1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Khóa luận Pháp luật Bảo hiểm xã hội đối với người lao động Viêt Nam làm viêc ở nước ngoài tại địa bàn Nhật Bản

69 12 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 69
Dung lượng 833,17 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: NHỮ NG V ẤN ĐỀ LÝ LU Ậ N V Ề B Ả O HI Ể M XÃ H Ộ I (12)
    • 1.1. L ị ch s ử ra đờ i và phát tri ể n c ủ a B ả o hi ể m xã h ộ i (12)
      • 1.1.1. L ị ch s ử ra đờ i và phát tri ể n c ủ a B ả o hi ể m xã h ộ i trên th ế gi ớ i (12)
      • 1.1.2. Lịch sử ra đời và phát triển của Bảo hiểm xã hội Việt Nam (15)
    • 1.2. Khái niệm và phân loại Bảo hiểm xã hội (17)
      • 1.2.1. Khái niệm Bảo hiểm xã hội (17)
      • 1.2.2. Phân loại Bảo hiểm xã hội (19)
    • 1.3. Đặc điểm của Bảo hiểm xã hội (21)
    • 1.4. Vai trò bảo hiểm xã hội (23)
      • 1.4.1. Đối với người lao động (23)
      • 1.4.2. Đối với tổ chức sử dụng lao động (23)
      • 1.4.3. Đối với nền kinh tế - xã hội (24)
  • CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬ T B Ả O HI Ể M XÃ H ỘI CHO NGƯỜI LAO ĐỘ NG (25)
    • 2.1. Khái niệm người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài (25)
      • 2.1.1. Pháp luật Quốc tế (25)
      • 2.1.2. Pháp lu ậ t Vi ệ t Nam (31)
    • 2.2. Chế độ Bảo hiểm xã hội đối với người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài 27 1. Quyền hưởng Bảo hiểm xã hội cho người lao động di trú (34)
      • 2.2.2. Quyền được hưởng Bảo hiểm xã hội của người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo pháp luật Việt Nam (36)
  • CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI CHO NGƯỜI VIỆT NAM LAO ĐỘNG Ở NHẬT BẢN (46)
    • 3.1. Thực trạng người lao động Việt Nam đi làm việc theo hợp đồng ở Nhật Bản (46)
    • 3.2. Thực trạng Pháp luật Bảo hiểm xã hội cho người lao động Việt Nam làm việc (51)

Nội dung

NHỮ NG V ẤN ĐỀ LÝ LU Ậ N V Ề B Ả O HI Ể M XÃ H Ộ I

L ị ch s ử ra đờ i và phát tri ể n c ủ a B ả o hi ể m xã h ộ i

1.1.1 L ị ch s ử ra đờ i và phát tri ể n c ủ a B ả o hi ể m xã h ộ i trên th ế gi ớ i Để đảm bảo những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, con người cần phải lao động Nhưng trong thực tế cuộc sống, không phải người lao động nào cũng có đủ điều kiện về sức khỏe, khả năng lao động và những may mắn khác để có một cuộc sống hạnh phúc Ngược lại, người nào cũng có thể gặp phải những rủi ro, bất hạnh như ốm đau, tai nạn, già yếu, thiếu việc làm do những ảnh hưởng của tự nhiên, của những điều kiện sống và sinh hoạt cũng như các tác nhân xã hội khác Khi rơi vào các trường hợp đó, các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại còn tăng lên, thậm chí xuất hiện nhiều nhu cầu mới Bởi vậy, để khắc phục những rủi ro, bất hạnh, giảm bớt khókhăn cho bản thân và gia đình thì ngoài việc tự mình khắc phục, người lao động cần sự bảo trợ của cộng đồng và xã hội.Sự tương trợ dần dần được mở rộng và phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau Trong quá trình phát triển của xã hội, đặc biệt là sau cuộc cách mạng công nghiệp, hệ thống BHXH đã có những cơ sở để hình thành và phát triển Quá trình công nghiệp hóa làm cho đội ngũ người làm công ăn lương tăng lên, cuộc sống của họ chủ yếu dựa vào thu nhập do lao động làm thêm đem lại Sự hẫng hụt về tiền lương trong các trường hợp bị ốm đau, tai nạn, mất việc làm, già yếu đã trở thành mối đe dọa đối với cuộc sống bình thường của những người không có nguồn thu nhập nào khác ngoài tiền lương Điều đó đòi hỏi phải có sự tương thân, tương ái giữa những người lao động, đồng thời đòi hỏi giới chủ và Nhà nước phải có trợ giúp nhằm bảo đảm cuộc sống cho họ

Vào năm 1850, nhiều bang ở Đức đã thiết lập quỹ ốm đau đầu tiên, yêu cầu công nhân đóng góp để chuẩn bị cho tình huống giảm thu nhập do bệnh tật, nhằm chia sẻ rủi ro giữa những người lao động.

Bắt đầu từ hình thức đóng góp bắt buộc, bảo hiểm xã hội (BHXH) đã dần mở rộng từ việc chỉ bảo vệ những người lao động tham gia vào các rủi ro nghề nghiệp, tuổi già và tàn tật Vào cuối những năm 1880, BHXH đã phát triển theo cơ chế ba bên giữa người lao động, giới chủ và Nhà nước, nhằm bảo vệ người lao động hiệu quả hơn Đối tượng bảo vệ đã được mở rộng từ người lao động làm công ăn lương đến cả người lao động tự tạo việc làm và lao động nông nghiệp Nội dung bảo vệ cũng đã thay đổi, từ việc chỉ bảo vệ trước rủi ro ốm đau ban đầu, đến nay đã bao gồm tai nạn lao động, thương tật, tuổi già và tử tuất Hệ thống BHXH hiện nay có nhiều đối tượng tham gia và thụ hưởng khác nhau, với nhiều mô hình thực hiện khác nhau, tuy nhiên, đối tượng bảo vệ vẫn còn hạn chế so với toàn bộ cộng đồng Để đảm bảo sự ổn định và phát triển của xã hội, đời sống của người dân cần được bảo đảm an toàn.

Mô hình bảo hiểm xã hội (BHXH) của Đức đã phát triển rộng rãi ra châu Âu và sau đó lan sang các nước Mỹ Latin, Bắc Mỹ và Canada vào những năm 1930 Sau Thế chiến thứ hai, BHXH tiếp tục mở rộng sang các quốc gia mới giành được độc lập ở châu Á, châu Phi và vùng Caribê Ngày nay, BHXH đã trở thành một trụ cột thiết yếu của hệ thống an sinh xã hội, được công nhận bởi tất cả các quốc gia như một trong những quyền cơ bản của con người.

Bảo hiểm xã hội ra đời và lan rộng rất nhanh Quá trình phát triển của BHXH trải qua các mốc sau:

+ Năm 1838 chế độ bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ra đời lần đầu tiên ở nước Phổ (Cộng hòa liên bang Đức)

+ Năm 1850 và năm 1861 các quỹ ốm đau được thành lập ở Đức, Bỉ

+ Năm 1883, nước Đức ban hành đạo luật đầu tiên về BHXH

+ Năm 1894 và 1896 nước Bỉ và Hà Lan đã được ban hành Bộ luật đấu tiên về các tổ chức tương tế

Đạo luật An sinh xã hội đầu tiên ở Mỹ, được ban hành vào năm 1935, quy định về bảo hiểm xã hội với các chế độ bảo hiểm tuổi già, tử tuất, tàn tật và trợ cấp thất nghiệp cho người lao động.

+ Thời kỳ chiến tranh thế giới thứ II (1940-1945) có 3 sự kiện lớn đánh dấu quá trình ra đời và phát triển BHXH, đó là:

Tổ chức Lao động Quốc tế đã tổ chức thảo luận về các vấn đề liên quan đến bảo hiểm xã hội, bao gồm tàn tật và sinh đẻ đối với lao động nữ, cùng với vấn đề tử tuất cho các binh sĩ trong chiến tranh.

- Luật BHXH ở Mỹ đã được thông qua

- Kế hoạch Beveridge (1942) đã được Chính phủ Bỉ thông qua để chuẩn bị thành lập hệ thống BHXH ở Bỉ.

Vào ngày 10/12/1948, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã thông qua Tuyên ngôn Nhân quyền, trong đó khẳng định rằng "tất cả mọi người, với tư cách là thành viên của xã hội, có quyền hưởng các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cần thiết cho nhân cách và sự tự do phát triển con người".

Vào ngày 25/6/1952, Hội nghị toàn thể của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đã thông qua Công ước số 102 về an sinh xã hội, tập hợp từ các chế độ và vấn đề an sinh xã hội đã được thực hiện ở nhiều quốc gia Kể từ đó, hầu hết các nước ở Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ Latinh đã xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội (BHXH) phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội, tương quan lực lượng giữa giới chủ và giới thợ, cũng như thể chế chính trị của từng quốc gia Sau Công ước số 102, đã có nhiều công ước quốc tế khác được ban hành nhằm bổ sung và cụ thể hóa các vấn đề liên quan đến BHXH.

Công ước số 111, được ban hành vào năm 1985, tập trung vào vấn đề việc làm và thất nghiệp, đồng thời nhấn mạnh việc chống phân biệt đối xử giữa những người lao động dựa trên màu da, tôn giáo và chủng tộc khác nhau.

+ Công ước số 128 ra đời năm 1967 nói về trợ cấp tàn tật, tuổi già và tiền tuất.[59]

+ Công ước số 156 ra đời năm 1981 đã khuyến cáo các vấn đề về người lao động và trách nhiệm gia đình[53]

+ Công ước số 158 ra đời năm 1982 nhằm mục đích chống lại việc giới chủ cho người lao động thôi việc mà không có lý do chính đáng.[60]

Qua nhiều thời kỳ, sự tranh chấp giữa giới chủ và giới thợ cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội đã nâng cao nhận thức về bảo hiểm xã hội (BHXH) của người lao động Sự ra đời của BHXH đã giúp giải quyết hiệu quả các tranh chấp và khó khăn, trở thành nhu cầu và quyền lợi thiết yếu của người lao động BHXH không chỉ được xem là một hệ thống cần thiết mà còn là một trong những quyền cơ bản của con người, như đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn nhân quyền của Đại Hội đồng Liên hợp quốc.

1.1.2 L ị ch s ử ra đờ i và phát tri ể n c ủ a B ả o hi ể m xã h ộ i Vi ệ t Nam

Bảo hiểm xã hội (BHXH) ra đời và phát triển song hành với lịch sử Nhà nước Việt Nam từ năm 1945, sau Cách mạng tháng 8 và sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa BHXH được xem là lĩnh vực có quá trình phát triển lâu dài nhất trong hệ thống bảo đảm xã hội tại Việt Nam Trong những năm qua, BHXH đã đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm an sinh xã hội cho người lao động, đặc biệt là công chức và viên chức Nhà nước.

Cơ sở pháp lý đầu tiên của Bảo hiểm xã hội (BHXH) ở Việt Nam là Hiến pháp năm 1946 Dựa trên Hiến pháp này, Chính phủ đã ban hành các Sắc lệnh quy định về chế độ trợ cấp ốm đau, tai nạn và hưu trí cho công nhân viên chức Nhà nước, bao gồm Sắc lệnh số 29/SL ngày 12-03-1947, Sắc lệnh số 76/SL ngày 20-05-1950, và Sắc lệnh số 77/SL ngày 22-05-1950 Theo các văn bản này, chế độ BHXH được thực hiện hoàn toàn dựa trên nguyên tắc trợ cấp.

Cơ sở pháp lý của bảo hiểm xã hội (BHXH) đã được củng cố theo Hiến pháp năm 1959, trong bối cảnh Việt Nam bị chia cắt thành hai miền Hiến pháp này công nhận quyền hưởng trợ cấp BHXH của công nhân viên chức, được cụ thể hóa trong điều lệ tạm thời về BHXH cho công chức Nhà nước ban hành theo Nghị định số 218/CP ngày 27/12/1961 và điều lệ đãi ngộ quân nhân theo Nghị định 161/CP ngày 30/10/1964 Hai điều lệ này đã trở thành căn cứ pháp lý quan trọng cho việc thực hiện chế độ BHXH ở miền Bắc từ đầu năm 1962, nhằm động viên cán bộ đảng, đoàn thể và công chức Nhà nước yên tâm lao động sản xuất, góp phần xây dựng xã hội chủ nghĩa và đấu tranh thống nhất đất nước.

Từ tháng 5 năm 1975, chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH) được thực hiện thống nhất trên toàn quốc, đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho công nhân viên chức và đặc biệt là lực lượng quân đội, lực lượng vũ trang, nhằm ổn định xã hội sau cuộc kháng chiến kéo dài Chế độ BHXH thời điểm đó hoạt động trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung với những đặc trưng riêng biệt.

1 Đối tượng tham gia của BHXH chỉ giới hạn đối với công nhân, viên chức nhà nước, lực lượng quân đội, vũ trang, cán bộ nhân viên của tổ chức đảng, đoàn thể

Khái niệm và phân loại Bảo hiểm xã hội

1.2.1 Khái niệm Bảo hiểm xã hội

BHXH là một phần quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội, đang phát triển và hoàn thiện cả ở Việt Nam và trên thế giới Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), an sinh xã hội là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên thông qua các biện pháp công cộng, nhằm hỗ trợ họ trong những khó khăn kinh tế và xã hội do mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết Khái niệm này hiện nay được mở rộng để bao gồm sự bảo vệ cho những người yếu thế, thông qua việc phân phối lại tài chính và dịch vụ xã hội Hệ thống an sinh xã hội bao gồm hai phần chính: bảo hiểm xã hội và cứu trợ xã hội, trong đó bảo hiểm xã hội đóng vai trò chủ yếu và quan trọng nhất.

Bảo hiểm xã hội (BHXH) có nhiều khái niệm khác nhau tùy thuộc vào cách tiếp cận của từng tác giả Tuy nhiên, khái niệm BHXH được định nghĩa trong Từ điển Bách khoa Việt Nam và Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam được xem là phù hợp nhất cho nghiên cứu về lĩnh vực này tại Việt Nam.

Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một hệ thống nhằm đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động trong trường hợp họ mất hoặc giảm thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, hoặc tử tuất Hệ thống này dựa trên quỹ tài chính được hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia, có sự bảo hộ của Nhà nước theo quy định của pháp luật Mục tiêu của BHXH là bảo vệ an toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần vào việc đảm bảo an toàn xã hội.

Theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam, bảo hiểm xã hội (BHXH) là hình thức đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ gặp khó khăn về tài chính do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc qua đời, dựa trên việc đóng góp vào quỹ BHXH.

Hơn thế BHXH còn được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau:

Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một khái niệm kinh tế quan trọng, giúp bù đắp và thay thế thu nhập cho người lao động (NLĐ) khi họ gặp khó khăn hoặc mất thu nhập Trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và quá trình công nghiệp hóa, NLĐ thường phải đối mặt với rủi ro như tai nạn lao động, ốm đau, và thất nghiệp Để đảm bảo cuộc sống ổn định, NLĐ cần có nguồn tài chính dự phòng hoặc tham gia vào hệ thống BHXH Qua việc đóng góp vào quỹ BHXH, NLĐ sẽ nhận được sự hỗ trợ tài chính khi gặp phải những rủi ro này, giúp họ duy trì cuộc sống ổn định.

Bảo hiểm xã hội (BHXH) đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo đời sống vật chất cho người lao động (NLĐ) khi họ gặp phải các rủi ro xã hội Khi NLĐ đối mặt với khó khăn như bệnh tật hay tuổi già, nhu cầu khắc phục khó khăn kinh tế và chăm sóc sức khỏe trở nên cấp thiết Do đó, Nhà nước cần triển khai các giải pháp để hỗ trợ NLĐ vượt qua giai đoạn khó khăn, từ đó ổn định đời sống và xã hội BHXH không chỉ bù đắp thu nhập cho NLĐ mà còn duy trì sản xuất và đảm bảo sự ổn định xã hội Như vậy, BHXH là một phần thiết yếu trong hệ thống bảo đảm xã hội, cung cấp sự bảo vệ cho các thành viên thông qua các biện pháp công cộng nhằm đối phó với những khó khăn về kinh tế xã hội do ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già và tử vong.

Bảo hiểm xã hội (BHXH) là hệ thống các quy định pháp luật nhằm bảo vệ người lao động (NLĐ) thông qua việc sử dụng nguồn đóng góp của NLĐ, người sử dụng lao động (NSDLĐ) và sự hỗ trợ của Nhà nước Mục tiêu của BHXH là cung cấp trợ cấp vật chất cho NLĐ hoặc gia đình họ trong các trường hợp như ốm đau, tai nạn lao động, thai sản, hết tuổi lao động hoặc tử vong Về mặt pháp lý, BHXH xác định quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên tham gia, bao gồm mức đóng góp, phương thức đóng góp và mức hưởng cho các đối tượng áp dụng Các bên liên quan cần tuân thủ các quy định này để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ trong hệ thống BHXH.

Mục tiêu chính của Bảo hiểm xã hội (BHXH) là bảo vệ người lao động (NLĐ) trước những biến cố trong cuộc sống, thông qua một hệ thống chính sách vững chắc và hiệu quả.

Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một phương pháp chia sẻ rủi ro, thông qua việc hình thành quỹ tài chính nhằm đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động Điều này diễn ra khi họ gặp phải tình huống giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc qua đời.

1.2.2 Phân loại Bảo hiểm xã hội

BHXH là một vấn đề kinh tế xã hội phức tạp, có thể được nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau Sự đa dạng này dẫn đến nhiều phương pháp và tiêu chí phân loại, tạo ra những kết quả phân loại phong phú Trong lý luận và thực tiễn, BHXH thường được phân loại dựa trên các tiêu thức cơ bản.

Bảo hiểm xã hội (BHXH) được phân loại thành hai loại chính: BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện Phân loại này giúp xác định rõ đối tượng tham gia cũng như điều kiện tổ chức, từ đó mở rộng các loại hình BHXH một cách hợp lý.

Bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc là loại hình bảo hiểm mà cả người lao động và người sử dụng lao động phải tham gia theo quy định của pháp luật, được tổ chức và quản lý bởi Nhà nước Mục đích của BHXH bắt buộc là ràng buộc trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động, nhằm đảm bảo nguồn thu và chi cho sự phát triển bền vững của BHXH Điều này giúp đảm bảo đời sống cho người lao động và an sinh xã hội Phạm vi bảo hiểm bắt buộc thường phụ thuộc vào khả năng quản lý rủi ro của Nhà nước, bắt đầu từ những lao động có thu nhập ổn định và dần mở rộng theo thời gian Người tham gia BHXH bắt buộc phải đóng một khoản phí hàng tháng theo tỷ lệ quy định từ tiền lương của mình cho quỹ BHXH.

BHXH tự nguyện là hình thức bảo hiểm cho phép người lao động tự quyết định tham gia, lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với quy định pháp luật Hệ thống này xuất phát từ nhu cầu chia sẻ rủi ro giữa những người lao động có nguy cơ gặp phải các rủi ro tương tự Tuy nhiên, sự quản lý của Nhà nước là cần thiết để đảm bảo tính bền vững và hiệu quả của BHXH tự nguyện, bởi nếu chỉ dựa vào sự tự nguyện, hệ thống này sẽ không thể hoạt động ổn định Các quốc gia thường không điều chỉnh loại hình bảo hiểm này ngay từ đầu vì lao động không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc thường thiếu sự hỗ trợ từ người sử dụng lao động, dẫn đến nhu cầu tham gia không ổn định Đặc biệt, ở những nước có khu vực phi chính thức lớn, việc quản lý đối tượng tham gia BHXH tự nguyện gặp nhiều khó khăn do thiếu thông tin, ảnh hưởng đến khả năng kiểm soát quỹ và ngăn ngừa lạm dụng.

Phân loại quỹ bảo hiểm xã hội (BHXH) theo thời gian cân đối bao gồm BHXH ngắn hạn và BHXH dài hạn Phân loại này hỗ trợ các tổ chức BHXH trong việc quản lý quỹ và xác định công thức đóng hưởng, đồng thời thống kê rủi ro trong phạm vi bảo hiểm BHXH ngắn hạn bao gồm các chế độ có thời hạn dưới một năm, chủ yếu dựa vào sự tương trợ giữa người tham gia, với đối tượng hưởng là người lao động trong độ tuổi lao động, thường nhận trợ cấp một lần hoặc trong thời gian ngắn Ngược lại, BHXH dài hạn áp dụng cho các chế độ từ khi người lao động tham gia cho đến khi kết thúc quan hệ BHXH, dựa trên quỹ tiết kiệm bắt buộc kết hợp với tương trợ cộng đồng.

Yếu tố thời gian đóng BHXH là điều kiện cơ bản để xác định quyền và mức hưởng bảo hiểm xã hội Đối tượng hưởng BHXH dài hạn chủ yếu là người lao động đã chấm dứt quan hệ lao động và có thời gian đóng góp dài, hoặc để lại phần đóng góp cho thân nhân BHXH dài hạn thường chi trả trợ cấp trong thời gian dài, làm cho việc xác định thời gian hưởng trở nên khó khăn Quỹ BHXH được thu và quản lý trong thời gian dài, dẫn đến sự phức tạp trong việc tính toán và cân đối giữa việc đóng góp và hưởng, đồng thời bảo tồn giá trị trong bối cảnh lạm phát và nhu cầu sống ngày càng tăng.

Đặc điểm của Bảo hiểm xã hội

Đặc điểm của BHXH thể hiện qua một số khía cạnh sau:

- BHXH là hoạt động chia sẻ rủi ro của cộng đồng theo nguyên tắc “số đông bù số ít” và nguyên tắc “tiết kiệm chi tiêu”

Theo nguyên tắc “số đông bù số ít”, rủi ro của một số cá nhân sẽ được chia sẻ cho nhiều người tham gia BHXH, giúp giảm bớt gánh nặng cho những người không may gặp phải khó khăn trong cuộc sống như bệnh tật, tai nạn lao động, tàn tật hay chết sớm Điều này thể hiện tính tương hỗ của cộng đồng, khi quỹ BHXH hoạt động như một hình thức bù trừ rủi ro, hỗ trợ những người gặp khó khăn và tạo ra sự an tâm cho mọi thành viên trong xã hội.

Theo nguyên tắc tiết kiệm chi tiêu, người tham gia BHXH cần tích lũy một khoản thu nhập bằng cách đều đặn đóng góp vào quỹ BHXH Việc này giúp họ có được trợ cấp khi gặp tình huống tạm thời hoặc vĩnh viễn mất khả năng lao động.

- BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập của các thành viên trong xã hội theo chiều dọc và chiều ngang (hay theo không gian và thời gian).

Phân phối theo chiều dọc là sự chuyển giao thu nhập giữa các nhóm người, như từ người khỏe mạnh sang người ốm đau, từ người trẻ sang người già, và từ người có thu nhập cao sang người có thu nhập thấp Nguyên tắc này không chỉ dựa vào sự đóng góp của người lao động mà còn bao gồm cả người sử dụng lao động và có thể được hỗ trợ từ Ngân sách Nhà nước Quỹ BHXH được hình thành từ những đóng góp này nhằm bù đắp thu nhập cho người lao động khi họ mất khả năng lao động hoặc mất việc làm.

Phân phối theo chiều ngang là quá trình phân bổ thu nhập của người lao động trong cả thời gian làm việc và không làm việc Chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH) sử dụng nguồn tài chính từ những người đóng góp vào quỹ BHXH để hỗ trợ những người hưởng lợi theo quy định.

Mục tiêu cơ bản của Bảo hiểm xã hội (BHXH) là đảm bảo an toàn và hiệu quả xã hội, thông qua việc tổ chức sử dụng thu nhập cá nhân và tổng sản phẩm trong nước để đáp ứng nhu cầu an toàn kinh tế của người lao động BHXH nhằm thay thế hoặc bù đắp cho người lao động những khoản thu nhập bị mất, đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu cho họ và gia đình, đồng thời chăm sóc sức khỏe và phòng chống bệnh tật Điều này góp phần đảm bảo điều kiện sống tối thiểu, giúp người lao động tránh khỏi cảnh túng quẫn, từ đó nâng cao hạnh phúc gia đình và an toàn xã hội.

Bảo hiểm xã hội (BHXH) hoạt động theo nguyên tắc "có đóng, có hưởng", với quỹ BHXH được hình thành từ các khoản đóng góp của người tham gia Hệ thống này nhằm bảo đảm quyền lợi cho người lao động, và quyền được hưởng trợ cấp BHXH phụ thuộc vào việc đóng góp vào quỹ Do đó, để nhận được chế độ BHXH, người lao động cần tham gia đóng góp theo quy định của pháp luật.

Vai trò bảo hiểm xã hội

1.4.1 Đối với người lao động

Trong cuộc sống, mọi người lao động đều có thể gặp rủi ro bất cứ lúc nào, dẫn đến khó khăn về vật chất và tinh thần, ảnh hưởng đến thu nhập Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước, giúp người lao động vượt qua khó khăn qua các khoản trợ cấp Tham gia BHXH không chỉ nâng cao hiệu quả chi tiêu cá nhân mà còn tạo ra nguồn dự phòng tài chính cho những lúc ốm đau hay khi về già Điều này không chỉ hỗ trợ vật chất mà còn mang lại động viên tinh thần, giúp người lao động ổn định tâm lý và giảm lo lắng Nhờ có BHXH, cuộc sống của gia đình người lao động, đặc biệt là trẻ em và người tàn tật, cũng được bảo đảm an toàn hơn.

1.4.2 Đối với tổ chức sử dụng lao động

Bảo hiểm xã hội (BHXH) đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các tổ chức và doanh nghiệp duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh hiệu quả bằng cách phân phối hợp lý chi phí cho người lao động Thiếu BHXH, người lao động sẽ gặp khó khăn khi đối mặt với rủi ro, không có thu nhập và không đủ tài chính để chi trả cho các khoản y tế và chi phí khác, dẫn đến ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của họ Hệ quả là chất lượng lao động giảm sút, kéo theo năng suất lao động cũng bị ảnh hưởng.

Bảo hiểm xã hội (BHXH) đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì ổn định lực lượng lao động tại các đơn vị, giúp hoạt động sản xuất kinh doanh liên tục và hiệu quả BHXH khuyến khích người sử dụng lao động có trách nhiệm đối với nhân viên, không chỉ trong thời gian làm việc mà còn cả khi họ đã nghỉ hưu hoặc không còn khả năng lao động Điều này tạo ra sự gắn kết bền chặt giữa người lao động và người sử dụng lao động, đồng thời đảm bảo chất lượng lao động Ngoài ra, BHXH còn hỗ trợ các tổ chức trong việc ổn định nguồn chi, ngay cả khi xảy ra các rủi ro lớn đối với người lao động.

1.4.3 Đối với nền kinh tế - xã hội

Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một trong những chính sách kinh tế xã hội quan trọng của Nhà nước, nhằm giải quyết các vấn đề và rủi ro mà người lao động gặp phải, đồng thời đảm bảo phục hồi năng lực làm việc và khả năng sáng tạo của họ.

Sự bảo đảm từ BHXH không chỉ nâng cao năng suất lao động cá nhân mà còn góp phần tăng cường năng suất lao động xã hội Ngoài ra, BHXH còn tác động tích cực đến chính sách tiêu dùng, thúc đẩy sự tiêu dùng trong xã hội và góp phần bảo đảm an ninh quốc gia.

Quỹ Bảo hiểm Xã hội (BHXH) đóng vai trò quan trọng trong hệ thống tài chính thông qua hoạt động đầu tư, bảo tồn và phát triển quỹ Hoạt động đầu tư của BHXH không chỉ thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội mà còn tạo ra cơ sở sản xuất mới và việc làm, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp và nâng cao thu nhập cá nhân cho người lao động Hơn nữa, BHXH còn giúp thực hiện công bằng xã hội bằng cách phân phối lại thu nhập giữa các thành viên tham gia quỹ.

PHÁP LUẬ T B Ả O HI Ể M XÃ H ỘI CHO NGƯỜI LAO ĐỘ NG

Khái niệm người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài

Lao động di trú đã tồn tại từ lâu trong lịch sử, nhưng phát triển mạnh mẽ từ đầu thế kỷ XX đến nay Hiện nay, ước tính có khoảng 215 triệu người lao động di trú trên toàn cầu, chiếm 3.3% dân số thế giới, tương đương với mỗi 35 người thì có một người sống và làm việc ở nước ngoài Cùng với xu hướng toàn cầu hóa kinh tế, lao động di trú dự kiến sẽ trở thành một hiện tượng phổ biến trong thế kỷ XXI, đánh dấu một trong những đặc trưng cơ bản của thời đại này.

Người lao động di trú đóng góp đáng kể vào nền kinh tế cả nước gốc lẫn nước tiếp nhận Tại nước gốc, việc đưa người lao động ra nước ngoài giúp giảm tình trạng thất nghiệp và tăng thu nhập cho gia đình, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội Ở nước tiếp nhận, họ giúp giải quyết tình trạng thiếu lao động và đảm nhận những công việc mà người dân bản xứ thường không muốn làm, như công việc có mức lương thấp, nặng nhọc và độc hại.

Người lao động di trú, mặc dù có những đóng góp quan trọng, đang phải đối mặt với nhiều vấn đề nghiêm trọng như phân biệt đối xử, kỳ thị, bóc lột và lạm dụng quyền cơ bản Tình trạng này phản ánh một bất công toàn cầu, với tỷ lệ việc làm dễ bị tổn thương vẫn ở mức cao, đặc biệt ở các khu vực như Nam Á, nơi 59% số lao động vẫn làm việc trong nông nghiệp Mặc dù có sự chuyển đổi trong cơ cấu kinh tế, với sự gia tăng việc làm trong ngành dịch vụ ở Đông Nam Á và Thái Bình Dương, tỷ trọng việc làm trong sản xuất chỉ tăng nhẹ Đông Á, đặc biệt là Trung Quốc, đã chứng kiến sự giảm tỷ trọng việc làm trong nông nghiệp và sản xuất, với ngày càng nhiều lao động chuyển sang lĩnh vực dịch vụ.

Tình trạng của người lao động di trú đã thu hút sự chú ý trong những thập kỷ qua, với nhiều tổ chức liên chính phủ và phi chính phủ đấu tranh cho sự công bằng và bảo vệ quyền lợi của họ Những nỗ lực này đã dẫn đến việc hầu hết các quốc gia ban hành các văn bản pháp luật liên quan đến quyền của nhóm xã hội dễ bị tổn thương này Để thiết lập một khuôn khổ pháp lý quốc tế công bằng cho di cư lao động và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động di trú, Liên Hợp Quốc và ILO đã phát hành nhiều điều ước quan trọng, trong đó Tuyên ngôn nhân quyền 1948 khẳng định mọi người đều bình đẳng về quyền con người, bao gồm cả điều 23 quy định về quyền lao động.

Mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn công việc, hưởng các điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi, đồng thời được bảo vệ chống lại tình trạng thất nghiệp.

2) Cùng làm việc ngang nhau, mọi người được trả lương ngang nhau, không phân biệt đối xử

3) Người làm việc được trả lương tương xứng và công bằng, đủ để bảo đảm cho bản thân và gia đình một đời sống xứng đáng với nhân phẩm, và nếu cần, sẽ được bổ sung bằng những biện pháp bảo trợ xã hội khác.

4) Ai cũng có quyền thành lập nghiệp đoàn hay gia nhập nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi của mình.”

Lao động di trú, như mọi người khác, cũng có quyền con người và quyền lựa chọn việc làm, cũng như hưởng các điều kiện làm việc công bằng Họ thường phải sống xa gia đình và quê hương, dẫn đến nguy cơ bị bóc lột, phân biệt đối xử và xâm phạm quyền lợi Dù vậy, lao động di trú đóng góp lớn vào sự thịnh vượng của cả nước gốc và nước nhận lao động Các nước nhận lao động thu được nhiều lợi ích từ họ, vì họ sẵn sàng đảm nhận những công việc lương thấp, nguy hiểm và không được ưu chuộng mà lao động bản địa không muốn làm Đối với nhiều nước gốc, thu nhập từ lao động di trú đóng góp một phần lớn vào tổng thu nhập quốc dân.

Bình đẳng và không phân biệt đối xử là hai nguyên tắc cơ bản và song hành trong luật nhân quyền, được nhấn mạnh trong Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, xã hội và văn hóa Những nguyên tắc này đảm bảo mọi cá nhân đều được đối xử công bằng và không bị phân biệt, góp phần bảo vệ quyền lợi và nhân phẩm của con người.

The International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights (ICESCR) outlines essential rights and obligations, while the Committee on Economic, Social and Cultural Rights (CESCR) plays a crucial role in monitoring the implementation of this Covenant.

Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR) khẳng định quyền của người lao động được làm việc ở mọi nơi trên thế giới và có cơ hội kiếm sống thông qua công việc tự do lựa chọn Quyền của lao động di trú trong việc tìm kiếm và làm việc ở nước ngoài cũng được xác nhận, nhấn mạnh tầm quan trọng của tự do lao động trong bối cảnh toàn cầu.

Công ước bao gồm các Điều từ 6 đến 15, quy định về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cụ thể Điều 6 nhấn mạnh quyền làm việc và nghĩa vụ của các quốc gia trong việc bảo đảm cơ hội kiếm sống công bằng Điều 7 quy định quyền được hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi, bao gồm thù lao công bằng, môi trường làm việc an toàn và cơ hội nghỉ ngơi hợp lý Điều 8 ghi nhận quyền về công đoàn, cho phép cá nhân thành lập và gia nhập công đoàn mà họ lựa chọn, đồng thời bảo vệ quyền tự do hoạt động của các công đoàn và quyền đình công.

Quyền làm việc được quy định trong Công ước không chỉ là quyền có việc làm mà còn là quyền được tạo điều kiện làm việc với nhân phẩm Điều này nghĩa là quyền làm việc không phải là quyền có việc làm tuyệt đối mà là quyền tự do lựa chọn và chấp nhận công việc Cá nhân có quyền từ chối công việc không mong muốn và không bị sa thải một cách không công bằng Điều 6 nhấn mạnh nguyên tắc "nhà nước công nhận quyền làm việc" nhằm tránh việc nhà nước áp đặt nghĩa vụ tuyệt đối về việc làm, điều này có thể dẫn đến kiểm soát toàn bộ quá trình lao động Quyền làm việc trao cho cá nhân quyền lựa chọn công việc và yêu cầu nhà nước đảm bảo các điều kiện cần thiết để thực hiện quyền này.

Khuôn khổ pháp lý toàn cầu đã sớm công nhận quyền lợi của lao động di trú, bắt đầu từ năm 1939 với Công ước Di trú vì việc làm do ILO ban hành Đến năm 1949, ILO đã sửa đổi công ước này thành Công ước số 97, và tiếp theo là Công ước số 143 vào năm 1975 nhằm hỗ trợ việc làm cho người lao động di trú Liên hợp quốc đã bắt đầu thảo luận về quyền của lao động di trú từ đầu thập kỷ 1970, và vào năm 1990, thông qua Công ước quốc tế về các quyền của người lao động di trú và gia đình họ (ICRMW) Hiện nay, ICRMW cùng với Công ước số 97 và Công ước số 143 của ILO là ba điều ước quốc tế quan trọng nhất bảo vệ quyền lợi của lao động di trú.

Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền của người lao động di trú và gia đình họ là một trong những văn bản quan trọng nhất, cùng với hai Công ước số khác, nhằm bảo vệ quyền lợi và nâng cao điều kiện sống của người lao động di trú.

Công ước số 97 và 143 của ILO đã thiết lập các tiêu chuẩn chung cho các quốc gia thành viên, giúp họ tham khảo và xây dựng nội luật nhằm bảo vệ quyền lợi của lao động di trú.

Chế độ Bảo hiểm xã hội đối với người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài 27 1 Quyền hưởng Bảo hiểm xã hội cho người lao động di trú

2.2.1 Quy ền hưở ng B ả o hi ể m xã h ội cho người lao độ ng di trú

Quyền con người, đặc biệt là quyền của người lao động di trú, được ghi nhận trong nhiều văn kiện luật nhân quyền quốc tế như Hiến chương Liên hợp quốc và Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 Các công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị và quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966 cũng xác định các quyền cơ bản như quyền sống, tự do và an ninh cá nhân, quyền được xét xử công bằng, quyền bảo vệ đời tư, quyền lập hội, quyền lao động, quyền được giáo dục, cùng quyền được hưởng và duy trì tiêu chuẩn sống thích đáng.

Quyền của người lao động di trú có những đặc điểm riêng biệt, được quy định rõ ràng trong hai Công ước của ILO: Công ước số 97 (1951) và Công ước số 143 (1973) Hai Công ước này nhấn mạnh rằng người lao động di trú phải được đối xử bình đẳng với người lao động bản địa, bao gồm quyền lợi về điều kiện lao động, an sinh xã hội và giáo dục Tuy nhiên, chúng chỉ áp dụng cho lao động di trú hợp pháp, trong khi thực tế nhiều người lao động di trú không thể vượt qua biên giới một cách hợp pháp Hơn nữa, sự di chuyển của người lao động di trú cũng ảnh hưởng đến gia đình họ, do đó, việc bảo vệ quyền lợi cho các thành viên trong gia đình trở nên cần thiết, dẫn đến sự ra đời của Công ước ICRMW.

Công ước ICRMW quy định quyền của người lao động di trú, bao gồm cả người có giấy tờ và không có giấy tờ, cùng quyền lợi của các thành viên gia đình họ Công ước này thiết lập các tiêu chuẩn bắt buộc về đối xử và quyền lợi lao động nhằm chấm dứt tình trạng bóc lột mà người lao động di trú thường gặp phải Ngoài ra, ICRMW cũng đề cập đầy đủ đến các quyền dân sự, chính trị, lao động, kinh tế, xã hội, văn hóa, và những quyền đặc thù của người lao động di trú.

Quyền dân sự và chính trị của người lao động di trú và gia đình họ được bảo vệ qua các điều khoản quan trọng: không ai bị tra tấn, đối xử tàn tệ hay vô nhân đạo (Điều 10); không bị bắt làm nô lệ hay cưỡng bức lao động (Điều 11); và không phải chịu trục xuất tập thể, mà chỉ có thể bị trục xuất theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền và phù hợp với pháp luật (Điều 22) Họ cũng được đảm bảo quyền có chính kiến và quyền được xét xử công bằng.

Người lao động di trú có quyền hưởng chế độ lao động bình đẳng như người lao động tại nước sở tại, bao gồm giờ làm việc, thời gian nghỉ, an toàn lao động và chăm sóc sức khỏe, theo quy định của luật pháp địa phương (Điều 25) Họ cũng có quyền tự do lập hội để bảo vệ lợi ích kinh tế, văn hóa, xã hội và các lợi ích khác (Điều 26) Bên cạnh đó, người lao động di trú được hưởng các thành quả lao động (Điều 32) và có quyền được đảm bảo an sinh xã hội (Điều 27).

Tất cả lao động di trú và gia đình họ có quyền được chăm sóc sức khỏe (Điều 28) và được hưởng sự giáo dục tương đương với người dân bản địa, trong đó con của lao động di trú có quyền được giáo dục cơ bản theo quy định của quốc gia sở tại (Điều 30) Các quốc gia thành viên Công ước phải tôn trọng văn hóa tín ngưỡng của lao động di trú và gia đình họ, không can thiệp vào việc duy trì mối liên hệ văn hóa với quốc gia gốc, đồng thời tăng cường các biện pháp bảo vệ quyền lợi này.

Người lao động di trú có các quyền đặc biệt, bao gồm quyền không bị tịch thu giấy tờ tùy thân và giấy tờ thông hành Họ có quyền yêu cầu sự bảo vệ và hỗ trợ từ cơ quan lãnh sự hoặc ngoại giao của nước mình tại nước sở tại để bảo đảm quyền lợi Dựa trên kết quả lao động, người lao động di trú và gia đình có quyền chuyển tiền, tài sản cá nhân và đồ dùng cá nhân theo luật của quốc gia liên quan Ngoài các Công ước quốc tế, quyền của họ còn được quy định trong các văn kiện châu lục, khu vực và các Hiệp định song phương.

Người lao động di trú được hưởng quyền lợi tương đương với người lao động tại nước sở tại, trong đó quyền an sinh xã hội được nhấn mạnh theo quy định của ILO Hệ thống bảo hiểm xã hội (BHXH) là nội dung chính của pháp luật BHXH, quy định rõ về đối tượng, điều kiện, thời gian và mức trợ cấp cho từng chế độ Đối tượng hưởng có thể là bản thân người lao động hoặc gia đình họ, trong khi điều kiện hưởng bao gồm các quy định về đóng góp Khi đáp ứng đủ điều kiện, người lao động và gia đình sẽ nhận được trợ cấp Trợ cấp BHXH được thể hiện qua thời gian nghỉ và mức trợ cấp tài chính nhằm bù đắp thu nhập bị giảm hoặc mất Mỗi chế độ có quy định riêng về thời gian và mức trợ cấp, phụ thuộc vào mục đích và mức độ suy giảm khả năng lao động cũng như thời gian đóng góp.

Pháp luật quốc tế không chỉ xác định rõ ràng tư cách pháp lý của lao động di trú mà còn bảo vệ các quyền cơ bản của họ, bao gồm quyền thụ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội và quyền an sinh xã hội.

2.2.2 Quyền được hưởng Bảo hiểm xã hội của người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

Chế độ bảo hiểm xã hội (BHXH) nhằm đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ gặp phải tình trạng giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc qua đời Người tham gia BHXH sẽ nhận được hỗ trợ khi đối mặt với các rủi ro này, dẫn đến suy giảm thu nhập Quyền lợi của họ được xác định dựa trên mức độ tham gia và đóng góp vào quỹ BHXH Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam năm 2014 quy định rõ đối tượng áp dụng tại điều 2.

“Điều 2: Đối tượng áp dụng

1 Người lao động là công dân Việt Nam thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bao gồm: a) Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả hợp đồng lao động được ký kết giữa người sử dụng lao động với người đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao động; b) Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từđủ 01 tháng đến dưới 03 tháng; c) Cán bộ, công chức, viên chức; d) Công nhân quốc phòng, công nhân công an, người làm công tác khác trong tổ chức cơ yếu; đ) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân; e) Hạ sĩ quan, chiến sĩ quân đội nhân dân; hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn; học viên quân đội, công an, cơ yếu đang theo học được hưởng sinh hoạt phí; g) Người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định tại Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ởnước ngoài theo hợp đồng;”

Theo Điều 2, Khoản g của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng bắt buộc phải tham gia bảo hiểm xã hội Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài quy định rằng việc tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc được thực hiện theo Nghị định 115/2015/NĐ-CP Các hợp đồng áp dụng bao gồm: hợp đồng với doanh nghiệp dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, hợp đồng với doanh nghiệp trúng thầu hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài, hợp đồng thực tập nâng cao tay nghề, và hợp đồng cá nhân.

Pháp luật BHXH hiện đang thiếu sự thống nhất, khi Luật BHXH quy định NLĐ Việt Nam làm việc ở nước ngoài là đối tượng bắt buộc tham gia chế độ BHXH, nhưng Nghị định 115/2015/NĐ-CP lại giới hạn các chế độ BHXH mà họ được tham gia chỉ còn hưu trí và tử tuất Hơn nữa, pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể cho NLĐ làm việc ở nước ngoài với doanh nghiệp trúng thầu hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài Mặc dù Nghị định 115/2015/NĐ-CP khẳng định NLĐ làm việc ở nước ngoài vẫn được coi là NLĐ và hưởng đầy đủ các chế độ BHXH như ốm đau, thai sản, TNLĐ-BNN, hưu trí và tử tuất, nhưng vẫn thiếu quy định rõ ràng cho nhóm đối tượng này Doanh nghiệp trúng thầu hoặc tổ chức cá nhân đầu tư ra nước ngoài có NLĐ làm việc vẫn phải đảm bảo quá trình đóng BHXH liên tục vào quỹ.

Bảo hiểm xã hội (BHXH) đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của người lao động (NLĐ) Người sử dụng lao động vẫn cần tham gia nghĩa vụ BHXH không chỉ để thực hiện trách nhiệm với NLĐ mà còn vì lợi ích của chính họ Sự chia sẻ giữa các nhà sử dụng lao động giúp quá trình sản xuất không bị ảnh hưởng khi có nhu cầu bảo hiểm phát sinh Tuy nhiên, đối với NLĐ làm việc ở nước ngoài theo hình thức thực tập nâng cao tay nghề, người sử dụng lao động vẫn là pháp nhân Việt Nam Pháp luật về BHXH tại Việt Nam hiện còn thiếu sót trong việc quy định các chế độ BHXH cho NLĐ đi làm ở nước ngoài theo hình thức này.

Phần lớn người lao động (NLĐ) Việt Nam làm việc ở nước ngoài chỉ được tham gia chế độ hưu trí và chế độ tử tuất, dẫn đến thiệt thòi so với NLĐ trong nước Mặc dù họ có thể tham gia các chế độ bảo hiểm xã hội (BHXH) ngắn hạn tại Nhật Bản, nhưng các chế độ này chỉ áp dụng trong lãnh thổ Nhật Bản Khi NLĐ quay về Việt Nam do ốm đau hoặc sinh con, họ không được hưởng các chế độ này, và do không tham gia BHXH ngắn hạn tại Việt Nam, họ cũng không nhận được trợ cấp thai sản hay trợ cấp ốm đau Khi tham gia chế độ tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp (TNLĐ-BNN) ở Nhật Bản, NLĐ có thể nhận trợ cấp, nhưng nếu phát hiện bệnh nghề nghiệp khi về nước, họ sẽ không được hưởng chế độ này do không tham gia BHXH tại Việt Nam Trợ cấp BNN chỉ được chi trả hàng tháng, và khi NLĐ hết hợp đồng trở về nước, họ sẽ không còn nhận được trợ cấp này Hơn nữa, sự thiếu liên kết giữa pháp luật BHXH Nhật Bản và Việt Nam càng làm tăng thiệt thòi cho NLĐ khi chế độ trợ cấp chấm dứt khi họ trở về.

THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI CHO NGƯỜI VIỆT NAM LAO ĐỘNG Ở NHẬT BẢN

Ngày đăng: 06/12/2021, 10:36

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 3.1. Một số nước/vùng lãnh thổ tiếp nhận nhiều người lao động Việt Nam nh ất năm 2012-2016  - Khóa luận Pháp luật Bảo hiểm xã hội đối với người lao động Viêt Nam làm viêc ở nước ngoài tại địa bàn Nhật Bản
Bảng 3.1. Một số nước/vùng lãnh thổ tiếp nhận nhiều người lao động Việt Nam nh ất năm 2012-2016 (Trang 47)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w