1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Khóa luận Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính

64 26 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 64
Dung lượng 0,96 MB

Cấu trúc

  • 1. Tính cấp thiết của đề tài (6)
  • 2. Tình hình nghiên c ứ u (6)
  • 3. M ục đích củ a Khóa lu ậ n (6)
  • 4. Đối tượ ng và ph ạ m vi nghiên c ứ u c ủ a Khóa lu ậ n (7)
    • 4.1. Đối tượng nghiên cứu (7)
    • 4.2. Ph ạ m vi nghiên c ứ u (7)
  • 5. Cơ sở khoa h ọc và phương pháp nghiên cứ u (7)
    • 5.1. V ề cơ sở khoa h ọ c (7)
    • 5.2. Về phương pháp nghiên cứu (7)
  • 6. Ý nghĩa lý luậ n và th ự c ti ễ n c ủ a Khóa lu ậ n (8)
  • 7. K ế t c ấ u c ủ a Khóa lu ậ n (8)
  • CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN (9)
    • 1.1. Sơ lược về sự hình thành của Viện kiểm sát nhân dân (9)
      • 1.1.1. Giai đoạ n t ừ năm 1945 đến năm 1959 (10)
      • 1.1.2. Giai đoạ n t ừ năm 1959 đến năm 1980 (13)
      • 1.1.3. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992 (14)
      • 1.1.4. Giai đoạ n t ừ năm 1992 đến năm 2001 (15)
      • 1.1.5. Giai đoạ n t ừ năm 2001 đến năm 2013 (17)
      • 1.1.6. Giai đoạ n t ừ năm 2014 đế n nay (18)
    • 1.2. V ị trí và ch ức năng củ a Vi ệ n ki ể m sát nhân dân (19)
    • 1.3. Nhi ệ m v ụ và quy ề n h ạ n c ủ a Vi ệ n ki ể m sát nhân dân trong t ố (25)
    • 1.4. Nguyên t ắ c t ổ ch ứ c và ho ạt độ ng c ủ a Vi ệ n ki ể m sát nhân dân . 28 1. Nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành (28)
      • 1.4.2. Nguyên tắc không lệ thuộc vào bất kỳ cơ quan nhà nước nào ở địa phương 30 CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM (30)
    • 2.1. Những thay đổi trong quan điểm về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong pháp luật tố tụng hành chính (33)
    • 2.2. Nh ững điể m m ớ i v ề vai trò c ủ a Vi ệ n ki ể m sát trong lu ậ t t ố t ụ ng hành chính 2015 (41)
      • 2.2.1. V ề s ự có m ặ t c ủ a Ki ể m sát viên t ạ i các phiên tòa, phiên h ọ p (41)
      • 2.2.2. Phát bi ể u c ủ a Ki ể m sát viên t ạ i các phiên tòa, phiên h ọ p (44)
      • 2.2.3. Ki ể m sát ho ạt độ ng thu th ậ p ch ứ ng c ứ và ch ứ ng minh trong (46)
      • 2.2.4. Ki ể m sát thi hành án hành chính (48)
    • 2.3. Điể m m ớ i v ề vai trò c ủ a Vi ệ n ki ể m sát nhân dân trong Lu ậ t T ổ (50)
  • CHƯƠNG 3: KIẾ N NGH Ị HOÀN THI Ệ N PHÁP LU Ậ T V Ề VI Ệ N (53)

Nội dung

Tính cấp thiết của đề tài

Viện kiểm sát nhân dân ra đời đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc kiểm soát việc tuân thủ pháp luật, nhằm đảm bảo pháp luật được thực thi nghiêm túc và đồng bộ, đồng thời bảo vệ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Ngành kiểm sát nhân dân ra đời nhằm bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, đồng thời đấu tranh chống lại các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm.

Việc xác định rõ vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng là rất cần thiết, giúp phát huy khả năng hoạt động của bộ máy Viện kiểm sát Đặc biệt trong tố tụng hành chính, vai trò của Viện kiểm sát cần được khẳng định và làm rõ, nhằm đảm bảo hoạt động xét xử hành chính diễn ra hiệu quả và giám sát quá trình thực thi pháp luật.

Tình hình nghiên c ứ u

Nhiều tác giả đã nghiên cứu về vị trí, vai trò và chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng, đặc biệt là trong lĩnh vực tố tụng hành chính Tuy nhiên, vẫn còn ít nghiên cứu tổng thể về vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động này.

M ục đích củ a Khóa lu ậ n

Khóa luận nghiên cứu vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính, bao gồm thẩm quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm và các phương thức thực thi Bài viết cũng phân tích thực trạng, ưu điểm và hạn chế của hệ thống pháp luật liên quan đến vai trò này Từ đó, khóa luận đưa ra các đề xuất và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính.

7 của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động xét xử hành chính nói riêng và trong tiến trình cải cách tư pháp nói chung ở Việt Nam hiện nay.

Đối tượ ng và ph ạ m vi nghiên c ứ u c ủ a Khóa lu ậ n

Đối tượng nghiên cứu

Khóa luận nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của

Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hành chính.

Ph ạ m vi nghiên c ứ u

Khóa luận tập trung phân tích và đánh giá các vấn đề lý luận về pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hành chính Nội dung chính của nghiên cứu là xem xét và đánh giá Luật tố tụng hành chính cùng với Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.

Cơ sở khoa h ọc và phương pháp nghiên cứ u

V ề cơ sở khoa h ọ c

Khóa luận được xây dựng dựa trên lý thuyết của chủ nghĩa Mác – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật Nó cũng xem xét quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Bên cạnh đó, nghiên cứu còn dựa trên các học thuyết và quan điểm khoa học pháp lý liên quan đến vai trò của Viện kiểm sát trong hệ thống pháp luật.

Về phương pháp nghiên cứu

Khóa luận áp dụng phương pháp duy vật biện chứng theo triết học Mác - Lenin, kết hợp với phương pháp phân tích và tổng hợp nhằm tạo ra sự liên kết giữa lý luận và thực tiễn Bên cạnh đó, nghiên cứu còn sử dụng các phương pháp khoa học khác như phương pháp lôgic, so sánh và đối chiếu để đảm bảo tính chính xác và sâu sắc trong quá trình nghiên cứu.

Ý nghĩa lý luậ n và th ự c ti ễ n c ủ a Khóa lu ậ n

Bài viết này góp phần làm rõ lý luận và thực tiễn trong việc đổi mới vị trí pháp lý và vai trò của Viện kiểm sát nhân dân, đồng thời hoàn thiện mô hình hoạt động của cơ quan này trong tố tụng hành chính.

Nâng cao chất lượng công tác kiểm sát trong việc giải quyết các vụ án hành chính là rất quan trọng, nhằm đảm bảo tính khách quan và tuân thủ pháp luật trong quá trình xét xử tại Tòa án.

Khóa luận không chỉ là tài liệu nghiên cứu và tham khảo hữu ích cho các nhà khoa học và chuyên gia thực tiễn, mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc giảng dạy và nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo khoa học pháp lý.

Đề tài này cung cấp tài liệu phản ánh các vấn đề thực tiễn, hỗ trợ liên ngành Viện kiểm sát và Tòa án trong việc nghiên cứu và ban hành thông tư, hướng dẫn nhằm khắc phục những bất cập trong áp dụng Bộ luật tố tụng hành chính Đồng thời, đề xuất với cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành chỉnh lý, sửa đổi và bổ sung Bộ luật, nhằm đảm bảo việc thực hiện pháp luật tố tụng hành chính được nghiêm chỉnh và thống nhất trên toàn quốc.

K ế t c ấ u c ủ a Khóa lu ậ n

Ngoài phần Lời nói đầu, mởđầu, kết luận, mục lục, danh mục tham khảo, Khóa luận gồm 3 chương

Chương I: Khái quát chung về Viện kiểm sát nhân dân

Chương II: Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính theo pháp luật Việt Nam

Chương III: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về Viện kiểm sát nhân dân

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

Sơ lược về sự hình thành của Viện kiểm sát nhân dân

Năm 1945, cuộc Tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám thành công đã giúp nước ta giành lại chính quyền, độc lập và tự do, nhưng chính quyền non trẻ vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh Trong bối cảnh rối ren, việc thành lập một cơ quan công tố là cần thiết để xử lý những vấn đề tồn đọng và kiểm soát hành vi của người dân Trên thế giới, cơ quan công tố đã xuất hiện từ sớm, bắt đầu từ thế kỷ 13 tại Pháp, với nhiệm vụ đại diện cho nhà Vua trong việc phát hiện và đưa các vụ vi phạm pháp luật ra Tòa án Dựa vào vai trò của cơ quan công tố trong bộ máy Nhà nước, mô hình Viện công tố được chia thành ba nhóm, trong đó một số nước có Viện kiểm sát nằm trong cơ cấu của Bộ Tư pháp.

Mỹ, Pháp, Nhật Bản và Hà Lan là những quốc gia mà cơ quan công tố hoàn toàn nằm trong hệ thống tư pháp, được tổ chức tại các Tòa án nhưng vẫn duy trì tính độc lập.

Tòa án có chức năng khác nhau ở các quốc gia như Tây Ban Nha và Bulgaria, trong khi một số nước như Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên và một số nước Mỹ Latinh lại có Viện kiểm sát hoặc cơ quan công tố hoạt động như một hệ thống riêng biệt, trực thuộc Quốc hội hoặc Nguyên thủ quốc gia.

Trong thời kỳ Pháp thuộc, Viện công tố được thành lập tại Việt Nam và tiếp tục tồn tại sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 trong cơ cấu tổ chức của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, vẫn chịu ảnh hưởng từ hệ thống pháp luật Pháp.

Hiến pháp năm 1946 tuy không đề cập đến Viện công tốnhưng trong cơ cấu của

Toà án có vai trò quan trọng trong việc xét xử các vụ án hình sự, với các Công tố viên đại diện cho Nhà nước để buộc tội Kể từ khi hoà bình được lập lại ở miền Bắc, hệ thống tư pháp đã có những thay đổi đáng kể nhằm đảm bảo công lý và quyền lợi cho người dân.

Năm 1958, Viện công tố được tách ra khỏi Toà án và trực thuộc Chính phủ, hình thành một hệ thống cơ quan Nhà nước độc lập từ Trung ương đến địa phương, với hoạt động chủ yếu là công tố trước Toà án Sau đó, nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, pháp luật cần được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, dẫn đến việc thành lập một loại hình cơ quan Nhà nước mới theo quy định của Hiến pháp năm 1959.

Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển, phản ánh sự tiến bộ của nhận thức và sự phát triển của xã hội Quá trình hình thành và phát triển của cơ quan này có thể được chia thành các giai đoạn lịch sử khác nhau, mỗi giai đoạn đều đáp ứng những yêu cầu thực tiễn cụ thể của thời kỳ đó.

1.1.1 Giai đoạn từnăm 1945 đến năm 1959

Sau khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành nhiều Sắc lệnh quan trọng về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp Một trong những Sắc lệnh đầu tiên là Sắc lệnh số 33A ngày 14/09/1945, quy định việc thông báo ngay cho ông Biện lý mỗi khi có hành động bắt người.

Thẩm phán làm nhiệm vụ công tố) [35]

Từ năm 1946 đến 1959, Nhà nước Việt Nam chưa thành lập cơ quan thực hành quyền công tố độc lập Hoạt động điều tra được thực hiện không chỉ bởi một cơ quan duy nhất mà còn bao gồm nhiều bộ phận khác nhau, như Kiểm soát viên Kiểm lâm.

Hoả xa, Thương chính và các viên chức khác được pháp luật giao nhiệm vụ cho tư pháp công an, có trách nhiệm xử lý các vụ việc phạm pháp theo từng ngành cụ thể.

3 sắc lệnh số 131) Trong cơ cấu Toà án, các Thẩm phán được chia làm hai loại:

- Các Thẩm phán xét xửdo Chánh án Toà thượng thẩm đứng đầu

Các Thẩm phán công tố viên, còn được gọi là Thẩm phán buộc tội, tạo thành một đoàn thể độc lập, được gọi là công tố viện, dưới sự lãnh đạo của Chưởng lý.

Vào cuối những năm 50, Viện công tố đã được kiện toàn và tăng cường một cách quan trọng, hình thành nên một hệ thống tổ chức mới.

- Viện công tố thành phố, tỉnh

- Viện công tố huyện và các đơn vịhành chính tương đương;

Viện công tố quân sự các cấp đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong tổ chức và hoạt động của Viện công tố, hướng tới việc thành lập Viện kiểm sát nhân dân vào giữa năm 1960 Trong giai đoạn này, toàn bộ hoạt động điều tra đều nằm dưới sự kiểm soát của Công tố Viện, với sự lãnh đạo trực tiếp của Biện lý, Phó Biện lý và Chưởng lý tại Toà thượng thẩm Quy định pháp luật cho thấy hoạt động điều tra thực chất là hoạt động công tố ở giai đoạn tiền công tố, giúp cơ quan công tố đại diện cho Nhà nước buộc tội người phạm tội trước Toà án Các nhân viên và cơ quan có thẩm quyền điều tra phải tuân theo sự chỉ đạo của Công tố Viện, không theo sự chỉ đạo của cơ quan chủ quản hành chính, và pháp luật cũng quy định đảm bảo rằng các cơ quan này phải tuân thủ chỉ đạo đó.

Theo Điều 13 của Sắc lệnh số 131, việc bổ sung, thăng thưởng và xử lý kỷ luật đối với các uỷ viên Tư pháp công an không phải là Thẩm phán viên phải được thực hiện sau khi có ý kiến của Biện lý và Chưởng lý.

Giai đoạn đầu của hoạt động điều tra (1945 – 1950) bao gồm điều tra ban đầu và điều tra thẩm cứu, với thẩm quyền điều tra ngày càng rõ ràng hơn cho các nhân viên và cơ quan có trách nhiệm Tuy nhiên, đối với những đối tượng có đặc quyền miễn trừ tư pháp như Thẩm phán, Bộ trưởng, Thứ trưởng và Đại biểu Quốc hội, thẩm quyền điều tra thuộc về Công tố Viện Pháp luật cũng quy định quyền chủ động cho Chưởng lý Toà thượng thẩm trong việc thực hiện điều tra của Công tố Viện.

V ị trí và ch ức năng củ a Vi ệ n ki ể m sát nhân dân

Ở nước ta, quyền tư pháp cùng với quyền lập pháp và quyền hành pháp tạo thành quyền lực thống nhất của Nhà nước, được quy định tại khoản 3 Điều 2:

Quyền lực nhà nước được thể hiện qua sự thống nhất và phân công rõ ràng giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp Mục tiêu của quyền tư pháp là xử lý vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp, nhằm duy trì trật tự pháp luật và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cá nhân, tổ chức Viện kiểm sát, mặc dù độc lập với các cơ quan hành pháp và tư pháp, nhưng không phải là cơ quan xét xử, mà chỉ có Tòa án mới thực hiện chức năng này Viện kiểm sát chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao, giúp ngăn chặn lạm dụng quyền hành và đảm bảo tính khách quan trong hoạt động tư pháp.

Viện kiểm sát thực hiện quyền công tố nhưng không phân định đúng sai như Tòa án, do đó không thể xếp vào nhánh tư pháp Việc phân chia quyền lực nhà nước thành ba nhánh nhằm rõ ràng quyền lực, nhưng sự độc lập với các nhánh khác dẫn đến mâu thuẫn Khi Viện kiểm sát được trao quyền lực công, đại diện cho nhà nước, thì không còn sự độc lập cần thiết như mục tiêu ban đầu Bản chất của quyền lực công này là thực hành quyền lực để thực hiện nhiệm vụ, nên có thể xem xét việc xếp Viện kiểm sát vào nhánh quyền lực hành pháp.

Vị trí của Viện kiểm sát nhân dân được xác lập rõ ràng trong Hiến pháp

Theo Điều 107 của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2013 và các nghị quyết liên quan, vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác định thông qua các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Điều này không chỉ thể hiện vai trò của Viện kiểm sát mà còn nhấn mạnh sự liên kết trong hoạt động của các cơ quan nhà nước tại Việt Nam.

1 Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.

2 Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các

Viện kiểm sát khác do luật định

3 Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.”

Bên cạnh đó, luật Tổ chức Viện kiểm sát cũng có quy định về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân như sau:

“Điề u 2 Ch ức năng, nhiệ m v ụ c ủ a Vi ệ n ki ể m sát nhân dân

1 Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủnghĩa Việt Nam

2 Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.”

Viện kiểm sát nhân dân đóng vai trò quan trọng trong Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với tổ chức và hoạt động được quy định cụ thể thông qua chức năng và nhiệm vụ của Viện.

Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương cũng thực hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp tại địa phương Đồng thời, các Viện kiểm sát quân sự thực hiện quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định pháp luật Điều 3 và 4 của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định rõ về chức năng và nhiệm vụ của các Viện kiểm sát.

Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình bằng những công tác sau đây:

“Điề u 3 Ch ức năng thự c hành quy ề n công t ố c ủ a Vi ệ n ki ể m sát nhân dân

1 Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người

Trong quá trình giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm, cũng như khi kiến nghị khởi tố, các hành vi phạm tội có thể xảy ra Điều này tiếp tục diễn ra xuyên suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự.

2 Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm: a) Mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội; b) Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật

3 Khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: a) Yêu cầu khởi tố, hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án trái pháp luật, phê chuẩn, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; trực tiếp khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong những trường hợp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định; b) Quyết định, phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra, truy tố theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; c) Hủy bỏ các quyết định tố tụng trái pháp luật khác trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra của

Cơ quan điều tra có nhiệm vụ thực hiện các hoạt động điều tra và có thể đề ra yêu cầu điều tra khi cần thiết.

Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu để làm rõ tội phạm và người phạm tội Đồng thời, Viện trực tiếp giải quyết các tố giác, tin báo về tội phạm và tiến hành điều tra để xác định căn cứ buộc tội Ngoài ra, Viện còn điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp và các tội phạm tham nhũng, chức vụ theo quy định của pháp luật Viện cũng có quyền quyết định áp dụng thủ tục rút gọn trong giai đoạn điều tra, truy tố và quyết định truy tố, buộc tội bị cáo tại phiên tòa Trong trường hợp phát hiện oan, sai, hoặc bỏ lọt tội phạm, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án Cuối cùng, Viện thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác liên quan đến việc buộc tội theo Bộ luật tố tụng hình sự.

1 Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật

3 Khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: a) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tư pháp theo đúng quy định của pháp luật; tự kiểm tra việc tiến hành hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân; cung cấp hồ sơ, tài liệu để Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định trong hoạt động tư pháp; b) Trực tiếp kiểm sát; xác minh, thu thập tài liệu để làm rõ vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp; c) Xử lý vi phạm; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khắc phục, xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp; kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm; d) Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kiến nghị hành vi, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kháng nghị hành vi, quyết định có vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền khác trong hoạt động tư pháp; đ) Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền; e) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật.”

Nhi ệ m v ụ và quy ề n h ạ n c ủ a Vi ệ n ki ể m sát nhân dân trong t ố

Hiến pháp 2013 và Bộ luật Tố tụng hành chính 2015 xác định Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan có trách nhiệm kiểm sát việc tuân thủ pháp luật Để thực hiện hiệu quả các quyền năng và biện pháp, Nhà nước đã giao cho Viện kiểm sát nhân dân những nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể.

Nhiệm vụ, theo Đại Từ điển tiếng Việt, được định nghĩa là công việc cần thực hiện với mục đích cụ thể trong khoảng thời gian nhất định Điều này có nghĩa là nhiệm vụ là những công việc bắt buộc phải hoàn thành trong thời gian quy định.

Nhiệm vụ của chủ thể trong quan hệ xã hội được xác định bởi pháp luật và phụ thuộc vào tư cách của chủ thể đó Mỗi chủ thể có thể có những nhiệm vụ khác nhau tùy thuộc vào các mối quan hệ xã hội mà họ tham gia Đối với Viện kiểm sát nhân dân, nhiệm vụ của cơ quan này bao gồm các hoạt động cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định, nhằm thực hiện chức năng và nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.

Nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính được Nhà nước quy định cụ thể trong Hiến pháp và Luật Tổ chức, nhằm đảm bảo tính công bằng và minh bạch trong quá trình giải quyết các vụ án hành chính.

Viện Kiểm sát nhân dân có trách nhiệm thực hiện Luật Tố tụng hành chính và các văn bản pháp luật liên quan thông qua các giải pháp, hình thức và phương thức cụ thể trong quá trình giải quyết vụ việc hành chính.

“Điề u 22 Trách nhi ệ m c ủa cơ quan tiế n hành t ố t ụng, ngườ i ti ế n hành t ố t ụ ng

1 Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải tôn trọng Nhân dân và chịu sự giám sát của Nhân dân

2 Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân

Viện kiểm sát đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ pháp luật, quyền con người và quyền công dân, đồng thời bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và lợi ích của Nhà nước Ngoài ra, Viện còn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

(Theo Luật Tố tụng hành chính 2015)

Quyền hạn là khái niệm chỉ quyền lực theo cương vị và chức vụ, được xác định theo phạm vi hoạt động, cấp bậc, vị trí công tác và các quy định pháp luật Theo Đại Từ điển tiếng Việt, quyền hạn liên quan đến cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân và thường gắn liền với một tư cách cụ thể Trong lĩnh vực pháp lý, quyền hạn của cơ quan, tổ chức bao gồm quyền quyết định và giải quyết công việc trong phạm vi thẩm quyền của mình, trong khi quyền hạn của cá nhân có thẩm quyền là quyền quyết định và giải quyết công việc trong phạm vi thẩm quyền của người đó.

Viện kiểm sát nhân dân có quyền hạn rõ ràng trong tố tụng hành chính, được quy định cụ thể trong các bộ luật và văn bản liên quan Vai trò của Viện kiểm sát là kiểm tra việc tuân thủ pháp luật trong quá trình tố tụng hành chính, nhằm đảm bảo việc giải quyết các vụ án hành chính diễn ra kịp thời và đúng theo quy định pháp luật.

“Điề u 25 Ki ể m sát vi ệ c tuân theo pháp lu ậ t trong t ố t ụ ng hành chính

1 Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hành chính kịp thời, đúng pháp luật

2 Viện kiểm sát kiểm sát vụ án hành chính từ khi thụ lý đến khi kết thúc việc giải quyết vụ án; tham gia các phiên tòa, phiên họp của Tòa án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong công tác thi hành bản án, quyết định của Tòa án; thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghịtheo quy định của pháp luật

3 Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi

Theo quy định, đối với những người dân sự bị hạn chế năng lực hành vi, hoặc có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, nếu không có ai đứng ra khởi kiện, Viện kiểm sát sẽ kiến nghị Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú cử người giám hộ để tiến hành khởi kiện vụ án hành chính, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ.

(Theo Luật Tố tụng hành chính 2015)

Nguyên t ắ c t ổ ch ứ c và ho ạt độ ng c ủ a Vi ệ n ki ể m sát nhân dân 28 1 Nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành

Viện kiểm sát nhân dân hoạt động dựa trên các nguyên tắc của bộ máy nhà nước, nhưng do chức năng và nhiệm vụ đặc thù, hệ thống này được tổ chức theo những nguyên tắc riêng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và đáp ứng tốt hơn yêu cầu bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa Các nguyên tắc này được quy định tại Điều 108, 109 của Hiến pháp năm 2013 và Điều 7 của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, bao gồm nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành và nguyên tắc độc lập, không phụ thuộc vào bất kỳ cơ quan nhà nước nào ở địa phương.

1.4.1 Nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành

Nguyên tắc tập trung dân chủ đảm bảo tính thống nhất của pháp chế, với các cơ quan nhà nước địa phương vừa trực thuộc Chính phủ hoặc Bộ chủ quản, vừa thuộc Hội đồng nhân dân hoặc ủy ban nhân dân địa phương Nguyên tắc này được gọi là nguyên tắc phụ thuộc hai chiều Tuy nhiên, Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam không tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc này, mà tuân theo nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành.

Theo nguyên tắc tổ chức, Viện kiểm sát nhân dân được lãnh đạo bởi Viện trưởng Viện trưởng của các Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới phải tuân theo sự lãnh đạo của Viện trưởng.

Viện kiểm sát nhân dân cấp trên Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa

Theo Điều 109 Hiến pháp 2013 và Điều 7 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao Các chức danh như Viện trưởng, Phó viện trưởng và Kiểm sát viên tại Viện kiểm sát nhân dân địa phương cũng nằm trong hệ thống lãnh đạo này.

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức các Điều tra viên của Viện kiểm sát quân sự quân khu và khu vực, theo quy định tại Điều 9 của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002.

“Điề u 7 Nguyên t ắ c t ổ ch ứ c và ho ạt độ ng c ủ a Vi ệ n ki ể m sát nhân dân

1 Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên Viện trưởng các Viện kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Viện kiểm sát cấp trên có nhiệm vụ kiểm tra và xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật từ Viện kiểm sát cấp dưới Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên có quyền rút, đình chỉ hoặc hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của Viện trưởng Viện kiểm sát cấp dưới, theo quy định tại Điều 109 Hiến pháp 2013.

1 Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên Viện trưởng các Viện kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao […]”.

Tất cả các Viện kiểm sát nhân dân đều hình thành một hệ thống thống nhất, với mọi hoạt động dưới sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân chịu trách nhiệm cá nhân về toàn bộ hoạt động của Viện kiểm sát mà mình lãnh đạo trước Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Viện kiểm sát nhân dân tối cao có trách nhiệm cá nhân đối với toàn bộ hoạt động của ngành kiểm sát, báo cáo trực tiếp trước Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.

Nguyên tắc tập trung và thống nhất lãnh đạo trong ngành kiểm sát đảm bảo cho các cấp thực hiện hoạt động đồng bộ và nhất quán, từ đó nâng cao hiệu quả trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát.

1.4.2 Nguyên tắc không lệ thuộc vào bất kỳ cơ quan nhà nước nào ở địa phương

Viện kiểm sát nhân dân hoạt động độc lập, không chịu sự chi phối từ bất kỳ cơ quan nhà nước nào tại địa phương, điều này liên quan chặt chẽ đến nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành Nguyên tắc này nhằm tạo điều kiện cho ngành kiểm sát thực hiện hiệu quả nhiệm vụ bảo đảm pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất Đồng thời, nguyên tắc cũng đảm bảo tính công bằng, vô tư, khách quan và nghiêm túc trong hoạt động giám sát, nhằm thực thi và chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật.

Viện kiểm sát nhân dân hoạt động độc lập, không bị chi phối bởi bất kỳ cơ quan nhà nước nào ở địa phương Chức năng và nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân chỉ chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đồng thời tuân thủ Hiến pháp, các đạo luật và văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ Việc thực hiện nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân dựa trên chỉ thị trực tiếp từ Viện trưởng.

Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoạt động độc lập, không chịu sự can thiệp từ các cơ quan nhà nước địa phương.

Theo Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương không hoàn toàn độc lập mà phải chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp Viện trưởng có trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân và trả lời chất vấn của các đại biểu về tình hình chấp hành pháp luật và hoạt động của Viện kiểm sát tại địa phương.

Những thay đổi trong quan điểm về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong pháp luật tố tụng hành chính

trong pháp luật tố tụng hành chính

Hiện nay, có nhiều ý kiến trái chiều về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính và dân sự Vai trò này đang được thảo luận sôi nổi trong cộng đồng pháp lý.

Viện kiểm sát luôn là chủ đề nóng trong các kỳ họp, với hai luồng ý kiến nổi bật từ các đại biểu Quốc hội.

Viện kiểm sát là cơ quan tiến hành tố tụng, trong khi đó phần ý kiến còn lại lại

34 phản bác nhận định này và khẳng định rằng, Viện kiểm sát hãy nên làm đúng vai trò của mình với tư cách là một cơ quan kiểm sát

Viện kiểm sát nhân dân đã thực hiện xuất sắc vai trò của mình trong việc tiến hành tố tụng và kiểm sát xét xử, vì vậy nhiều ý kiến cho rằng không cần thiết phải sửa đổi chức năng này và nên tiếp tục duy trì.

Trong tố tụng hành chính và dân sự, Viện kiểm sát chỉ thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, không phải là bên phân xử vụ kiện, khác với vai trò trong tố tụng hình sự Do đó, cần gọi Viện kiểm sát là cơ quan kiểm sát thay vì cơ quan tiến hành tố tụng Khái niệm cơ quan tiến hành tố tụng chỉ nên áp dụng trong tố tụng hình sự, nơi cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án thực hiện công quyền Nhiều người đồng tình với quan điểm này và mong muốn có sự thay đổi Viện kiểm sát can thiệp quá sâu vào vụ án hành chính có thể gây bất công và nhập nhằng trong giải quyết vụ án Chức năng kiểm sát hoạt động xét xử hành chính của Viện kiểm sát nhân dân được khẳng định trong Hiến pháp, là nội dung quan trọng trong hoạt động kiểm sát chung, đặc thù chỉ có ở các nước xã hội chủ nghĩa Sự cần thiết của một cơ quan độc lập giám sát hoạt động của cá nhân, tổ chức trong xã hội bắt nguồn từ nguyên lý tổ chức quyền lực nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, Tòa án không đảm nhận vai trò giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, đặc biệt là bộ máy hành chính, dẫn đến sự cần thiết của chức năng kiểm sát chung Chức năng này trở thành một công cụ quan trọng để kiểm soát các cơ quan hành chính Theo nhận định của các học giả phương Tây, thiết chế Viện kiểm sát chỉ xuất hiện trong các hệ thống hành chính của các nước xã hội chủ nghĩa, nơi mà vai trò của Tòa án không được phát huy.

Tòa án hành chính, hoặc có Tòa án hành chính nhưng chỉ phôi thai hay không được coi trọng lắm” [36]

Mặc dù nguyên lý tổ chức không thay đổi, chức năng kiểm sát chung của Viện kiểm sát đã bị bãi bỏ do trùng lặp với các hoạt động khác như thanh tra và giám sát Tuy nhiên, kiểm sát xét xử vẫn được duy trì vì nó vẫn cần thiết trong bối cảnh hoạt động xét xử gặp nhiều khó khăn do nguyên nhân khách quan và chủ quan Việc duy trì vai trò giám sát của Viện kiểm sát trong các phiên tòa là cần thiết để đảm bảo tính hợp pháp và vô tư trong quá trình xét xử của Tòa án.

Kiểm sát xét xử hiện nay có cần thiết hay không? Chức năng này có thể can thiệp vào hoạt động xét xử hành chính hay không? Câu trả lời phụ thuộc vào hoạt động và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình xét xử vụ án hành chính.

Viện kiểm sát đóng vai trò quan trọng trong hầu hết các giai đoạn của quá trình tố tụng hành chính Theo quy định, có những vụ án mà sự hiện diện của Viện kiểm sát là bắt buộc.

Viện kiểm sát có trách nhiệm tham gia vào các vụ án ở cấp sơ thẩm mà họ khởi kiện, bao gồm cả những vụ án liên quan đến người chưa thành niên hoặc những người có nhược điểm về thể chất, tinh thần Ngoài ra, Viện kiểm sát cũng tham gia vào các vụ án áp dụng biện pháp cưỡng chế hành chính đặc biệt Tại cấp phúc thẩm, Viện kiểm sát sẽ tiếp tục có mặt trong các vụ việc mà họ đã tham gia ở giai đoạn sơ thẩm Đặc biệt, sự có mặt của Viện kiểm sát là bắt buộc ở cấp giám đốc thẩm và tái thẩm.

Viện kiểm sát không chỉ tham gia vào các vụ xét xử hành chính mà còn nắm giữ những thẩm quyền quan trọng, có khả năng gây áp lực và can thiệp vào quá trình này Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Viện kiểm sát có quyền đề nghị chuyển giao hồ sơ tố tụng và yêu cầu Tòa án thực hiện các biện pháp điều tra bổ sung như xác minh, thu thập chứng cứ, và giám định Trong trường hợp đặc biệt, Viện kiểm sát có thể tự tiến hành điều tra Tại phiên tòa, Viện kiểm sát tham gia trực tiếp, kiểm soát diễn biến và có thể đề nghị triệu tập nhân chứng, người giám định hay phiên dịch Ngoài ra, Viện kiểm sát còn có quyền cung cấp chứng cứ bổ sung và đặt câu hỏi trong giai đoạn thẩm vấn.

“Điều 89 Trưng cầu giám đị nh, yêu c ầu giám đị nh

5 Việc giám định lại được thực hiện trong trường hợp có căn cứ cho rằng kết luận giám định lần đầu không chính xác, có vi phạm pháp luật hoặc trong trường hợp đặc biệt theo quyết định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao theo quy định của Luật giám định tư pháp.

37 Điề u 93 Yêu c ầu cơ quan, tổ ch ứ c, cá nhân cung c ấ p tài li ệ u, ch ứ ng c ứ

Trong trường hợp Viện kiểm sát yêu cầu cung cấp tài liệu và chứng cứ, các cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm thực hiện theo quy định đã được nêu trong khoản tương ứng.

Trong giai đoạn này, Viện kiểm sát nắm giữ quyền lực lớn khi đọc kết luận của mình, nêu rõ nhận định chủ quan và hướng xét xử của vụ án Vai trò của đại diện Viện kiểm sát không chỉ dừng lại ở việc trình bày kết luận trước Hội đồng xét xử, mà còn bao gồm quyền kháng nghị theo tất cả các thủ tục phúc thẩm, tái thẩm và giám đốc thẩm Điều này khác biệt so với pháp luật nước ngoài, nơi vai trò kháng nghị chỉ dành cho đương sự Hiệu lực của kháng nghị là bắt buộc, buộc Tòa án phải tiến hành các thủ tục xét xử tiếp theo nếu bản án bị kháng nghị.

Kiểm sát xét xử đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tuân thủ pháp luật của Tòa án, nhưng Viện kiểm sát cũng có quyền kháng nghị bản án hoặc phán quyết Điều này đặt ra câu hỏi về khả năng Viện kiểm sát có thể gây áp lực và gián tiếp thay đổi kết luận của bản án thông qua quyền kháng nghị Nếu quyền này được sử dụng đúng cách, nó có thể nâng cao hiệu quả xét xử và giảm thiểu án oan, đồng thời tăng cường niềm tin của đương sự vào Viện kiểm sát nhân dân Ngược lại, việc lạm dụng quyền kháng nghị có thể can thiệp vào hoạt động xét xử, ảnh hưởng đến nguyên tắc độc lập của Tòa án Do đó, cần xem xét tính cần thiết của chức năng này, nhất là khi có nhiều phương thức khác để kiểm sát tuân thủ pháp luật và bảo vệ quyền lợi của đương sự, như quyền kháng cáo, kháng nghị của Tòa án cấp trên và giám sát tư pháp từ cơ quan nhà nước Vì vậy, Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính nên giữ vai trò hạn chế hơn.

38 là cơ quan kiểm sát hoạt động việc tuân thủ pháp luật và thủ tục hành chính trong vụ án hành chính

Vai trò của Viện Kiểm sát không chỉ dừng lại ở việc thực hiện chức năng kiểm sát mà còn thể hiện rõ nét khi trở thành người khởi kiện trong các vụ án hành chính, như quy định tại Điều

Nh ững điể m m ớ i v ề vai trò c ủ a Vi ệ n ki ể m sát trong lu ậ t t ố t ụ ng hành chính 2015

Kinh tế đất nước phát triển và đời sống nhân dân cải thiện đã dẫn đến sự thay đổi trong hệ thống pháp luật Các quy định cũ không còn phù hợp với tiến trình xã hội hiện đại, đặc biệt trong lĩnh vực hành chính Những thủ tục rườm rà và quy định hiện tại không đáp ứng nhu cầu của người dân trong việc giải quyết các vụ án hành chính, do đó, cải cách Luật Tố tụng hành chính là điều cần thiết.

Luật Tố tụng hành chính năm 2015 bao gồm 23 chương và 372 điều, tăng 5 chương và 107 điều so với luật năm 2010, nhằm khắc phục những hạn chế và bất cập trước đó Luật này kế thừa những quy định phù hợp và tham khảo kinh nghiệm quốc tế, đảm bảo không cản trở việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia Một điểm mới nổi bật của Luật Tố tụng hành chính 2015 là sự thay đổi về vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, thể hiện sự công nhận tầm quan trọng của Viện kiểm sát trong quá trình xét xử vụ án hành chính.

2.2.1 Về sự có mặt của Kiểm sát viên tại các phiên tòa, phiên họp trong tố tụng hành chính

Luật Tố tụng hành chính 2015 có quy định về sự có mặt của Viện kiểm sát nhân dân tại phiên tòa như sau:

“Điề u 156 S ự có m ặ t c ủ a Ki ể m sát viên

1 Kiểm sát viên được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phân công có nhiệm vụ tham gia phiên tòa, nếu vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử

2 Trường hợp Kiểm sát viên bị thay đổi tại phiên tòa hoặc không thể tiếp tục tham gia phiên tòa xét xử, nhưng có Kiểm sát viên dự khuyết thì người này được tham gia phiên tòa xét xử tiếp vụ án nếu họ có mặt tại phiên tòa từ đầu.”

Với quy định trên chúng ta có thể thấy Luật Tố tụng hành chính năm

Luật Tố tụng hành chính năm 2015 kế thừa hai điểm quan trọng từ Luật năm 2010: Thứ nhất, kiểm sát viên do Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phân công phải có mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hành chính Thứ hai, nếu kiểm sát viên bị thay đổi hoặc không thể tiếp tục tham gia phiên tòa, kiểm sát viên dự khuyết có thể tham gia tiếp nếu họ có mặt từ đầu phiên tòa.

2015 có một điểm sửa đổi so với quy định của Luật Tố tụng hành chính năm

Năm 2010, quy định mới cho phép Hội đồng xét xử tiến hành xét xử mà không cần sự có mặt của kiểm sát viên, nếu được Viện trưởng Viện kiểm sát phân công vắng mặt, thay vì hoãn phiên tòa như trước đây Điều này cho thấy sự không còn quá quan trọng của sự hiện diện của kiểm sát viên trong các vụ án hành chính Quy định này nhằm đảm bảo tiến độ giải quyết các vụ án hành chính diễn ra kịp thời, tuân thủ đúng thời hạn tố tụng Theo Điều 224 của Luật Tố tụng hành chính 2015, sự có mặt của kiểm sát viên trong phiên tòa phúc thẩm vẫn được quy định rõ ràng.

“Điề u 224 S ự có m ặ t c ủ a Ki ể m sát viên

1 Kiểm sát viên được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phân công có nhiệm vụ tham gia phiên tòa Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa khi Kiểm sát viên vắng mặt trong trường hợp Viện kiểm sát có kháng nghị

2 Trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt hoặc không thể tiếp tục tham gia phiên tòa, nhưng có Kiểm sát viên dự khuyết tham gia phiên tòa từ đầu thì người này được thay thế Kiểm sát viên vắng mặt tham gia phiên tòa xét xử vụ án.”

Luật Tố tụng hành chính năm 2015 kế thừa quy định từ Luật Tố tụng hành chính năm 2010, cho phép kiểm sát viên dự khuyết thay thế kiểm sát viên vắng mặt trong phiên tòa phúc thẩm Trái ngược với quy định trước đây, theo Điều 194 của Luật 2010, phiên tòa phải hoãn nếu không có kiểm sát viên thay thế Luật 2015 quy định rằng Hội đồng xét xử chỉ quyết định hoãn phiên tòa khi kiểm sát viên vắng mặt và Viện kiểm sát có kháng nghị Đối với thủ tục phúc thẩm, Điều 243 quy định kiểm sát viên cùng cấp tham gia phiên họp và phát biểu ý kiến trước khi Hội đồng xét xử ra quyết định, đồng thời cho phép hoãn phiên họp nếu kiểm sát viên vắng mặt.

Viện kiểm sát có quyền kháng nghị, tuy nhiên nếu kiểm sát viên vắng mặt và vụ án hành chính được khởi kiện do kháng cáo của đương sự, không phải kháng nghị của Viện kiểm sát, thì phiên tòa vẫn tiếp tục được xét xử bình thường mà không cần hoãn.

Luật Tố tụng hành chính năm 2015 tiếp tục kế thừa quy định từ Luật Tố tụng hành chính năm 2010 về sự có mặt của kiểm sát viên tại phiên tòa giám đốc thẩm Cụ thể, Điều 267 quy định rằng "Phiên tòa giám đốc thẩm phải có sự tham gia của Viện kiểm sát cùng cấp", khẳng định vai trò quan trọng của Viện kiểm sát trong quy trình xét xử.

Thủ tục tái thẩm theo quy định tại Điều 44 và quy trình đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao được quy định tại Điều 290 Theo đó, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có trách nhiệm tham dự phiên họp của Hội đồng Thẩm phán để xem xét các kiến nghị từ Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, hoặc đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao theo khoản 4 Điều 287 của Luật này.

Quy định này nâng cao quyền hạn của Viện trưởng Viện kiểm sát trong việc tham gia xem xét kiến nghị quyết định tái thẩm vụ án hành chính, từ đó có khả năng tăng cường khả năng tái thẩm cho các vụ án hành chính.

2.2.2 Phát biểu của Kiểm sát viên tại các phiên tòa, phiên họp trong tố tụng hành chính

So với quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2010, quy định của

Luật Tố tụng hành chính năm 2015 về phát biểu của kiểm sát viên tại phiên tòa xét xửsơ thẩm vụ án hành chính có sự sửa đổi quan trọng

“Điề u 190 Phát bi ể u c ủ a Ki ể m sát viên

Sau khi các bên tham gia tố tụng hoàn tất tranh luận và phản biện, Kiểm sát viên sẽ đưa ra ý kiến về việc tuân thủ pháp luật tố tụng của Thẩm phán.

Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng đóng vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án, từ khi thụ lý cho đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án.

Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, Kiểm sát viên phải gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa án đểlưu vào hồsơ vụán.”

(Theo điều 190 Luật Tố tụng hành chính 2015)

Điể m m ớ i v ề vai trò c ủ a Vi ệ n ki ể m sát nhân dân trong Lu ậ t T ổ

Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 khẳng định vị trí của Viện kiểm sát là thiết chế Hiến định trong bộ máy nhà nước, với nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp, pháp luật và quyền con người Luật quy định rõ phạm vi và nội dung của các chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, bao gồm việc thực hành quyền công tố từ giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm cho đến xét xử vụ án hình sự Bên cạnh đó, Luật cũng bổ sung quy định về kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, kiến nghị khởi tố, kiểm sát trong giai đoạn truy tố, cũng như việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp Hơn nữa, Luật đã phân định các trường hợp Viện kiểm sát thực hiện quyền kháng nghị và quyền kiến nghị, mặc dù vẫn còn thiếu sự phân định rõ ràng trong một số trường hợp cụ thể.

Viện kiểm sát có quyền kháng nghị khi phát hiện các hành vi, bản án, quyết định vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm quyền con người, quyền công dân, cũng như lợi ích nhà nước và quyền lợi hợp pháp của tổ chức, cá nhân Đồng thời, Viện cũng thực hiện quyền kiến nghị đối với những vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng hoặc khi phát hiện sơ hở trong quản lý của cơ quan, tổ chức Luật quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc giải quyết kháng nghị, kiến nghị của Viện kiểm sát, nhằm bảo đảm hiệu lực và hiệu quả trong việc thực thi các quyền này.

Luật Tổ chức Viện kiểm sát 2014 quy định 04 cấp Viện kiểm sát, bao gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, là cấp kiểm sát mới, có nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp đối với các vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp cao Cụ thể, Viện kiểm sát cấp cao có quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm Việc bổ sung cấp Viện kiểm sát này được kỳ vọng sẽ hạn chế oan sai, vi phạm trong thủ tục xét xử, đồng thời đảm bảo tuân thủ quy trình pháp luật, nâng cao tính dân chủ, công khai, minh bạch và hiệu quả trong hoạt động tố tụng.

Luật Tố tụng hành chính năm 2015 đã kế thừa và phát huy những quy định cơ bản về vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng, góp phần nâng cao hiệu quả và tính minh bạch trong quá trình giải quyết các vụ án hành chính.

Luật Tố tụng hành chính năm 2010 đã được sửa đổi và bổ sung nhiều quy định mới để phù hợp với sự phát triển của đất nước và xã hội hiện đại Những thay đổi này đóng vai trò quan trọng trong việc giúp Viện kiểm sát thực hiện tốt hơn nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, quyền con người, quyền công dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, cũng như lợi ích của Nhà nước và quyền hợp pháp của tổ chức, cá nhân, theo quy định tại Điều 22 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015.

Ngày đăng: 06/12/2021, 10:37

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Ban tuyên truyền – Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình (2015), Nh ững điể m m ớ i c ủ a Lu ậ t t ổ ch ứ c Vi ệ n ki ểm sát nhân dân năm 2014 , Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình, Thái Bình Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những điểm mới của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014
Tác giả: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình
Nhà XB: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình
Năm: 2015
2. Báo VNExpress (2002), Cơ quan nào đả m nhi ệ m ch ức năng kiể m sát chung c ủ a VKS?.https://vnexpress.net/phap-luat/co-quan-nao-se-dam-nhan-chuc-nang-kiem-sat-chung-1985915.html Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cơ quan nào đả m nhi ệ m ch ức năng kiể m sát chung c ủ a VKS
Nhà XB: VNExpress
Năm: 2002
3. Lê Th ị B ắ c (2015), Vi ệ n ki ể m sát nhân dân qua các b ả n Hi ế n pháp Vi ệ t Nam t ừ 1959 đế n nay, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵnghttp://vksdanang.gov.vn/index.php?language=vi&nv=news&op=print/55-nam-thanh-lap-nganh-KSND/Vien-kiem-sat-nhan-dan-qua-cac-ban-Hien-phap-Viet-Nam-tu-1959-den-nay-4581 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Viện kiểm sát nhân dân qua các bản Hiến pháp Việt Nam từ 1959 đến nay
Tác giả: Lê Thị Bắcc
Nhà XB: Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng
Năm: 2015
4. Nguy ễ n Hòa Bình (2013), Ti ế p t ục đổ i m ớ i t ổ ch ứ c và ho ạt độ ng c ủ a ngành ki ểm sát nhân dân đáp ứ ng yêu c ầ u, nhi ệ m v ụ trong tình hình m ớ i, T ạ p chí C ộ ng s ả nhttp://www.tapchicongsan.org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=20677&print=true Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới
Tác giả: Nguyễn Hòa Bình
Nhà XB: Tạp chí Cộng sản
Năm: 2013
6. Nguy ễ n Ng ọc Điệ p (2016), Bình lu ậ n khoa h ọ c Lu ậ t T ố t ụ ng hành chính năm 2015 , Nhà xuất bản lao động, TP. Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bình luận khoa học Luật Tố tụng hành chính năm 2015
Tác giả: Nguyễn Ngọc Điệp
Nhà XB: Nhà xuất bản lao động
Năm: 2016
7. Lê Ng ọ c Duy, M ộ t s ố gi ả i pháp nâng cao ch ất lượ ng, hi ệ u qu ả c ủ a qu ản lý hành chính trong cơ quan Việ n ki ểm sát nhân dân đáp ứ ng Sách, tạp chí
Tiêu đề: M ộ t s ố gi ả i pháp nâng cao ch ất lượ ng, hi ệ u qu ả c ủ a qu ản lý hành chính trong cơ quan Việ n ki ểm sát nhân dân đáp ứ ng
Tác giả: Lê Ng ọ c Duy
8. Nguy ễn Đăng Dung, S ự h ạ n ch ế quy ề n l ực Nhà nướ c, Khoa Lu ật, Đạ i h ọ c Qu ố c gia Hà N ội, Nxb. ĐHQGHN, 2005 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sự hạn chế quyền lực Nhà nước
Tác giả: Nguyễn Đăng Dung
Nhà XB: Nxb. ĐHQGHN
Năm: 2005
9. Nguyễn Minh Đức, V ề ch ức năng, nhiệ m v ụ c ủ a Vi ệ n ki ể m sát theo tinh th ầ n c ải cách tư pháp, Trường Đại học kiểm sát Hà Nội, Hà Nội.http://tks.edu.vn/WebThongTinKhoaHoc/Detail/685?idMenu=119 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát theo tinh thần cải cách tư pháp
10. Tr ầ n Ng ọc Đườ ng (2013), Vi ệ n ki ểm sát nhân dân trong cơ chế ki ể m soát quy ề n l ực nhà nướ c nhân s ửa đổ i Hi ến pháp năm 1992, Báo Điện tử Đại biểu nhân dân.http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=69&ItemId=278381&GroupId=2258 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vi ệ n ki ểm sát nhân dân trong cơ chế ki ể m soát quy ề n l ực nhà nướ c nhân s ửa đổ i Hi ến pháp năm 1992
Tác giả: Tr ầ n Ng ọc Đườ ng
Nhà XB: Báo Điện tử Đại biểu nhân dân
Năm: 2013
11. Phùng Thanh Hà (2014), Nhi ệ m v ụ , quy ề n h ạ n c ủ a Vi ệ n ki ể m sát nhân dân trong t ố t ụ ng dân s ự Vi ệ t Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Lu ật (Đạ i h ọ c Qu ố c gia Hà N ộ i), Hà N ộ i Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhi ệ m v ụ , quy ề n h ạ n c ủ a Vi ệ n ki ể m sát nhân dân trong t ố t ụ ng dân s ự Vi ệ t Nam
Tác giả: Phùng Thanh Hà
Nhà XB: Khoa Luật (Đại học Quốc gia Hà Nội)
Năm: 2014
12. Nguy ễ n Ng ọ c Khánh, V ề m ộ t s ố điề u c ủ a Lu ậ t T ổ ch ứ c vi ệ n Ki ể m sát và th ẩ m quy ề n c ủ a Vi ệ n Ki ể m sát trong xét x ử các v ụ án hành chính, kinh t ế và lao độ ng, Tạp chí Kiểm sát, số 3/2002, tr. 26 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Về một số điều của Luật Tổ chức viện Kiểm sát và thẩm quyền của Viện Kiểm sát trong xét xử các vụ án hành chính, kinh tế và lao động
13. Trương Đắc Linh, M ộ t s ố ý ki ế n v ề đổ i m ớ i t ổ ch ứ c Vi ệ n ki ể m sát trong chi ến lượ c c ải cách tư pháp ở nướ c ta hi ệ n nay, Vi ệ n ki ể m sát nhân dân t ố i cao.http://vksndtc.gov.vn/khac-123 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số ý kiến về đổi mới tổ chức Viện kiểm sát trong chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay
Tác giả: Trương Đắc Linh
Nhà XB: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
14. L ạ i Th ị Loan, Quá trình hình thành và phát tri ể n c ủa Cơ quan điề u tra Vi ệ n ki ể m sát nhân dân t ố i cao qua các th ờ i k ỳ, Trường Đạ i h ọ c ki ể m sát Hà N ộ i, Hà N ộ i Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quá trình hình thành và phát tri ể n c ủa Cơ quan điề u tra Vi ệ n ki ể m sát nhân dân t ố i cao qua các th ờ i k ỳ
Tác giả: L ạ i Th ị Loan
Nhà XB: Trường Đạ i h ọ c ki ể m sát Hà N ộ i
15. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hoàn c ảnh ra đờ i và n ộ i dung Hi ế n pháp 1992.http://mattran.org.vn/Home/DatnuocVN/VietNam/CHXHCNVN1-2.htm Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoàn c ảnh ra đờ i và n ộ i dung Hi ế n pháp 1992
Tác giả: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
16. Nghĩa Nhân, Tranh lu ậ n v ề vai trò c ủ a Vi ệ n ki ể m sát trong t ố t ụ ng hành chính, dân s ự ,http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/TT_TINLAPPHAP/View_Detail.aspx?ItemID=2414 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tranh luận về vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính, dân sự
Tác giả: Nghĩa Nhân
23. Quốc hội (2006), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sửa đổi, bổ sung) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sửa đổi, bổ sung)
Tác giả: Quốc hội
Năm: 2006
5. B ộ chính tr ị , Ngh ị quy ế t s ố 49- NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 về chi ến lượ c c ải cách tư pháp đến năm 2020 Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w