Tính cấp thiết của đề tài
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường và hoạt động thương mại toàn cầu đã dẫn đến sự gia tăng đáng kể số lượng chủ thể sản xuất, kinh doanh trong mọi lĩnh vực Để lựa chọn sản phẩm chất lượng phù hợp với nhu cầu và khả năng tài chính, người tiêu dùng cần dựa vào nhãn hiệu gắn trên mỗi sản phẩm Nhãn hiệu không chỉ đơn thuần là thiết kế bắt mắt mà còn phản ánh sự đầu tư của nhà sản xuất, giúp người tiêu dùng nhận diện rõ ràng về nguồn gốc và chất lượng sản phẩm Nhãn hiệu trở thành tài sản quý giá của doanh nghiệp, đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng danh tiếng, gia tăng doanh số và lợi nhuận Do đó, các doanh nghiệp cần có biện pháp bảo vệ nhãn hiệu để ngăn chặn các hành vi xâm phạm quyền lợi liên quan đến tài sản trí tuệ này.
Để bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh chân chính và đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, việc xử lý các hành vi xâm phạm quyền liên quan đến nhãn hiệu là rất cần thiết tại Việt Nam Tuy nhiên, quy định pháp luật và thực thi bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu vẫn còn nhiều bất cập Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào thực trạng bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến nhãn hiệu của doanh nghiệp Việt Nam và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả ngăn chặn và xử lý các hành vi xâm phạm tài sản nhãn hiệu.
M ục đích nghiên cứ u
Nghiên cứu thực trạng và tình hình thực thi pháp luật bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tại các doanh nghiệp là cần thiết để đánh giá hiệu quả và nhận diện những khó khăn trong việc bảo vệ quyền lợi của các chủ sở hữu nhãn hiệu Việc làm rõ các vấn đề này không chỉ giúp nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của quyền sở hữu trí tuệ mà còn góp phần hoàn thiện khung pháp lý liên quan.
Việt Nam cần cải thiện việc bảo vệ tài sản trí tuệ, đặc biệt là nhãn hiệu của doanh nghiệp, bằng cách phát hiện và khắc phục những kẽ hở trong quy định và thực thi pháp luật.
Đối tượ ng và ph ạ m vi nghiên c ứ u
Khóa luận nghiên cứu việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tại Việt Nam trong bối cảnh phát triển pháp luật hiện nay, đồng thời so sánh với quy định tương tự ở các quốc gia khác và các điều ước quốc tế Bài viết phân tích thực trạng bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, chỉ ra những điểm tích cực và hạn chế Qua việc xem xét các quy định pháp luật và thực tiễn thi hành, khóa luận đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp cho doanh nghiệp Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứ u
Để thực hiện khóa luận, phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng là luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Khóa luận được xây dựng dựa trên sự kết hợp các phương pháp nghiên cứu đặc trưng của khoa học pháp lý, bao gồm thu thập thông tin, phân tích tài liệu, thống kê, phân tích, tổng hợp và so sánh Nhờ vào việc áp dụng các phương pháp này, khóa luận đã thu thập được thông tin và đưa ra những kết luận chính xác về các vấn đề nghiên cứu.
Ý nghĩa
Nghiên cứu này sẽ cung cấp thông tin lý luận và thực tiễn quan trọng về việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu doanh nghiệp tại Việt Nam.
Khóa luận đề xuất các kiến nghị nhằm cải thiện quy định pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, đặc biệt là trong việc xác định thiệt hại và bồi thường thiệt hại Những đề xuất này nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người sở hữu bị xâm phạm, đồng thời bổ sung vào nghiên cứu về sở hữu trí tuệ và quyền sở hữu công nghiệp Bên cạnh đó, khóa luận cung cấp các luận điểm chi tiết về biện pháp dân sự bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp, góp phần làm nguồn thông tin hữu ích cho công tác giảng dạy trong lĩnh vực này Những phân tích và ý nghĩa thực tiễn của khóa luận giúp nâng cao hiểu biết về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu.
Khóa luận đã chỉ ra những hạn chế trong công tác thực thi bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, đồng thời đề xuất các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trong lĩnh vực này Việc cải thiện quy trình thực thi không chỉ bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu nhãn hiệu mà còn góp phần nâng cao tính hiệu quả trong công tác quản lý và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
Bố cục khóa luận
Ngoài lời nói đầu và kết luận, bài nghiên cứu có bố cục gồm 3 chương:
MỘ T S Ố V ẤN ĐỀ LÝ LU Ậ N V Ề QUY Ề N S Ở H Ữ U CÔNG
Nhãn hiệu và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Trong nền kinh tế thị trường, nhãn hiệu đóng vai trò quan trọng trong việc tạo sự khác biệt cho sản phẩm, giúp doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh và thu hút khách hàng Nó cũng góp phần xây dựng niềm tin của người tiêu dùng và tạo ra giá trị, củng cố ấn tượng tích cực về hàng hóa và dịch vụ của doanh nghiệp.
Theo các điều ước quốc tế, nhãn hiệu là dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một chủ thể với hàng hóa hoặc dịch vụ của chủ thể khác Các dấu hiệu này có thể bao gồm từ ngữ, tên riêng, chữ cái, chữ số, yếu tố hình họa, tổ hợp màu sắc, hoặc hình dạng của hàng hóa và bao bì.
Tùy thuộc vào nhận thức của người tiêu dùng ở từng quốc gia, hệ thống pháp luật về nhãn hiệu hàng hóa sẽ có những quy định khác nhau Bài nghiên cứu này sẽ trình bày khái niệm về hàng hóa tại một số quốc gia như Mỹ, Pháp và Việt Nam.
Tại Hoa Kỳ, hệ thống bảo hộ nhãn hiệu được chia thành hai cấp độ chính: cấp liên bang và cấp tiểu bang Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu ở cấp liên bang sẽ tuân theo quy định của Đạo luật về Nhãn hiệu Liên bang.
Luật Lanham, được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua vào ngày 05/07/1946, quy định rằng nhãn hiệu Liên bang được bảo hộ có phạm vi trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ và các vùng đất phụ thuộc Đạo luật này định nghĩa nhãn hiệu hàng hóa là bất kỳ từ, tên, biểu tượng, hoặc hình ảnh, hoặc sự kết hợp của chúng, mà một người sử dụng hoặc có ý định sử dụng trong thương mại để xác định và phân biệt hàng hóa của mình với các hàng hóa khác.
14 được bán bởi người khác và nhằm để chỉ ra nguồn gốc của hàng hóa, ngay cả khi nguồn gốc của chúng chưa được biết đến” [15]
Bộ luật sở hữu trí tuệ Pháp quy định tương tự như Đạo Luật Laham của Hoa Kỳ về nhãn hiệu hàng hóa và dịch vụ, định nghĩa nhãn hiệu là dấu hiệu có thể biểu thị bằng đồ hoạ để phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của cá nhân hoặc pháp nhân Dấu hiệu này có thể bao gồm từ ngữ, sự kết hợp từ ngữ, tên địa lý, bút danh, chữ cái, chữ số, âm thanh, hình ảnh, nhãn sản phẩm, logo, hình dáng sản phẩm, bao bì, cũng như sự kết hợp và sắp xếp màu sắc.
Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi bổ sung năm 2009) tại Việt Nam định nghĩa nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau Quy định mới mở rộng phạm vi các dấu hiệu, không còn liệt kê cụ thể mà chỉ quy định chung về chức năng của nhãn hiệu Trái ngược với luật năm 2005, chỉ quy định ba dấu hiệu: từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, hình ba chiều, hoặc sự kết hợp của các yếu tố đó, luật mới cho thấy sự tiến bộ trong nhận thức của người tiêu dùng và trình độ quản lý tại Việt Nam, giúp hội nhập với quốc tế tốt hơn.
Nhãn hiệu hàng hóa được phân loại theo nhiều cách khác nhau, trong đó có nhãn hiệu hàng hóa và nhãn hiệu dịch vụ, tùy thuộc vào đối tượng hàng hóa và dịch vụ mà chúng phục vụ Thông thường, các văn bản pháp luật sử dụng thuật ngữ nhãn hiệu để chỉ chung cả hai loại này Ngoài ra, theo chức năng và cách sử dụng, nhãn hiệu còn được chia thành nhãn hiệu liên kết, nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận.
1.1.1.2 Chức năng của nhãn hiệu
Một nhãn hiệu thường đảm nhận bốn chức năng chính: phân biệt sản phẩm, chỉ dẫn nguồn gốc hoặc xuất xứ, bảo đảm chất lượng và quảng cáo.
Thứ nhất, chức năng phân biệt
Để lựa chọn hàng hóa và dịch vụ phù hợp với nhu cầu và khả năng tài chính, người tiêu dùng thường dựa vào các dấu hiệu và nhãn hiệu gắn trên sản phẩm hoặc bao bì Nhãn hiệu không chỉ giúp phân biệt sản phẩm của một doanh nghiệp với những sản phẩm khác trên thị trường, mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc nhận diện thương hiệu Ví dụ, nhãn hiệu xe Honda khác biệt hoàn toàn với Yamaha hay Suzuki Chức năng phân biệt này là yếu tố then chốt đối với cả người tiêu dùng và doanh nghiệp trong việc kinh doanh hàng hóa và dịch vụ.
Thứ hai, chức năng chỉ dẫn nguồn gốc xuất hoặc xuất xứ
Chức năng chỉ dẫn nguồn gốc của nhãn hiệu không yêu cầu phải thông tin cụ thể về nhà sản xuất hay người kinh doanh, mà chỉ cần tạo niềm tin cho người tiêu dùng vào doanh nghiệp chịu trách nhiệm về sản phẩm mang nhãn hiệu đó Người tiêu dùng có thể hiểu rằng các sản phẩm cùng nhãn hiệu có nguồn gốc hoặc mối liên hệ với nhau Chẳng hạn, tập đoàn Masan sử dụng nhãn hiệu Chinsu cho các sản phẩm nước mắm, nước tương và tương ớt, cho phép người tiêu dùng tin rằng chúng đều được sản xuất bởi cùng một doanh nghiệp.
Thứ ba, chức năng bảo đảm chất lượng hàng hóa, dịch vụ
Chức năng chất lượng đảm bảo cung cấp thông tin về chất lượng và giá cả sản phẩm, giúp người tiêu dùng đưa ra quyết định mua sắm thông minh hơn.
Người tiêu dùng có thể chọn hàng hóa phù hợp với nhu cầu nhờ vào thông tin từ nhãn hiệu Chẳng hạn, khi đặt vé máy bay, nếu muốn tìm vé giá rẻ, họ thường chọn Vietjet hoặc Jetstar Ngược lại, để đảm bảo chất lượng và giá cả hợp lý, người tiêu dùng thường ưu tiên Vietnam Airlines, nhằm tránh tình trạng hủy chuyến hay hoãn.
Thứ tư, chức năng quảng cáo
Nhãn hiệu không chỉ cá thể hóa sản phẩm qua các dấu hiệu và màu sắc đặc trưng mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc quảng cáo, giúp sản phẩm nhanh chóng tiếp cận tay người tiêu dùng.
1.1.2 Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Thứ nhất, khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Pháp luật quốc tế công nhận nhãn hiệu là một trong những đối tượng được bảo hộ sở hữu công nghiệp từ sớm, theo Công ước Paris Các đối tượng bảo hộ sở hữu công nghiệp bao gồm: patent, mẫu hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, tên thương mại, chỉ dẫn nguồn gốc, và chống cạnh tranh không lành mạnh Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu được quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005, xác định quyền sở hữu của cá nhân, tổ chức đối với nhãn hiệu và quyền áp dụng biện pháp hợp pháp để ngăn chặn hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong quá trình đăng ký và sử dụng nhãn hiệu.
Thự c tr ạ ng b ả o v ệ quy ề n s ở h ữ u công nghi ệp đố i v ớ i nhãn hi ệ u của các doanh nghiệp tại Việt Nam
Th ự c tr ạ ng pháp lu ậ t b ả o v ệ quy ề n s ở h ữ u công nghi ệp đố i v ớ i nhãn
của các doanh nghiệp tại Việt Nam
2.1.1.1 Lịch sử pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu của doanh nghiệp Việt Nam
So với lịch sử hình thành và phát triển về pháp luật bảo hộ trên thế giới, ở
Việt Nam đang trong quá trình phát triển pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, nhưng vẫn còn chậm do những hoàn cảnh lịch sử đặc biệt.
Vào ngày 8/3/1949, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã gia nhập hai điều ước quốc tế quan trọng về bảo hộ nhãn hiệu, bao gồm Công ước Paris năm 1883 về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và Thỏa ước Madrid năm 1891 về đăng ký quốc tế nhãn hiệu Năm 1976, chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã kế thừa những điều ước này và cùng năm đó, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO), đánh dấu bước phát triển mới trong pháp luật về sở hữu trí tuệ tại Việt Nam.
Văn bản pháp lý đầu tiên quy định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (SHCN) là Nghị định 197/HĐBT ngày 14/12/1982, ban hành “Điều lệ về nhãn hiệu hàng hóa” của Hội đồng Bộ trưởng Trước đó, vào năm 1982, pháp luật Việt Nam đã có những quy định sơ khai về sở hữu trí tuệ, cụ thể là Nghị định số 175-TTg về đăng ký nhãn hiệu Tại miền Nam, một số quy định về SHCN, bao gồm nhãn hiệu, đã được bảo hộ theo Luật số 13/57 ngày 1/8/1957 và Luật số 14/59 ngày 11/09/1959 liên quan đến việc chống sản xuất hàng giả.
Pháp luật về sở hữu trí tuệ (SHTT) ở Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể từ sau năm 1986, đánh dấu thời kỳ đổi mới Nhiều văn bản pháp luật quan trọng đã được ban hành, bao gồm Điều lệ kiểu dáng công nghiệp vào ngày 13/05/1988, Pháp lệnh chuyển giao công nghệ nước ngoài vào ngày 5/12/1988, và Nghị định số 49/HĐBT ngày 4/03/1991, nhằm hướng dẫn thi hành Pháp lệnh chuyển giao công nghệ nước ngoài.
Vào năm 1991, Việt Nam ban hành Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) ngày 11/02/1989 và Nghị định 84/HĐBT ngày 20/03/1990 để hướng dẫn thi hành, tuy nhiên, các văn bản này vẫn còn nhiều hạn chế và chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu bảo hộ trong nền kinh tế thị trường Điều 60 của Hiến pháp năm 1992 quy định rằng công dân có quyền nghiên cứu và sáng tạo, đồng thời Nhà nước có trách nhiệm bảo hộ quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp.
Việc quy định bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) trong văn bản pháp lý cao nhất đã thúc đẩy sự phát triển của pháp luật về SHTT tại Việt Nam Nghị định 54/2000/NĐ-CP, ban hành ngày 03/10/2000, quy định về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và chống cạnh tranh không lành mạnh Cùng năm, Việt Nam ký hiệp định thương mại với Hoa Kỳ, trong đó có quy định bảo hộ quyền SHTT Bộ luật Dân sự 2005 đã hệ thống hóa các văn bản pháp luật trước đó, nhưng chỉ dừng lại ở việc đưa ra các nguyên tắc chung về quyền SHTT.
Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế, Việt Nam đã ban hành hai đạo luật quan trọng về sở hữu trí tuệ: Luật Cạnh tranh 2004 và Luật Sở hữu trí tuệ 2005 Kết hợp với Bộ luật Dân sự 2005 và các văn bản hướng dẫn, hệ thống pháp luật hiện nay đảm bảo bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu trước các hành vi xâm phạm, phù hợp với cam kết quốc tế khi gia nhập WTO.
Quy định pháp luật về bảo hộ quyền đối với nhãn hiệu của doanh nghiệp được chia thành hai nhóm chính Nhóm đầu tiên bao gồm các quy định phòng ngừa hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, giúp doanh nghiệp bảo vệ nhãn hiệu trước khi xảy ra xâm phạm Nhóm thứ hai là các quy định xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu.
Để bảo vệ nhãn hiệu, doanh nghiệp cần thực hiện 32 nghiệp vụ quan trọng, giúp nhận diện và xử lý kịp thời các hành vi xâm phạm Những nghiệp vụ này không chỉ hỗ trợ doanh nghiệp trong việc bảo vệ quyền lợi của mình mà còn cung cấp căn cứ pháp lý cho cơ quan nhà nước trong việc xử lý các cá nhân, tổ chức vi phạm.
Hiện nay, việc đăng ký bảo hộ và xử lý các hành vi xâm phạm trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, đặc biệt là liên quan đến nhãn hiệu, đang trở thành một vấn đề quan trọng.
Việt Nam điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp luật từ các ngành khác nhau, và việc áp dụng văn bản luật để xử lý hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu phụ thuộc vào tính chất và mức độ vi phạm Các văn bản quy phạm pháp luật dưới đây là nguồn chủ yếu trong việc xử lý các hành vi này.
- Luật Sở hữu trí tụê năm 2005 (sửa đổi và bổ sung năm 2009) và các văn bản hướng dẫn thi hành, gồm:
Nghị định số 119/2010/NĐ-CP đã sửa đổi và bổ sung một số điều của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP, nhằm quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các điều khoản liên quan Nội dung của nghị định này tập trung vào việc cải thiện quy trình và điều kiện thực hiện các quy định pháp luật hiện hành.
Luật Sở hữu trí tuệ quy định về việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước trong lĩnh vực này, đồng thời được lồng ghép với Nghị định số 105/2006/NĐ-CP để đảm bảo tính thống nhất và hiệu quả trong việc thực thi các quy định liên quan.
Nghị định số 22/2018/NĐ-CP quy định chi tiết các điều khoản và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 cùng với Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009, tập trung vào quyền tác giả và quyền liên quan.
Nghị định số 122/2010/NĐ-CP đã được ban hành nhằm sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 103/2006/NĐ-CP, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật Sự điều chỉnh này nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và đảm bảo tính khả thi trong việc thực hiện các quy định pháp luật liên quan.
Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp và bản lồng ghép với Nghị định số 103/2006/NĐ-CP;
• Nghị định 39/2018/NĐ-CP vềhướng dẫn Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa
• Nghịđịnh số 99/2013/NĐ-CP ngày 29/08/2013 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Sở hữu công nghiệp;
• Thông tư 01/2007/TT-BKHCN ngày 14/02/2007 hướng dẫn thi hành Nghịđịnh số 103/2006/NĐ-CP ngày 22 /9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết
Th ự c tr ạ ng th ự c thi b ả o v ệ quy ề n s ở h ữ u công nghi ệp đố i v ớ i nhãn hiệu của các doanh nghiệp tại Việt Nam
của các doanh nghiệp tại Việt Nam
2.2.1 Thực trạng thực thi pháp luật
Việc thực thi pháp luật bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu của doanh nghiệp chủ yếu thuộc về các chủ thể như cơ quan nhà nước, tổ chức bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và chính bản thân doanh nghiệp.
Chủ sở hữu doanh nghiệp có nhãn hiệu cần bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp của mình bằng cách thực hiện các quyền tự bảo vệ theo quy định của pháp luật Để bảo vệ nhãn hiệu trên thị trường, các doanh nghiệp nên nộp hồ sơ đăng ký bảo hộ nhãn hiệu cho cơ quan có thẩm quyền càng sớm càng tốt Đồng thời, họ cũng có quyền khởi kiện các đối tượng khác khi phát hiện có dấu hiệu xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu đã được đăng ký.
Theo Cục SHTT (Bộ KH&CN), trong 5 tháng đầu năm 2017, đã có 19.131 đơn đăng ký nhãn hiệu được tiếp nhận, bao gồm 15.703 đơn nhãn hiệu quốc gia và 3.428 đơn nhãn hiệu quốc tế qua Hệ thống Madrid, tăng 3.8% so với cùng kỳ năm 2016 Điều này cho thấy nhận thức của các chủ sở hữu nhãn hiệu đã được nâng cao, họ ngày càng có ý thức tự bảo vệ nhãn hiệu của mình trên thị trường.
Bảng 1: Thống kê đơn đăng ký nhãn hiệu tại 5 tỉnh thành nhiều nhất trên cảnước trong năm 2017
STT Tỉnh/ Thành phố SốĐơn
(Theo số liệu thống kê của Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam)
Mặc dù số lượng đơn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu đã tăng, nhưng vẫn chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam, với khoảng 600.000 doanh nghiệp và hơn 2 triệu hộ kinh doanh cá thể, chỉ có khoảng 300.000 nhãn hiệu được đăng ký bảo hộ Điều này cho thấy nhận thức về việc đăng ký nhãn hiệu giữa các chủ thể kinh doanh còn chưa đồng đều, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và lớn thực hiện, trong khi doanh nghiệp nhỏ và hộ kinh doanh vẫn chưa nhận thức rõ vai trò của việc này.
Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực này thực hiện nhiệm vụ thông qua hai cơ chế chính: ngăn cấm và áp dụng chế tài xử phạt.
Việc ngăn cấm xâm phạm nhãn hiệu sẽ được thực hiện ngay từ giai đoạn trước khi nhãn hiệu bị xâm hại Cụ thể, khi nhận hồ sơ đăng ký nhãn hiệu, nếu phát hiện nhãn hiệu không đáp ứng tiêu chí "tự bảo vệ" hoặc có sự tương đồng với các nhãn hiệu đã được đăng ký trước, cơ quan chức năng sẽ từ chối cấp văn bằng bảo hộ Ngoài ra, các bên không phải là chủ sở hữu nhãn hiệu cũng không được phép sử dụng nhãn hiệu đã được đăng ký cho mục đích cá nhân mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu, nhằm tránh gây thiệt hại cho doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Cũng theo số liệu của Cục SHTT (BộKH&CN) thì trong 5 tháng đầu năm
Năm 2017, Cục Sở hữu trí tuệ đã tiếp nhận 19.131 đơn đăng ký nhãn hiệu và xử lý thành công 11.040 nhãn hiệu, trong đó có 8.462 nhãn hiệu quốc gia và 2.578 nhãn hiệu quốc tế thông qua Hệ thống Madrid Tuy nhiên, cơ quan này đã không cấp văn bằng bảo hộ cho 8.091 đơn, chiếm 42,3% tổng số đơn đăng ký Điều này cho thấy Cục SHTT đã xem xét kỹ lưỡng mức độ "tự bảo vệ" của các nhãn hiệu đăng ký và đảm bảo bảo vệ cho những nhãn hiệu đã được đăng ký trước đó.
Chế tài xử phạt sẽ được áp dụng sau khi xác định có chủ thể xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu của doanh nghiệp Quyết định xử phạt sẽ do các cơ quan tố tụng, tòa án đưa ra và cơ quan thi hành án thực hiện Các chế tài này bao gồm ba biện pháp chính: biện pháp hành chính, biện pháp dân sự và biện pháp hình sự.
Các chủ thể khác cần tôn trọng quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu đã được bảo hộ của doanh nghiệp, tránh các hành vi xâm phạm làm tổn hại đến lợi ích của doanh nghiệp chủ sở hữu và người tiêu dùng Trong trường hợp đã có hành vi xâm phạm và có quyết định xử phạt từ cơ quan chức năng, các chủ thể phải tuân thủ nghiêm túc, không được lẩn tránh hay không thực hiện quyết định này.
Xâm phạm thương hiệu đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng với nhiều phương thức thực hiện tinh vi, bao gồm việc sử dụng công nghệ cao và thiết bị hiện đại để sản xuất và sao chép hàng hóa Điều này khiến cho người tiêu dùng và các cơ quan chức năng gặp khó khăn trong việc phát hiện và xử lý Hơn nữa, tính chất vi phạm ngày càng trở nên nguy hiểm hơn do có sự tổ chức chặt chẽ, không chỉ diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam mà còn mở rộng ra quốc tế.
Sự xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ không chỉ xảy ra trong nước mà còn lan rộng ra toàn cầu, với sự tham gia của nhiều tổ chức và cá nhân nước ngoài Các loại hàng hóa bị xâm phạm rất đa dạng, từ sản phẩm tiêu dùng thông thường đến hàng cao cấp, bao gồm quần áo, mỹ phẩm, thuốc tân dược, thực phẩm, phụ tùng xe máy, hàng gia dụng và thiết bị điện tử Đặc biệt, những thương hiệu uy tín càng dễ bị sao chép, khiến chúng luôn nằm trong danh sách những thương hiệu bị xâm phạm nhiều nhất.
Số vụ xâm phạm thương hiệu và hàng giả trên thị trường đang gia tăng nhanh chóng, mặc dù chưa có số liệu thống kê chính thức Thời gian xuất hiện hàng giả đã rút ngắn, từ nửa năm xuống còn khoảng nửa tháng sau khi sản phẩm chính hãng ra mắt Đặc biệt, trong lĩnh vực công nghệ, hàng giả đôi khi xuất hiện trước cả sản phẩm chính thức Các cơ quan chức năng đã ghi nhận sự gia tăng trong số lượng vụ việc vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm cả hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu.
Theo báo cáo của Thanh tra Bộ Khoa học và công nghệ, trong năm 2013 -
Năm 2014, lực lượng thanh tra và kiểm tra từ các bộ, ngành và địa phương đã xử lý 32.474 vụ việc liên quan đến hàng giả, kém chất lượng và vi phạm quyền sở hữu trí tuệ Theo báo cáo thường niên về hoạt động sở hữu trí tuệ của Cục Sở hữu trí tuệ năm 2015, trong giai đoạn 2011-2015, nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp là hai đối tượng bị xâm phạm nhiều nhất, với mức xử phạt cao nhất.
Năm 2015, có khoảng 1.500 vụ xâm phạm nhãn hiệu được xử lý hành chính, với tổng số tiền phạt gần 13 tỷ đồng, trong đó nhãn hiệu là đối tượng bị xâm phạm chủ yếu, chiếm 97% số vụ và 98% tổng số tiền phạt Các địa phương như TP Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Yên Bái, Đồng Nai, Đà Nẵng và Cần Thơ là những nơi thực hiện xử lý xâm phạm nhiều nhất Dưới đây là số vụ việc được các cơ quan có thẩm quyền phát hiện và giải quyết.
Một là, cơ quan Thanh tra chuyên ngành KH&CN
Từ năm 2006 đến 2008, Cơ quan thanh tra Khoa học và Công nghệ đã thực hiện thanh tra 3.574 cơ sở, phát hiện và xử lý 459 vụ vi phạm quyền sở hữu công nghiệp, đồng thời tiến hành xử phạt các hành vi vi phạm này.
42 cảnh cáo 152 cơ sở, phạt tiền 307 cơ sở với số tiền 1.847.988.200 đồng, buộc tiêu huỷ, loại bỏ yếu tố vi phạm ra khỏi nhiều loại sản phẩm, hàng hoá
- Năm 2009, Thanh tra Bộ KH&CN đã tiến hành thanh tra 61 vụ, đã xử lý