dụng mô hình Jones (1991) để ước tính các biến liên quan Kết quả cho thấy quy mô HĐQT có tác động tích cực đến hành vi QTLN, trong khi tính độc lập của HĐQT lại có ảnh hưởng tiêu cực Đáng chú ý, các yếu tố như sự kiêm nhiệm giữa Chủ tịch HĐQT và Tổng giám đốc, quyền sở hữu của HĐQT, quy mô công ty và đòn bẩy tài chính không có tác động đáng kể đến hành vi QTLN.
Nghiên cứu của Saleh và cộng sự (2005) đã phân tích ảnh hưởng của đặc điểm Hội đồng Quản trị (HĐQT) đến hành vi Quản trị lợi nhuận (QTLN), góp phần làm phong phú thêm tài liệu về vai trò của HĐQT trong QTLN Nhóm tác giả sử dụng mô hình Jones (1991) để xác định giá trị biến DA, với bốn biến độc lập: sự kiêm nhiệm giữa Chủ tịch HĐQT và Tổng Giám đốc, tính độc lập của HĐQT, quy mô HĐQT và quyền sở hữu của HĐQT, cùng ba biến kiểm soát: quy mô công ty, ROA và đòn bẩy tài chính Kết quả từ phương pháp hồi quy đa biến trên mẫu 561 công ty niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán Kuala Lumpur năm 2001 cho thấy quyền sở hữu của HĐQT có tác động ngược chiều, trong khi sự kiêm nhiệm giữa Chủ tịch và TGĐ có tác động cùng chiều đến hành vi QTLN; các biến còn lại ảnh hưởng không đáng kể.
Peasnell và cộng sự (2005) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa hành vi quản trị lợi nhuận (QTLN) và đặc điểm hội đồng quản trị (HĐQT) bằng cách sử dụng mô hình Jones điều chỉnh của Dechow và cộng sự (1995) để xác định giá trị của biến điều chỉnh lợi nhuận (DA) Mẫu nghiên cứu bao gồm 559 công ty niêm yết tại Anh trong giai đoạn 1993-1996 Kết quả từ phương pháp ước lượng bình phương nhỏ nhất (OLS) cho thấy rằng tỷ lệ thành viên HĐQT là người bên ngoài, quy mô HĐQT, quyền sở hữu của HĐQT, dòng tiền hoạt động và tổng tài sản đầu kỳ có tác động ngược chiều đến hành vi QTLN Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra ảnh hưởng không đáng kể của quyền sở hữu tổ chức, đòn bẩy tài chính và sự tồn tại của
UBKT, sự tập trung quyền sở hữu, sự kiêm nhiệm giữa Chủ tịch HĐQT và TGĐ, loại công ty kiểm toán đối với hành vi QTLN
Nghiên cứu của Haniffa và cộng sự (2006) nhằm kiểm tra tác động của đặc điểm HĐQT, UBKT và văn hóa đến hành vi QTLN đã được thực hiện trên 97 CTNY tại Bursa Malaysia trong giai đoạn 2002 – 2003 Các tác giả áp dụng mô hình Jones điều chỉnh để xác định giá trị biến DA Kết quả cho thấy trong số 10 biến độc lập và 6 biến kiểm soát, có 3 biến ảnh hưởng đến hành vi QTLN: quy mô HĐQT tác động tích cực, trong khi quy mô công ty và hệ số giá ghi sổ trên giá thị trường tác động tiêu cực Các biến khác như tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập, nhiệm kỳ trung bình của thành viên HĐQT, sự kiêm nhiệm giữa Chủ tịch HĐQT và TGĐ, tỷ lệ thành viên độc lập trong UBKT, mức độ chuyên môn tài chính của UBKT, số lần họp HĐQT, sự tập trung quyền sở hữu, tỷ lệ người Bumiputra trong HĐQT và UBKT, ROA, đòn bẩy tài chính, dòng tiền từ hoạt động kinh doanh, và loại công ty kiểm toán không có ảnh hưởng đáng kể đến hành vi QTLN.
Nghiên cứu của Ebrahim (2007) nhằm khám phá mối quan hệ giữa hành vi quản lý chất lượng thông tin tài chính (QTLN) và hoạt động của Hội đồng quản trị (HĐQT) cùng Ủy ban kiểm toán (UBKT) trên toàn bộ các công ty sản xuất niêm yết trên COMPUSTAT trong giai đoạn 1999 – 2000 Áp dụng mô hình Jones điều chỉnh của Dechow và cộng sự (1995), kết quả cho thấy rằng nhiệm kỳ của Tổng giám đốc, quy mô và tính độc lập của HĐQT, tính độc lập của UBKT, số lượng cuộc họp của UBKT, quyền sở hữu của các tổ chức tài chính, quyền sở hữu nội bộ và loại công ty kiểm toán đều có ảnh hưởng ngược chiều đến hành vi QTLN Ngược lại, các yếu tố như sự kiêm nhiệm giữa Chủ tịch HĐQT và Tổng giám đốc, số lượng cuộc họp của HĐQT, quyền sở hữu của HĐQT, nhiệm kỳ của kiểm toán viên, số lượng chuyên gia phân tích, quy mô công ty và hệ số giá thị trường trên giá ghi sổ không tác động đến hành vi QTLN.
Jaggi và cộng sự (2009) đã tiến hành nghiên cứu trên 391 công ty năm 1998,
Nghiên cứu đã tiến hành phân tích 394 công ty vào năm 1999 và 399 công ty vào năm 2000 tại Hồng Kông để kiểm tra ảnh hưởng của sự kiểm soát của các công ty gia đình, tính độc lập của Hội đồng Quản trị (HĐQT) và hành vi quản trị lợi nhuận (QTLN) Biến động lợi nhuận (DA) được tính toán dựa trên mô hình của Jones.
Mô hình Jones điều chỉnh của Dechow và cộng sự (1995) cùng với mô hình của Kothari và cộng sự (2005) đã chỉ ra rằng có mối quan hệ ngược chiều giữa tính độc lập của Hội đồng quản trị (HĐQT), ROA, quy mô công ty và hành vi quản trị lợi nhuận (QTLN) Nghiên cứu không tìm thấy ảnh hưởng của quy mô HĐQT, sự kiêm nhiệm giữa Chủ tịch HĐQT và Tổng Giám đốc, sự tồn tại của Ủy ban kiểm toán, loại công ty kiểm toán cũng như hệ số giá thị trường trên giá ghi sổ đến hành vi QTLN.
Gulzar (2011) đã tiến hành nghiên cứu nhằm tìm hiểu ảnh hưởng của các đặc điểm quản trị doanh nghiệp đến việc giảm thiểu hành vi quản trị lợi nhuận.
Nghiên cứu về 1009 CTNY tại SGDCK Thượng Hải và Thâm Quyến trong giai đoạn 2002 – 2006 sử dụng mô hình Jones điều chỉnh để tính toán giá trị biến DA Kết quả cho thấy có mối quan hệ tích cực giữa sự kiêm nhiệm chức vụ Chủ tịch HĐQT và TGĐ, tần suất tổ chức họp HĐQT, sự tập trung quyền sở hữu và hành vi QTLN Ngược lại, tỷ lệ thành viên nữ trong HĐQT và ROA có tác động tiêu cực đến hành vi này Ngoài ra, nghiên cứu không tìm thấy mối quan hệ giữa tính độc lập của HĐQT, quy mô HĐQT, sự tồn tại của UBKT, quyền sở hữu của giám đốc, đòn bẩy tài chính và quy mô doanh nghiệp với hành vi QTLN.
Nghiên cứu của Houqe và cộng sự (2011) đã phân tích mối quan hệ giữa quản trị doanh nghiệp và hành vi quản trị lợi nhuận (QTLN) tại Bangladesh, sử dụng mô hình Jones (1991) để xác định giá trị của biến điều chỉnh lợi nhuận (DA) Dựa trên mẫu 648 công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Dhaka trong giai đoạn 2001 – 2006 và phương pháp hồi quy OLS, kết quả cho thấy quyền sở hữu của tổ chức, quyền sở hữu của chính phủ, quy mô hội đồng quản trị, loại công ty kiểm toán, công ty gia đình, cường độ vốn và dòng tiền hoạt động có ảnh hưởng ngược chiều đến hành vi QTLN, trong khi quy mô doanh nghiệp có mối quan hệ cùng chiều Ngoài ra, quyền sở hữu của nhà quản lý, tính độc lập của hội đồng quản trị, đòn bẩy tài chính, hệ số giá ghi sổ trên giá trị thị trường, ROE, quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài và quyền sở hữu của công chúng không có tác động đến hành vi QTLN trong nghiên cứu này.
Nghiên cứu của Liu (2012) về ảnh hưởng của đặc điểm HĐQT và bộ phận quản lý đối với hành vi QTLN tại các công ty Úc cho thấy sự kiêm nhiệm giữa Chủ tịch HĐQT và TGĐ cùng quy mô doanh nghiệp có tác động ngược chiều đến hành vi này Ngược lại, tính độc lập của HĐQT, quyền sở hữu của nhà quản lý và quy mô HĐQT lại có mối quan hệ cùng chiều với hành vi QTLN Sử dụng mô hình Jones (1991) và mô hình Jones điều chỉnh của Dechow và cộng sự (1995) trên mẫu 138 CTNY từ SGDCK Úc trong giai đoạn 2004 – 2007, nghiên cứu chỉ ra rằng các yếu tố như sự tồn tại của ủy ban quản trị doanh nghiệp, tính độc lập của ủy ban quản trị doanh nghiệp, kế hoạch thưởng, sự tập trung quyền sở hữu và đòn bẩy tài chính không ảnh hưởng đến hành vi QTLN.
Nugroho và Eko (2012) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa đặc điểm Hội đồng quản trị (HĐQT) và hành vi quản trị lợi nhuận (QTLN) tại các công ty niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Indonesia từ năm 2004 đến 2008 Sử dụng mô hình Jones (1991) được điều chỉnh bởi Dechow và cộng sự (1995), nghiên cứu xác định giá trị của biến điều chỉnh là DA và NDA thông qua phương pháp định lượng và dữ liệu thứ cấp Kết quả cho thấy chỉ có biến kiêm nhiệm giữa Chủ tịch HĐQT và Tổng Giám đốc có tác động tích cực đến hành vi QTLN, trong khi các yếu tố khác như tính độc lập của HĐQT, quy mô HĐQT, quyền sở hữu của HĐQT, nhiệm kỳ HĐQT và Ủy ban Kiểm toán không có ảnh hưởng đáng kể.
Nghiên cứu của Moradi và cộng sự (2012) đã phân tích mối quan hệ giữa đặc điểm Hội đồng quản trị và hành vi quản lý lợi nhuận tại 159 công ty được chọn từ 430 công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Tehran trong giai đoạn 2006 – 2009 Để xác định giá trị của biến, nghiên cứu đã áp dụng mô hình Jones điều chỉnh do Dechow và cộng sự (1995) phát triển.
Nghiên cứu về mô hình hồi quy với 6 biến độc lập và 5 biến kiểm soát cho thấy quy mô doanh nghiệp và ROA có tác động cùng chiều đến hành vi quản trị lợi nhuận (QTLN), trong khi dòng tiền từ hoạt động kinh doanh lại ảnh hưởng ngược chiều Ngoài ra, các yếu tố như sự kiêm nhiệm giữa Chủ tịch HĐQT và TGĐ, quy mô HĐQT, tỷ lệ thành viên nữ trong HĐQT, đòn bẩy tài chính và loại công ty kiểm toán không có ảnh hưởng đáng kể đến hành vi QTLN trong phạm vi nghiên cứu của các tác giả.
Các nghiên cứu tại Việt Nam
Tại Việt Nam, vấn đề quản trị lợi nhuận (QTLN) đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu Mục tiêu chính là tìm ra mô hình nhận diện hành vi QTLN phù hợp và xác định các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi này Qua đó, các giải pháp quản lý được đề xuất nhằm cải thiện chất lượng thông tin trên báo cáo tài chính (BCTC).
Nghiên cứu của Giáp Thị Liên (2014) phân tích mối quan hệ giữa quản trị công ty và hành vi quản lý thu nhập (QTLN) của các công ty niêm yết trên sàn HOSE trong giai đoạn 2009 – 2013 với mẫu 101 công ty Sử dụng mô hình Jones điều chỉnh để đo lường biến phụ thuộc là điều chỉnh thu nhập (DA), kết quả cho thấy rằng sự kiêm nhiệm giữa Chủ tịch HĐQT và TGĐ, tỷ lệ thành viên không điều hành trong HĐQT, tỷ lệ thành viên độc lập trong HĐQT, tỷ lệ cổ phần nắm giữ bởi Ban Giám đốc và lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh có mối quan hệ ngược chiều với hành vi QTLN Trong khi đó, các biến như quy mô HĐQT, tỷ lệ thành viên Ban Kiểm soát không kiêm nhiệm, tỷ lệ thành viên Ban Kiểm soát có chuyên môn tài chính – kế toán – kiểm toán và tỷ lệ cổ phần nắm giữ bởi thành viên HĐQT không điều hành không có ý nghĩa thống kê trong nghiên cứu này.
Phan Thị Thanh Trang (2015) đã nghiên cứu hành vi quản trị lợi nhuận (QTLN) của các công ty niêm yết (CTNY) trên sàn HOSE, với biến phụ thuộc là hành vi QTLN trong năm đầu, năm trước và sau khi niêm yết Sử dụng mô hình Friedlan (1994), tác giả phân tích 54 CTNY trong giai đoạn 2007 - 2013 Kết quả cho thấy loại công ty kiểm toán có mối quan hệ ngược chiều với hành vi QTLN, trong khi quy mô công ty, điều kiện kinh tế và thời gian hoạt động lại có mối quan hệ cùng chiều Ngành nghề kinh doanh không có ý nghĩa thống kê trong nghiên cứu này Đặc biệt, 100% các công ty đều thể hiện hành vi QTLN qua các năm trước, trong và sau năm niêm yết.
Nghiên cứu của Lê Thị Hoài Anh và cộng sự (2015) đã phân tích dữ liệu từ báo cáo tài chính năm 2013 của 30 doanh nghiệp ngẫu nhiên tại Thừa Thiên Huế Kết quả cho thấy hầu hết các doanh nghiệp trong mẫu đã thực hiện điều chỉnh lợi nhuận, với 50% doanh nghiệp theo mô hình DeAngelo điều chỉnh tăng và 50% điều chỉnh giảm Mô hình Friedlan chỉ ra rằng 53% doanh nghiệp điều chỉnh tăng và 47% điều chỉnh giảm lợi nhuận Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng mức độ điều chỉnh lợi nhuận tỉ lệ thuận với quy mô doanh thu và tài sản Qua đó, có thể kết luận rằng vào năm 2013, nhiều doanh nghiệp đã điều chỉnh lợi nhuận theo ý muốn của nhà quản trị, làm tăng hoặc giảm mức lợi nhuận so với thực tế.
Nguyễn Anh Hiền và Phạm Thanh Trung (2015) đã tiến hành nghiên cứu nhằm xác định mô hình tối ưu để phát hiện hành vi điều chỉnh lợi nhuận tại các công ty niêm yết (CTNY) ở Việt Nam Nghiên cứu sử dụng mẫu 380 công ty được chọn ngẫu nhiên từ Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (HOSE) và Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX), bao gồm 200 CTNY trên HNX và 180 CTNY trên HOSE Dựa trên dữ liệu năm 2014, kết quả cho thấy mô hình của Dechow và các cộng sự (1995) cùng với Kothari, Leone và Wasley là phù hợp nhất cho việc phát hiện hành vi điều chỉnh lợi nhuận.
Nghiên cứu của Kothari, Leone và Wasley (2005) đã chỉ ra rằng mô hình của họ là phù hợp nhất để nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam Kết quả kiểm định thống kê cho thấy sự hiệu quả của mô hình này trong phạm vi nghiên cứu của hai tác giả.
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Phương Hồng (2016) chỉ ra rằng chất lượng báo cáo tài chính (BCTC) của các công ty niêm yết (CTNY) trên thị trường chứng khoán Việt Nam bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố Mẫu nghiên cứu gồm 283 quan sát từ 394 CTNY trong giai đoạn 2012 – 2014, sử dụng mô hình Jones điều chỉnh và mô hình EBO để đo lường chất lượng lợi nhuận Kết quả cho thấy, trong mô hình Jones điều chỉnh, các yếu tố như sự kiêm nhiệm giữa Chủ tịch HĐQT và TGĐ, tính độc lập của HĐQT, chuyên môn tài chính của HĐQT, kế hoạch thưởng và thời gian niêm yết có tác động tích cực đến chất lượng BCTC Ngược lại, quyền sở hữu của tổ chức, khả năng thanh toán hiện hành, quy mô công ty, lợi nhuận (ROE), loại ngành công nghiệp và chính sách chia cổ tức lại có tác động tiêu cực 12 biến còn lại, bao gồm quyền sở hữu vốn nhà nước, quyền sở hữu của nhà quản lý, quyền sở hữu vốn nước ngoài, sự tập trung quyền sở hữu, quy mô HĐQT, tần suất họp HĐQT, đòn bẩy tài chính, tuổi công ty, tình trạng niêm yết, loại công ty kiểm toán, tính trì hoãn của BCTC và triển vọng phát triển, không có tác động đến chất lượng BCTC.
Nghiên cứu của Bùi Văn Dương và Ngô Hoàng Điệp (2017) đã phân tích mối quan hệ giữa đặc điểm Hội đồng Quản trị (HĐQT) và hành vi quản trị lợi nhuận (QTLN) của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam Mẫu nghiên cứu bao gồm 430 công ty phi tài chính trong giai đoạn 2010 - 2015 Các tác giả áp dụng mô hình Kothari, Leone và Wasley (2005) để xác định giá trị của biến phụ thuộc DA, đại diện cho hành vi QTLN của nhà quản lý, và thực hiện phân tích dữ liệu bằng phần mềm Stata.
Nghiên cứu chỉ ra rằng quy mô Hội đồng quản trị (HĐQT), tỷ lệ thành viên có chuyên môn tài chính, và tỷ lệ thành viên nữ trong HĐQT đều có mối quan hệ tích cực với chất lượng thông tin tài chính (QTLN) Ngược lại, quy mô doanh nghiệp, đòn bẩy tài chính và tỷ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA) lại có mối quan hệ tiêu cực với QTLN Hơn nữa, nghiên cứu cũng cho thấy rằng sự kiêm nhiệm giữa Chủ tịch HĐQT và Tổng Giám đốc, tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập không điều hành, cùng với số lần họp HĐQT không có tác động đáng kể đến hành vi QTLN.
Nguyễn Hà Linh (2017) đã thực hiện nghiên cứu nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận (QTLN) tại các công ty phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, với mẫu nghiên cứu gồm 2132 quan sát trong giai đoạn 2010 – 2014 Tác giả áp dụng mô hình gốc Jones (1991) để ước lượng giá trị của các khoản điều chỉnh lợi nhuận (NDA) và lợi nhuận thực (DA) Kết quả phân tích dữ liệu bằng phần mềm Stata 12 cho thấy quy mô Hội đồng quản trị (HĐQT), tỷ lệ sở hữu nước ngoài và kiểm toán độc lập có ảnh hưởng ngược chiều đến hành vi QTLN, trong khi tỷ lệ sở hữu nhà nước, hệ số nợ, hiệu quả tài chính và quy mô công ty lại có tác động cùng chiều Đặc biệt, số lượng thành viên HĐQT độc lập và sự kiêm nhiệm giữa Chủ tịch HĐQT và Tổng Giám đốc không ảnh hưởng đến hành vi QTLN trong nghiên cứu này.
Ngô Hoàng Điệp (2018) nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận (QTLN) của các nhà quản lý tại các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, với mẫu nghiên cứu gồm 416 công ty trên HOSE và HNX trong giai đoạn 2010 – 2016 Tác giả sử dụng mô hình Kothari, Leone và Wasley (2005) cùng với mô hình Roychowdhury (2006) để xác định giá trị biến phụ thuộc Kết quả cho thấy, số lần họp Hội đồng quản trị (HĐQT), tỷ lệ thành viên HĐQT có chuyên môn tài chính, tỷ lệ thành viên nữ trong HĐQT, quy mô Ban kiểm soát (BKS), tỷ lệ thành viên nữ trong BKS, quy mô công ty kiểm toán và sở hữu quản lý có tác động ngược chiều đến hành vi QTLN Ngược lại, sự thay đổi công ty kiểm toán, tỷ lệ nợ vay ngắn hạn, quy mô doanh nghiệp và ROA lại có tác động cùng chiều Ngoài ra, một số yếu tố như sự kiêm nhiệm giữa Chủ tịch HĐQT và Tổng giám đốc, tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập không điều hành, quy mô HĐQT, tỷ lệ thành viên BKS có chuyên môn tài chính, sở hữu nhà nước, sở hữu nước ngoài, đòn bẩy tài chính và mức độ hoàn thành kế hoạch không ảnh hưởng đến hành vi QTLN.
Hoàng Thị Việt Hà và Đặng Ngọc Hùng (2018) đã tiến hành nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến QTLN dồn tích và QTLN thực tế của các công ty niêm yết tại Việt Nam Nghiên cứu sử dụng dữ liệu thứ cấp từ báo cáo tài chính của 260 công ty niêm yết trên sàn HOSE trong giai đoạn 2012.
Năm 2016, nghiên cứu với 1300 mẫu quan sát đã sử dụng mô hình Jones điều chỉnh của Dechow và cộng sự (1995) cùng mô hình của Kothari và cộng sự (2005) để đo lường hành vi QTLN dồn tích, và mô hình của Roychowdhury (2006) để đo lường hành vi QTLN thực tế Qua phân tích hồi quy OLS, các tác giả đã kiểm định mô hình và đánh giá khuyết tật Kết quả cho thấy rằng BCTC hợp nhất, sự kiêm nhiệm giữa Chủ tịch HĐQT và TGĐ, ROA, đòn bẩy tài chính và phát hành cổ phiếu có ảnh hưởng tích cực đến QTLN dồn tích, trong khi quy mô và chất lượng kiểm toán lại có mối quan hệ tiêu cực Đặc biệt, quy mô HĐQT và quy mô công ty không có ảnh hưởng đáng kể đến QTLN trong nghiên cứu này.
Nhận xét các công trình nghiên cứu đã công bố
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng đặc điểm của Hội đồng Quản trị (HĐQT) và các yếu tố doanh nghiệp như quy mô công ty, loại công ty kiểm toán, đòn bẩy tài chính, ROA và dòng tiền từ hoạt động kinh doanh có ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận (QTLN) Hành vi QTLN được đo lường qua các mô hình khác nhau như của Jones (1991), Friedlan (1994), và Jones điều chỉnh của Dechow và cộng sự (1995) Các đặc điểm của HĐQT thường được thể hiện qua quy mô HĐQT, sự kiêm nhiệm giữa Chủ tịch HĐQT và Tổng Giám đốc, tính độc lập của HĐQT, sự hiện diện của thành viên nữ, mức độ chuyên môn tài chính, và tần suất họp của HĐQT.
Nghiên cứu về ảnh hưởng của thành viên HĐQT nước ngoài đến hành vi QTLN tại Việt Nam vẫn còn hạn chế, mặc dù đây là yếu tố quan trọng trong cấu trúc HĐQT, đặc biệt khi Việt Nam hội nhập kinh tế toàn cầu Các nghiên cứu quốc tế như của Hooghiemstra và cộng sự (2019), Hamid và Bello (2019) đã chỉ ra vai trò thiết yếu của thành viên nước ngoài trong HĐQT Việc hiểu rõ vai trò này sẽ giúp các công ty nhận thức được tầm quan trọng của thành viên nước ngoài trong việc cải thiện cơ cấu và chất lượng HĐQT, từ đó nâng cao chất lượng BCTC và thông tin doanh nghiệp Do đó, nghiên cứu này sẽ kiểm tra ảnh hưởng của thành viên HĐQT nước ngoài cùng với các yếu tố khác đến hành vi QTLN của các công ty niêm yết trên HOSE.
Các nghiên cứu mà tác giả đã tổng hợp cung cấp nhiều kiến thức bổ ích về phương pháp thực hiện và xây dựng mô hình nghiên cứu Tác giả chú trọng đến việc đo lường các biến, thu thập và đánh giá thông tin từ nhiều khía cạnh khác nhau nhằm đưa ra kết quả khách quan nhất Bằng cách kế thừa và tham khảo các kết quả từ những nghiên cứu liên quan, tác giả mong muốn thiết lập một mô hình nghiên cứu phù hợp và đầy đủ hơn, góp phần bổ sung vào các nghiên cứu trước đó.
Chương 1 đã tổng hợp những nghiên cứu có liên quan về sự tác động của đặc điểm HĐQT đến hành vi QTLN được thực hiện trong và ngoài nước Thông qua những nghiên cứu được trình bày trong chương này, có thể thấy rằng mối quan hệ giữa đặc điểm HĐQT và hành vi QTLN từ lâu đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới Ở Việt Nam, chủ đề về QTLN cũng thu hút nhiều nhà nghiên cứu nhưng đi sâu tìm hiểu về ảnh hưởng của đặc điểm HĐQT đến hành vi QTLN vẫn còn khá ít công trình Đặc biệt, sự ảnh hưởng của thành viên HĐQT nước ngoài đến hành vi QTLN ở các CTNY tại Việt Nam vẫn chưa được tìm hiểu Do đó, trong luận văn này, người viết sẽ tiến hành kiểm tra mối quan hệ giữa đặc điểm HĐQT và hành vi QTLN Đặc điểm HĐQT được thể hiện thông qua các nhân tố: quy mô HĐQT, sự kiêm nhiệm giữa Chủ tịch HĐQT và TGĐ, tính độc lập của HĐQT, thành viên nữ trong HĐQT, mức độ chuyên môn tài chính của HĐQT, số lần họp của HĐQT và đáng chú ý trong đặc điểm HĐQT là sự hiện diện của thành viên nước ngoài Ngoài ra, người viết tiếp tục kế thừa các nghiên cứu trước, sử dụng một số nhân tố thuộc đặc điểm công ty làm biến kiểm soát trong mô hình: loại công ty kiểm toán, quy mô công ty, đòn bẩy tài chính, ROA và dòng tiền từ hoạt động kinh doanh Đây là những biến không thể bỏ qua vì sự tác động của chúng đối với mô hình nghiên cứu sẽ giúp kết quả phân tích được chính xác và có ý nghĩa hơn.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Các khái niệm chính
Hiện nay, công ty cổ phần đang trở thành một hình thức doanh nghiệp phổ biến trên toàn cầu Trong loại hình doanh nghiệp này, Hội đồng quản trị (HĐQT) đóng vai trò thiết yếu trong cấu trúc quản trị công ty.
Hội đồng quản trị (HĐQT) là một hệ thống quản lý và định hướng quan trọng, có vai trò thúc đẩy sự phát triển bền vững của doanh nghiệp trong một thị trường minh bạch, với sự tham gia tích cực của các cổ đông.
Theo Luật Doanh nghiệp 2014, Hội đồng quản trị (HĐQT) là cơ quan quản lý của doanh nghiệp, có quyền quyết định và thực hiện các quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp mà không thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông.
Nghiên cứu của Rezaee (2004) chỉ ra rằng vai trò của Hội đồng quản trị (HĐQT) bao gồm giám sát các kế hoạch và hành động của Ban điều hành, đảm bảo nguồn vốn đầu tư, ngăn chặn sự tập trung quyền lực vào một nhóm nhỏ trong Ban điều hành cấp cao, và thiết lập hệ thống kiểm soát cùng với cơ chế cân bằng quyền lực.
Lợi nhuận đã được nghiên cứu qua nhiều trường phái kinh tế khác nhau từ thời kỳ trước Marx, bao gồm trường phái trọng thương, trọng nông, tư sản cổ điển Anh, đến các trường phái như kinh tế chính trị học tiểu tư sản và Marxist Trong số đó, Samuelson, một nhà kinh tế học nổi bật của trường phái hiện đại, định nghĩa lợi nhuận là khoản thu nhập dôi ra, được tính bằng tổng thu nhập trừ đi tổng chi phí, cụ thể là chênh lệch giữa tổng thu và tổng chi (Samuelson, 1989).
Theo Dechow (1994), lợi nhuận được coi là thước đo tóm tắt hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, dựa trên nguyên tắc kế toán dồn tích Đây là chỉ tiêu quan trọng mà nhiều đối tượng khác nhau sử dụng để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Theo VAS 17, lợi nhuận kế toán là khoản lợi nhuận hoặc lỗ của một kỳ, được xác định trước khi trừ thuế thu nhập doanh nghiệp Khoản lợi nhuận này tuân theo quy định của chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán hiện hành.
Lợi nhuận được hiểu là sự chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà doanh nghiệp phải chi ra để đạt được doanh thu trong một khoảng thời gian nhất định, theo quan điểm của các nhà kinh tế học (Học viện Tài chính, 2015).
Để xác định sự tồn tại của hành vi QTLN tại các CTNY trên HOSE, lợi nhuận trong bài viết này được hiểu theo VAS 17, định nghĩa rằng "lợi nhuận kế toán là lợi nhuận hoặc lỗ của một kỳ, trước khi trừ thuế thu nhập doanh nghiệp, được xác định theo quy định của chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán."
Hành vi QTLN đã được nghiên cứu rộng rãi trên toàn cầu, nhưng vẫn chưa có định nghĩa thống nhất cho hành vi này Mỗi định nghĩa được đưa ra thường phù hợp với mục đích nghiên cứu của từng nhà khoa học (Noronha và cộng sự, 2008).
QTLN, theo Schipper (1989), là hành vi của nhà quản lý sử dụng sức ảnh hưởng để can thiệp vào việc áp dụng các chính sách kế toán nhằm thu lợi cá nhân Levitt (1998) định nghĩa QTLN là hành động làm cho báo cáo tài chính (BCTC) phản ánh mong muốn của nhà quản trị hơn là tình hình tài chính thực tế của doanh nghiệp Healy và Wahlen (1999) mở rộng định nghĩa này, cho rằng QTLN bao gồm cả việc chi phối thông qua các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, xảy ra khi nhà quản lý áp dụng những xét đoán của mình trên BCTC và cơ cấu nghiệp vụ kinh tế để thay đổi BCTC, gây hiểu nhầm về tình trạng hoạt động của doanh nghiệp hoặc tác động đến kết quả các hợp đồng dựa vào số liệu báo cáo kế toán.
Trong thế kỷ 21, các quan điểm về QTLN đã trở nên đa dạng hơn, với Ronen và Yaari (2008) cho rằng hành vi này không phải lúc nào cũng tiêu cực, mà có thể là nỗ lực điều tiết chi phí để đạt mục tiêu doanh số Miettinen (2008) định nghĩa QTLN là kế hoạch của ban điều hành nhằm điều chỉnh lợi nhuận để đáp ứng các mục tiêu đã đặt ra, liên quan đến khuyến khích cho nhà quản lý hoặc điều khoản hợp đồng tín dụng Cornett và cộng sự (2008) xem QTLN như một biện pháp dự đoán nhằm tránh vỡ nợ và giảm chi phí pháp lý Blom (2009) xác định QTLN là sự can thiệp có mục đích của ban quản lý trong báo cáo tài chính để thu lợi cho cá nhân hoặc tổ chức Gulzar (2011) nhấn mạnh rằng QTLN liên quan đến việc lựa chọn chính sách và ước tính kế toán theo nguyên tắc kế toán chấp nhận chung, không chỉ thông qua số liệu mà còn qua các giao dịch kinh tế, ảnh hưởng đến lợi nhuận trên báo cáo tài chính.
Hành vi quản trị lợi nhuận (QTLN) có thể diễn ra trong hoặc ngoài các quy định và chuẩn mực kế toán, nhằm giúp nhà quản trị đạt được mục tiêu lợi nhuận thông qua các công cụ kế toán Tuy nhiên, việc cố ý điều chỉnh lợi nhuận bằng cách tác động vào các khoản dồn tích hoặc các nghiệp vụ kinh tế phát sinh có thể gây nhầm lẫn cho người sử dụng thông tin Do đó, cần kiểm soát hành vi này để nâng cao chất lượng thông tin trên báo cáo tài chính (BCTC).
Theo định nghĩa của Healy và Wahlen (1999), hành vi QTLN được phân chia thành hai loại chính: QTLN dựa trên cơ sở dồn tích và QTLN thông qua các nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
Ngô Hoàng Điệp (2018) cho rằng QTLN dựa trên cơ sở dồn tích là hành vi mà người quản lý linh hoạt áp dụng các chính sách kế toán, như chính sách hàng tồn kho, ghi nhận doanh thu và chi phí vốn hóa, nhằm ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
Mô hình đo lường hành vi quản trị lợi nhuận
Để phát hiện hành vi quản lý lợi nhuận (QTLN), một phương pháp phổ biến là so sánh chênh lệch giữa tổng dồn tích (TA) và các khoản dồn tích hợp lý (NDA) tại doanh nghiệp Trong đó, NDA là những khoản dồn tích được thực hiện theo nguyên tắc kế toán, còn DA là những khoản dồn tích do người quản lý tạo ra nhằm thay đổi lợi nhuận của doanh nghiệp.
Trên thế giới, có nhiều mô hình đo lường hành vi QTLN dựa trên biến DA, với mục tiêu chính là tính toán giá trị của NDA Dưới đây là một số mô hình phổ biến được trình bày cụ thể.
Healy (1985) được coi là người tiên phong trong việc đo lường hành vi chất lượng thông qua việc sử dụng phân tích dữ liệu Ông cho rằng, sự khác biệt giữa lợi nhuận báo cáo và dòng tiền từ hoạt động kinh doanh chính là chỉ số phản ánh chất lượng lợi nhuận, do QTLN được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định.
NDA và DA là hai biến khó quan sát, do đó cần giả định rằng NDA là phần dồn tích không thay đổi qua các năm và không bị ảnh hưởng bởi nhà quản trị Trong khi đó, DA xét về dài hạn tổng sẽ bằng không Nếu TA khác 0, điều này thể hiện sự hiện diện của QTLN NDA của năm sự kiện được tính toán là phần TA trung bình trong kỳ ước tính.
NDAit: Phần dồn tích không thể điều chỉnh của công ty i năm t
DAit: Phần dồn tích có thể điều chỉnh của công ty i năm t
TAit: Tổng dồn tích của công ty i năm t
Ait-1: Tổng tài sản của công ty i cuối năm t-1 n: Số năm trong kỳ ước tính t: Năm thứ t (t = 1, 2, 3…, n)
Mô hình của Healy (1985) là một trong những mô hình đầu tiên được sử dụng để tính toán và phát hiện hành vi QTLN, với ưu điểm là đơn giản và dễ tính toán Tuy nhiên, mô hình này còn nhiều thiếu sót, đặc biệt là giả định rằng NDA không thay đổi theo thời gian, trong khi thực tế cho thấy NDA liên quan mật thiết đến mức độ hoạt động của đơn vị Khi mức độ hoạt động thay đổi, NDA cũng sẽ biến động, dẫn đến việc NDA không chính xác có thể gây ra sai lệch trong DA và làm cho các kết luận về hành vi QTLN trở nên không chính xác.
Mô hình của DeAngelo (1986) khác biệt so với mô hình của Healy (1985) ở chỗ: NDA được đo lường theo giá trị biến TAt-1 chứ không phải trung bình của biến
TAt trong giai đoạn nghiên cứu
DeAngelo (1986) cho rằng dồn tích bình thường NDA phát sinh là ngẫu nhiên
Sự khác biệt giữa NDA ở thời điểm t và thời điểm t-1 chính là DA và cũng chính là biểu hiện của hành vi QTLN
NDAit: Phần dồn tích không thể điều chỉnh của công ty i năm t
DAit: Phần dồn tích có thể điều chỉnh của công ty i năm t
TAit-1: Tổng dồn tích của công ty i năm t-1
Ait-1: Tổng tài sản của công ty i cuối năm t-1
Mô hình DeAngelo (1986) đã phát triển hơn so với mô hình Healy (1985), tuy nhiên, nó vẫn gặp hạn chế khi giả định rằng NDA không thay đổi theo thời gian, dẫn đến kết quả không chính xác.
Khắc phục nhược điểm các mô hình trước đó của Healy (1985) và DeAngelo
Vào năm 1986, Jones đã phát triển một mô hình mới, và đến năm 1991, ông tiếp tục hoàn thiện mô hình này bằng cách xem xét ảnh hưởng của mức độ hoạt động kinh doanh đối với NDA Mô hình Jones (1991) cung cấp cách tính toán NDA cho năm sự kiện t một cách chi tiết.
NDAit: Phần dồn tích không thể điều chỉnh của công ty i năm t
∆REVit: Doanh thu năm t trừ doanh thu năm t-1 của công ty i PPEit: Nguyên giá tài sản cố định (TSCĐ) hữu hình của công ty i cuối năm t
Ait-1: Tổng tài sản của công ty i cuối năm t-1
Các tham số ∝1, ∝2, ∝3 trong công thức tính NDA được xác định thông qua phương pháp hồi quy OLS, trong khi sai số ước tính của công ty i tại năm t được ký hiệu là ɛit.
TAit: Tổng dồn tích của công ty i năm t
∆REVit: Doanh thu năm t trừ doanh thu năm t-1 của công ty i PPEit: Nguyên giá TSCĐ hữu hình của công ty i cuối năm t
Ait-1: Tổng tài sản của công ty i cuối năm t-1 a1, a2, a3: Tham số ước tính ɛit: Sai số ước tính của công ty i năm t
Mô hình Jones (1991) đã khắc phục được hạn chế lớn nhất của mô hình Healy
Mô hình DeAngelo (1986) và nghiên cứu năm 1985 đã loại bỏ giả định rằng NDA không thay đổi theo thời gian Để kiểm soát những biến động trong NDA khi điều kiện doanh nghiệp thay đổi, ∆REV và PPE được đưa vào mô hình.
Mô hình này có hạn chế khi coi doanh thu là đại diện cho NDA, vì nhà quản trị vẫn có khả năng điều chỉnh thời điểm ghi nhận doanh thu, từ đó ảnh hưởng đến lợi nhuận trong kỳ kế toán.
2.2.4 Các mô hình cải tiến của Jones (1991)
Mô hình Jones điều chỉnh của Dechow và cộng sự (1995) được phát triển để khắc phục những hạn chế của mô hình Jones gốc (1991), vốn cho rằng doanh thu không thể điều chỉnh Các nhà nghiên cứu đã cải tiến mô hình này bằng cách bổ sung yếu tố nợ phải thu, tạo ra khoản dồn tích bình thường Công thức của mô hình này được trình bày rõ ràng dưới đây.
NDAit: Phần dồn tích không thể điều chỉnh của công ty i năm t
∆REVit: Doanh thu năm t trừ doanh thu năm t-1 của công ty i
∆RECit: Phải thu khách hàng năm t trừ phải thu khách hàng năm t-1 của công ty i PPEit: Nguyên giá TSCĐ hữu hình của công ty i cuối năm t
Ait-1: Tổng tài sản của công ty i cuối năm t-1
Các tham số ∝1, ∝2, ∝3 trong công thức tính NDA được ước tính thông qua hồi quy OLS từ mô hình gốc của Jones (1991), không phải từ mô hình đã điều chỉnh Điều này rất quan trọng cần lưu ý khi thực hiện các phép tính liên quan đến các tham số này.
TAit: Tổng dồn tích của công ty i năm t
∆REVit: Doanh thu năm t trừ doanh thu năm t-1 của công ty i PPEit: Nguyên giá TSCĐ hữu hình của công ty i cuối năm t
Tổng tài sản của công ty i vào cuối năm t-1 được biểu thị bằng a1, a2, a3, trong đó ɛit là sai số ước tính của công ty i trong năm t Nghiên cứu của Dechow và cộng sự (1995) đã chỉ ra rằng mô hình cải tiến của họ phát hiện hành vi chất lượng thu nhập (QTLN) tốt hơn so với các mô hình trước đó như Jones (1991), Healy (1985) và DeAngelo.
Nhiều nghiên cứu, bao gồm cả nghiên cứu của Chen (2010), đã chỉ ra rằng mô hình Jones điều chỉnh của Dechow và các cộng sự (1995) là một trong những mô hình phổ biến và hiệu quả nhất để đo lường lợi nhuận bất thường (DA).
Kothari, Leone và Wasley (2005) đã cải tiến mô hình của Jones (1991) và mô hình Jones điều chỉnh của Dechow, Sloan và Sweedney (1995) bằng cách bổ sung biến ROA Nghiên cứu này nhằm mục đích phân tích mối quan hệ giữa biến dồn tích và hiệu suất hoạt động của công ty Kothari và cộng sự (2005) đã chứng minh rằng việc thêm biến ROA vào mô hình không chỉ nâng cao hiệu quả mà còn giúp các nhà nghiên cứu rút ra những kết luận đáng tin cậy hơn.
TAit: Tổng dồn tích của công ty i năm t
∆REVit: Doanh thu năm t trừ doanh thu năm t-1 của công ty i
∆RECit: Phải thu khách hàng năm t trừ phải thu khách hàng năm t-1 của công ty i PPEit: Nguyên giá TSCĐ hữu hình của công ty i cuối năm t
ROAit-1: Lợi nhuận trên tổng tài sản của công ty i cuối năm t-1
Ait-1: Tổng tài sản của công ty i cuối năm t-1
∝1, ∝2, ∝3: Tham số ước tính ɛit: Sai số ước tính của công ty i năm t
2.2.5 Mô hình đo lường quản trị lợi nhuận thực của Roychowdhury (2006)
Các lý thuyết nền tảng
Lý thuyết ủy nhiệm, được phát triển bởi Jensen và Meckling vào năm 1976, nghiên cứu mối quan hệ giữa bên ủy nhiệm và bên được ủy nhiệm Lý thuyết này đặc biệt rõ nét trong mối quan hệ giữa cổ đông và nhà quản lý doanh nghiệp, cũng như giữa chủ nợ và cổ đông của công ty.
Jensen và Meckling (1976) chỉ ra rằng trong mối quan hệ ủy nhiệm, cả hai bên đều mong muốn tối đa hóa lợi ích của mình, dẫn đến việc bên đại diện cần hành xử để tối ưu hóa lợi ích cho bên ủy nhiệm Xu hướng này cho thấy rằng người quản lý không phải lúc nào cũng hành động vì lợi ích tốt nhất của chủ sở hữu Những vấn đề phát sinh giữa bên ủy nhiệm và bên được ủy nhiệm tạo ra chi phí ủy nhiệm, bao gồm ba loại: chi phí giám sát, chi phí liên kết và các chi phí khác.
Để giảm chi phí ủy nhiệm, các giải pháp hiệu quả bao gồm việc ký kết hợp đồng giữa cổ đông và nhà quản lý nhằm khuyến khích tối đa hóa giá trị thị trường và lợi nhuận công ty Việc thiết lập cơ chế đãi ngộ hợp lý và giám sát hiệu quả giúp hạn chế xung đột lợi ích giữa cổ đông và nhà quản lý, ngăn chặn hành vi tư lợi Tuy nhiên, nhiều kế hoạch khen thưởng cho nhà quản lý dựa vào số liệu kế toán, dẫn đến nguy cơ họ có thể can thiệp vào báo cáo tài chính để phục vụ lợi ích cá nhân Đối với mối quan hệ giữa cổ đông và chủ nợ, chủ nợ có thể áp dụng biện pháp bảo vệ bằng giá thông qua lãi suất hoặc thêm điều khoản hạn chế vào hợp đồng như kiểm soát chia cổ tức và chính sách tài trợ, đồng thời yêu cầu cung cấp thông tin để giám sát hoạt động doanh nghiệp Tuy nhiên, việc áp dụng các điều khoản này cũng cần dựa trên số liệu kế toán, khiến nhà quản lý có khả năng điều chỉnh chính sách kế toán để có lợi cho mình, đặc biệt trong thời điểm tài chính khó khăn.
Lý thuyết ủy nhiệm cho thấy mâu thuẫn giữa bên ủy nhiệm và bên được ủy nhiệm, khi nhà quản lý có thể điều chỉnh lợi nhuận vì mục đích cá nhân, dẫn đến thông tin sai lệch cho cổ đông và ảnh hưởng tiêu cực đến quyết định của người sử dụng Trong luận văn này, lý thuyết ủy nhiệm được áp dụng để phân tích ảnh hưởng của việc kiêm nhiệm chức danh Chủ tịch HĐQT và TGĐ, quy mô HĐQT, tính độc lập của HĐQT, số lượng cuộc họp và sự hiện diện của thành viên nước ngoài đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận Người viết cho rằng việc kiêm nhiệm giữa Chủ tịch HĐQT và TGĐ làm tăng khả năng xảy ra hành vi điều chỉnh lợi nhuận Ngược lại, công ty có nhiều thành viên HĐQT, tỷ lệ thành viên độc lập cao và số lượng cuộc họp nhiều sẽ giúp kiểm soát hành vi này, từ đó giảm mức độ điều chỉnh lợi nhuận Sự tham gia của thành viên nước ngoài trong HĐQT cũng góp phần hạn chế hành vi điều chỉnh lợi nhuận.
Lý thuyết tín hiệu do Spence (1973) giới thiệu nhằm giải thích sự bất cân xứng thông tin trong thị trường lao động và được áp dụng để hiểu việc công bố thông tin trong báo cáo công ty (Ross, 1977) Bất cân xứng thông tin xảy ra khi các công ty cung cấp thông tin cho nhà đầu tư để thể hiện sự vượt trội so với đối thủ, nhằm thu hút đầu tư và nâng cao danh tiếng (Verrecchia, 1983) Để báo hiệu rằng công ty của họ tốt hơn, nhiều công ty thường công bố thông tin vượt xa yêu cầu pháp lý (Campbell và cộng sự, 2001).
Nghiên cứu của Morris (1987) về lý thuyết tín hiệu cho thấy các công ty có chất lượng cao thường chọn các chính sách kế toán nhằm công bố thông tin tốt, trong khi các công ty chất lượng thấp có xu hướng giấu thông tin xấu Để nâng cao hình ảnh và chất lượng hoạt động, các công ty thường công bố thông tin một cách chiến lược, chủ yếu là những thông tin tích cực để thu hút sự chú ý từ các bên liên quan.
Trong luận văn này, tác giả áp dụng lý thuyết tín hiệu để phân tích ảnh hưởng của loại công ty kiểm toán, quy mô doanh nghiệp, đòn bẩy tài chính, ROA và dòng tiền từ hoạt động kinh doanh đến hành vi quản trị lợi nhuận (QTLN) Do sự không cân xứng thông tin giữa các bên, người quản lý thường có xu hướng cung cấp thông tin theo cách có lợi nhất cho họ Vì lý do này, tác giả dự đoán rằng các công ty có quy mô lớn hơn, ROA cao hơn và đòn bẩy tài chính lớn hơn sẽ có khả năng cao hơn trong việc thực hiện hành vi QTLN Các công ty được kiểm toán bởi các công ty kiểm toán lớn (Big Four) sẽ càng thể hiện rõ điều này.
4 và có dòng tiền từ hoạt động kinh doanh càng lớn thì QTLN sẽ thấp hơn
2.3.3 Lý thuyết phụ thuộc nguồn lực
Lý thuyết phụ thuộc nguồn lực cung cấp nền tảng về vai trò nguồn lực của HĐQT, được Pfeffer và Salancik xây dựng vào năm 1978
Lý thuyết cho rằng Hội đồng quản trị (HĐQT) cần quản lý sự phụ thuộc giữa các tổ chức để đảm bảo có đủ nguồn lực và thông tin cần thiết HĐQT lý tưởng nên bao gồm nhiều cá nhân từ bên ngoài, như các chuyên gia kinh doanh và cộng đồng có ảnh hưởng, nhằm tăng cường khả năng tiếp cận các nguồn lực quan trọng cho công ty (Hillman và cộng sự, 2000).
Theo nghiên cứu của Peasnell và cộng sự (2005), các doanh nghiệp có Hội đồng Quản trị (HĐQT) lớn hoặc đa dạng sẽ dễ dàng duy trì các nguồn lực quan trọng như vốn lao động và vốn xã hội Trong khi đó, Erhardt và cộng sự (2003) nhấn mạnh rằng sự đa dạng trong HĐQT không chỉ thể hiện qua giới tính và độ tuổi mà còn bao gồm dân tộc, kinh nghiệm, ngành nghề, trình độ chuyên môn và học vấn.
Lý thuyết phụ thuộc nguồn lực nhấn mạnh vai trò thiết yếu của Hội đồng quản trị (HĐQT) trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động và sự bền vững của công ty Nghiên cứu này tập trung phân tích ảnh hưởng của các đặc điểm HĐQT đến hành vi quản trị, bao gồm tính độc lập của HĐQT, sự kiêm nhiệm giữa Chủ tịch HĐQT và Tổng Giám đốc, quy mô HĐQT, số lượng cuộc họp, trình độ chuyên môn tài chính và tỷ lệ thành viên nữ trong HĐQT.
Theo lý thuyết phụ thuộc nguồn lực, các công ty có tính độc lập cao trong Hội đồng Quản trị (HĐQT) sẽ đạt được hiệu quả tốt hơn Việc không có sự kiêm nhiệm giữa các thành viên HĐQT cũng góp phần nâng cao tính độc lập và quản lý hiệu quả.
Khi TGĐ và chủ tịch HĐQT không có khả năng thông đồng để phục vụ lợi ích cá nhân, mức độ quản lý giám sát (QTLN) sẽ giảm Thêm vào đó, quy mô lớn của HĐQT, chuyên môn tài chính cao, số lượng cuộc họp nhiều và sự tham gia của nhiều thành viên nữ trong HĐQT sẽ cải thiện khả năng quản lý giám sát, từ đó làm giảm mức độ QTLN.
Mô hình nghiên cứu
Dựa trên mô hình nghiên cứu của Moradi và cộng sự (2012), bài viết kế thừa một số biến quan trọng để thu thập thông tin, bao gồm quy mô HĐQT, sự kiêm nhiệm giữa Chủ tịch HĐQT và TGĐ, và tỷ lệ thành viên nữ trong HĐQT Các biến kiểm soát được xem xét gồm loại công ty kiểm toán, quy mô công ty, đòn bẩy tài chính, ROA và dòng tiền từ hoạt động kinh doanh Ngoài ra, bài viết còn bổ sung các biến đặc trưng như tính độc lập của HĐQT, mức độ chuyên môn tài chính và số lần họp của HĐQT (theo Haniffa và cộng sự, 2006; Bala và Kumai, 2015) Đặc biệt, sự hiện diện của thành viên nước ngoài trong HĐQT, được kế thừa từ nghiên cứu của Hooghiemstra và cộng sự (2019), là một yếu tố quan trọng cần xem xét trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu.
Bài viết tổng hợp các biến nghiên cứu trong mô hình, bao gồm biến phụ thuộc là DA và 7 biến độc lập: quy mô Hội đồng quản trị (HĐQT), sự kiêm nhiệm giữa Chủ tịch HĐQT và Tổng giám đốc, tính độc lập của HĐQT, thành viên nữ trong HĐQT, mức độ chuyên môn tài chính của HĐQT, số lần họp của HĐQT, và thành viên HĐQT là người nước ngoài Ngoài ra, còn có 5 biến kiểm soát: loại công ty kiểm toán, quy mô công ty, đòn bẩy tài chính, ROA và dòng tiền từ hoạt động kinh doanh.
Mô hình nghiên cứu chính thức như sau:
Hình 2.1 Mô hình nghiên cứu
Nguồn: Người viết xây dựng
Giả thuyết nghiên cứu
2.5.1 Quy mô hội đồng quản trị
Nghiên cứu cho thấy quy mô Hội đồng quản trị (HĐQT) có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng thông tin tài chính (QTLN) Cụ thể, các nghiên cứu của Kao và Chen (2004), Haniffa và cộng sự (2006), Liu (2012), González và García-Meca (2014), Kankanamage (2015), cùng với Bùi Văn Dương và Ngô Hoàng Điệp (2017) đều chỉ ra rằng doanh nghiệp có quy mô HĐQT lớn hơn thường đạt được mức độ QTLN cao hơn.
Sự kiêm nhiệm giữa Chủ tịch HĐQT và TGĐ
Tính độc lập của HĐQT
Thành viên nữ trong HĐQT
Mức độ chuyên môn tài chính của HĐQT
Số lần họp của HĐQT
Thành viên HĐQT là người nước ngoài
Loại công ty kiểm toán
Quy mô công ty Đòn bẩy tài chính
Tỷ suất sinh lời trên tài sản
The cash flow from business operations is a critical focus of research by various authors, including Chtourou et al (2001), Peasnell et al (2005), Ebrahim (2007), Houqe et al (2011), Abed et al (2012), Soliman and Ragab (2013), Hsu and Wen (2015), Bala and Kumai (2015), and Daghsni et al This body of work emphasizes the importance of understanding cash flow dynamics in enhancing financial performance and decision-making within organizations.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng quy mô hội đồng quản trị (HĐQT) có ảnh hưởng ngược chiều đến hành vi quản trị lợi nhuận (QTLN) của doanh nghiệp Các tác giả như Thinh và Tan (2019), Hamid và Bello (2019), cùng Hooghiemstra và cộng sự (2019) đã xác nhận điều này Ngoài ra, Saleh và cộng sự (2005) cùng Jaggi và cộng sự (2009) cũng đã đưa ra những kết luận tương tự về mối quan hệ này.
(2011), Nugroho và Eko (2012), Moradi và cộng sự (2012), Metawee (2013), Nguyễn Thị Phương Hồng (2016), Dang và cộng sự (2017), Sajjad (2017), Ngô Hoàng Điệp
Nghiên cứu của Al Azeez và cộng sự (2018, 2019) chỉ ra rằng không có mối liên hệ giữa quy mô Hội đồng quản trị (HĐQT) và hành vi quản trị lợi nhuận (QTLN) Tuy nhiên, các nghiên cứu khác đã khẳng định sự tồn tại của mối liên hệ này Do đó, tác giả đặt ra giả thuyết về mối quan hệ giữa QTLN và quy mô HĐQT.
H 1 : Công ty có quy mô HĐQT càng lớn thì mức độ QTLN càng thấp
2.5.2 Sự kiêm nhiệm giữa Chủ tịch hội đồng quản trị và Tổng Giám đốc Đa số các kết quả nghiên cứu đều đưa ra nhận định về sự tác động cùng chiều của việc kiêm nhiệm giữa Chủ tịch HĐQT và TGĐ đến hành vi QTLN Trong số đó có nghiên cứu của Saleh và cộng sự (2005), Gulzar (2011), Nugroho và Eko (2012), Soliman và Ragab (2013), Daghsni và cộng sự (2016), Nguyễn Thị Phương Hồng
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc kiêm nhiệm giữa Chủ tịch HĐQT và TGĐ có ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận (QTLN), như nghiên cứu của Dang và cộng sự (2016), Sajjad (2017), Hamid và Bello (2019), và Al Azeez cùng cộng sự (2019) Tuy nhiên, cũng có một số nghiên cứu cho thấy ảnh hưởng này là không đáng kể, điển hình là các công trình của Chtourou và cộng sự (2001), Kao và Chen (2004), Peasnell và cộng sự (2005), Ebrahim (2007), Jaggi và cộng sự (2009), Abed và cộng sự (2012), Moradi và cộng sự (2012), Metawee (2013), Fathi (2013), và González cùng García-Meca.
Dựa trên các nghiên cứu trước đây của Hsu và Wen (2014), Bùi Văn Dương và Ngô Hoàng Điệp (2017), cùng với các tác giả khác như Nguyễn Hà Linh (2017) và Hooghiemstra (2019), giả thuyết được đề xuất dựa trên những bằng chứng thực nghiệm đã được xác lập.
Công ty có sự kiêm nhiệm giữa Chủ tịch HĐQT và Tổng Giám Đốc thường có mức độ quản trị lãnh đạo cao hơn so với các công ty không có sự kiêm nhiệm này.
2.5.3 Tính độc lập của hội đồng quản trị
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ giữa tính độc lập của Hội đồng quản trị (HĐQT) và mức độ quản trị lợi nhuận (QTLN) của doanh nghiệp Cụ thể, Kao và Chen (2004) cùng Peasnell và cộng sự (2005) đã phát hiện tác động tiêu cực của tính độc lập HĐQT đến hành vi QTLN Nhiều tác giả khác như Ebrahim (2007), Jaggi và cộng sự (2009), Metawee (2013), Hsu và Wen (2015), Nguyễn Thị Phương Hồng (2016), Sajjad (2017), Al Azeez và cộng sự (2019) cũng đồng tình với nhận định này Ngược lại, nghiên cứu của Liu (2012) và Bala cùng Kumai cho thấy ảnh hưởng tích cực từ tính độc lập của HĐQT đến QTLN.
Một số nghiên cứu, như của Al-Rassas và Kamardin (2015), đã chỉ ra rằng không có mối liên hệ rõ ràng giữa tính độc lập của Hội đồng Quản trị (HĐQT) và chất lượng thông tin tài chính (QTLN) Các phân tích thực nghiệm cho thấy ảnh hưởng của yếu tố này đến QTLN là không đáng kể, như được chứng minh bởi các nghiên cứu của Chtourou và cộng sự (2001), Saleh và cộng sự (2005), và Haniffa và cộng sự.
(2006), Gulzar (2011), Houqe và cộng sự (2011), Abed và cộng sự (2012), Nugroho và Eko (2012), Soliman và Ragab (2013), Fathi (2013), González và García-Meca
Dựa trên các nghiên cứu của Daghsni (2014), Bùi Văn Dương và Ngô Hoàng Điệp (2017), Nguyễn Hà Linh (2017), Ngô Hoàng Điệp (2018), cùng với Thinh và Tan (2019), tác giả đề xuất một giả thuyết mới.
H 3 : Công ty có tính độc lập của HĐQT càng cao thì mức độ QTLN càng thấp
2.5.4 Thành viên nữ trong hội đồng quản trị
Nhiều nhà nghiên cứu đã phân tích ảnh hưởng của giới tính trong Hội đồng Quản trị (HĐQT) đến hành vi quản trị lợi nhuận (QTLN) của doanh nghiệp Các tác giả như Habbash (2010), Moradi và cộng sự (2012), Sajjad (2017), Thinh và Tan (2019), và Hooghiemstra cùng các đồng tác giả (2019) cho rằng mối quan hệ giữa tỷ lệ thành viên nữ trong HĐQT và hành vi QTLN là không đáng kể Ngược lại, một số nghiên cứu khác như của Gulzar (2011) và Lakhal cùng cộng sự (2015) chỉ ra những kết quả khác biệt, cho thấy cần tiếp tục điều tra sâu hơn về vấn đề này.
Nghiên cứu của Al Azeez và cộng sự (2018), cùng với các tác giả khác như Bala và Kumai (2015), Bùi Văn Dương và Ngô Hoàng Điệp (2017), đã chỉ ra những tác động trái chiều của tỷ lệ thành viên nữ trong HĐQT đến hành vi QTLN Trong khi một số nghiên cứu cho thấy ảnh hưởng tích cực, một số khác lại tìm thấy tác động tiêu cực Để làm rõ thêm vấn đề này, tác giả đề xuất giả thuyết về ảnh hưởng của thành viên nữ trong HĐQT đến hành vi QTLN.
H 4 : Công ty có tỷ lệ thành viên nữ trong HĐQT càng lớn thì mức độ QTLN càng thấp
2.5.5 Mức độ chuyên môn tài chính của hội đồng quản trị
Nghiên cứu của Bùi Văn Dương và Ngô Hoàng Điệp (2017), Thinh và Tan (2019) chỉ ra mối quan hệ cùng chiều giữa mức độ chuyên môn tài chính của HĐQT và hành vi QTLN, trong khi các tác giả như Kankanamage (2015), Bala và Kumai (2015), Nguyễn Thị Phương Hồng (2016), Ngô Hoàng Điệp (2018) lại phát hiện mối quan hệ ngược chiều Thêm vào đó, một số nghiên cứu khác như của Metawee (2013) cho thấy không có mối quan hệ rõ ràng giữa hai yếu tố này Để làm rõ hơn về mối quan hệ giữa mức độ chuyên môn tài chính của HĐQT và hành vi QTLN, tác giả đề xuất một giả thuyết mới.
H 5 : Công ty có mức độ chuyên môn tài chính của HĐQT càng cao thì mức độ QTLN càng thấp
2.5.6 Số lần họp của hội đồng quản trị
Nghiên cứu của Gulzar (2011) và Daghsni cùng cộng sự (2016) cho thấy mối quan hệ tích cực giữa số lần họp của HĐQT và hành vi QTLN Ngược lại, các nghiên cứu của González và García-Meca (2014), Kankanamage (2015), Ngô Hoàng Điệp (2018) lại chỉ ra rằng số lần họp của HĐQT có ảnh hưởng tiêu cực đến hành vi QTLN Hơn nữa, nhiều nghiên cứu khác như của Haniffa và cộng sự (2006), Ebrahim (2007), Habbash (2010), Metawee (2013), Nguyễn Thị Phương Hồng (2016), Bùi Văn Dương và Ngô Hoàng Điệp (2017), Thinh và Tan (2019) đã chứng minh không có mối quan hệ giữa số lần họp của HĐQT và hành vi QTLN Những bằng chứng này dẫn đến giả thuyết rằng
H 6 : Công ty có số lần họp của HĐQT càng nhiều thì mức độ QTLN càng thấp
2.5.7 Thành viên hội đồng quản trị là người nước ngoài