1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Đề tài quan hệ ngoại giao việt nam và cộng hòa dân chủ đức từ năm 1955 đến 1990

71 8 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Quan Hệ Ngoại Giao Việt Nam Và Cộng Hòa Dân Chủ Đức Từ Năm 1955 Đến 1990
Tác giả Đỗ Quốc Huy, Nguyễn Duy Công, Nông Ngọc Quyền, Phùng Đức Trung
Người hướng dẫn ThS. Đặng Đình Tiến
Trường học Trường Đại Học Nội Vụ Hà Nội
Chuyên ngành Khoa Khoa Học Chính Trị
Thể loại báo cáo tổng hợp
Năm xuất bản 2020
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 71
Dung lượng 1,08 MB

Cấu trúc

  • A. PH Ầ N M Ở ĐẦ U (7)
  • B. PH Ầ N N Ộ I DUNG (11)
  • Chương 1: NH Ữ NG NHÂN T Ố CH Ủ Y Ế U T ÁC ĐỘNG ĐẾ N QUAN H Ệ (11)
    • 1.1. B ố i c ả nh qu ố c t ế , khu v ự c cu ố i th ập niên 40, đầ u th ậ p niên 50 c ủ a Th ế (11)
    • 1.2. Nh ữ ng nhân t ố ti ền đề trướ c khi Vi ệ t Nam – CHDC Đứ c thi ế t l ậ p quan (16)
    • 1.3. Vi ệ t Nam – C ộ ng hòa Dân ch ủ Đứ c thi ế t l ậ p quan h ệ ngo ạ i giao và nhu (20)
  • Chương 2: QUAN H Ệ VI Ệ T NAM – C Ộ NG HÒA DÂN CH Ủ ĐỨ C TRÊN CÁC LĨNH VỰ C (22)
    • 2.1. Quan h ệ Vi ệ t Nam – C ộ ng hòa Dân ch ủ Đức trên lĩnh vự c chính tr ị - đố i ngo ạ i (22)
    • 2.2. Quan h ệ Vi ệ t Nam – C ộ ng hòa Dân ch ủ Đức trên lĩnh vự c quân s ự , an (26)
    • 2.3. Quan h ệ Vi ệ t Nam – C ộ ng hòa Dân ch ủ Đức trên lĩnh vự c kinh t ế - (28)
    • 2.4. Trên lĩnh vực văn hoá – giáo d ụ c – y t ế – cơ sở h ạ t ầ ng (32)
    • 2.5. Quan h ệ Vi ệ t Nam – C ộ ng hòa Dân ch ủ Đức trên lĩnh vự c h ợ p tác lao độ ng Xã h ộ i Ch ủ nghĩa (34)
  • Chương 3: BÀI H Ọ C KINH NGHI Ệ M VÀ TRI Ể N V Ọ NG QUAN H Ệ (39)
    • 3.1. Đánh giá mố i quan h ệ Vi ệ t Nam – C ộ ng hòa Dân ch ủ Đứ c t ừ 1955 – (39)
    • 3.2. Quan h ệ ngo ạ i giao Vi ệ t Nam – CHLB Đứ c d ự a trên n ề n t ả ng l ị ch s ử (40)
    • 3.3. C ộng đồng ngườ i Vi ệ t t ại Đứ c và m ố i quan h ệ gi ữ a Đứ c và Vi ệ t Nam (42)
    • 3.4. Tri ể n v ọ ng phát tri ể n kinh t ế Vi ệ t Nam – CHLB Đứ c (43)
    • C. PH Ầ N K Ế T LU Ậ N (47)

Nội dung

PH Ầ N M Ở ĐẦ U

1 Lí do chọn đề tài

Trong suốt quá trình bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam, sự hỗ trợ từ bạn bè quốc tế và các nước xã hội chủ nghĩa anh em đã đóng góp một vai trò quan trọng.

Cộng hòa Dân chủĐức (hay còn được gọi là Đông Đức)

Với tinh thần quốc tế vô sản, tình anh em xã hội chủ nghĩa trong sáng,

Cộng hòa Dân chủ Đức đã đóng góp to lớn cho việc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa Trong những năm tháng ác liệt của chiến tranh và giai đoạn bị bao vây cấm vận, nhà nước và nhân dân Đông Đức đã cung cấp sự hỗ trợ vô giá về chính trị, ngoại giao, quốc phòng - an ninh, kinh tế - xã hội, y tế và cơ sở hạ tầng.

Năm 2020 đánh dấu 90 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và 65 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Đức Mặc dù chế độ chính trị đã không còn, nhưng nhân dân Việt Nam vẫn luôn ghi nhớ và biết ơn những đóng góp quý báu từ nước Đức xã hội chủ nghĩa Tình cảm của nhân dân Đức dành cho Việt Nam trong những năm tháng khó khăn cần được phổ biến rộng rãi, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ, những người sinh ra sau ngày nước Đức thống nhất.

Mặt khác, dựa vào lịch sử quan hệ ngoại giao tốt đẹp giữa Việt Nam và

Cộng hòa Dân chủ Đức, mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và nước Đức mới cũng cần được vun đắp và phát triển sâu rộng hơn

Xuất phát từ những lý do trên, nhóm tác giảđã lựa chọn đề tài: “ Quan h ệ Ngo ạ i giao Vi ệ t Nam và C ộ ng hòa Dân ch ủ Đứ c t ừ năm 1955 đế n 1990 ”

2 Tổng quan tình hình nghiên cứu:

Hiện tại đã có nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước nghiên cứu về quan hệ Việt Nam –CHDC Đức trên từng lĩnh vực như:

GS Nguyễn Văn Ngọ (2018), Kể Lại Chuyện Việt Nam tham gia hợp tác

Bài viết này khắc họa rõ nét quá trình Việt Nam tham gia hợp tác khoa học kỹ thuật trong khuôn khổ Hội đồng Tương trợ Kinh tế các nước Xã hội chủ nghĩa (SEV) Tác giả đã chỉ ra những khó khăn và thuận lợi mà Việt Nam gặp phải trong quá trình tham gia tổ chức này, từ đó làm nổi bật những đóng góp và thành tựu đạt được trong lĩnh vực hợp tác quốc tế.

Cơ quan Ủy viên Liên bang về các tài liệu của Dịch vụAn ninh Nhà nước

Trong nghiên cứu của Cộng hòa Dân chủ Đức cũ (2016), tác giả đã phân tích mối quan hệ hợp tác an ninh giữa Việt Nam và Đông Đức từ năm 1950 đến trước năm 1990 Đào Đức Thuận và Phạm Thu Quỳnh (2011) cũng đã khám phá quan hệ Việt Nam - Cộng hòa Dân chủ Đức qua tài liệu lưu trữ trong Tạp chí Văn Thư - Lưu trữ Việt Nam, số 4, nhấn mạnh tầm quan trọng của sự hợp tác này trong bối cảnh lịch sử.

Cộng hòa Dân chủ Đức đã cung cấp nhiều tài liệu lưu trữ tại Việt Nam, từ đó làm sáng tỏ mối quan hệ giữa Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Đức trong các lĩnh vực như kinh tế, khoa học kỹ thuật và xây dựng.

In his 2014 paper, "Fraternal Support: The East German ‘Stasi’ and the Democratic Republic of Vietnam during the Vietnam War," Martin Grossheim explores the intricate relationship between East Germany's Ministry of State Security (Stasi) and North Vietnam The study highlights the collaborative efforts and mutual support between these two nations during a pivotal period in the Cold War, shedding light on the role of intelligence sharing and political solidarity in shaping their alliance.

Việt Nam DCCH trong Chiến tranh VN

Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra một số khía cạnh hợp tác giữa Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Đức Tuy nhiên, vẫn chưa có công trình nào phân tích sâu về mối quan hệ ngoại giao giữa Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và CHDC Đức.

Cộng hòa trước đây) và Cộng hòa Dân chủ Đức một cách tổng hợp, khái quát trên mọi lĩnh vực

3 Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

Nghiên cứu mối quan hệ ngoại giao giữa Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Đức nhằm làm nổi bật tinh thần quốc tế vô sản và sự hợp tác xã hội chủ nghĩa trong sáng giữa các quốc gia anh em Qua đó, rút ra bài học kinh nghiệm quý báu cho việc phát triển mối quan hệ ngoại giao trong thời kỳ hiện đại.

Nhiệm vụ nghiên cứu tập trung vào việc phân tích mối quan hệ ngoại giao giữa Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, trước đây là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và Cộng hòa Dân chủ Đức Bài viết sẽ làm rõ những khía cạnh lịch sử, chính trị và kinh tế trong quan hệ giữa hai quốc gia, cũng như ảnh hưởng của chúng đến sự phát triển của mỗi bên.

4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu tập trung vào lịch sử mối quan hệ ngoại giao giữa Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, trước đây là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và Cộng hòa Dân chủ Đức.

+ Phạm vi không gian: Đề tài nghiên cứu mối quan hệ ngoại giao giữa

Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Đức đã có những sự tương tác sâu sắc trên nhiều lĩnh vực như chính trị, giao lưu nhân dân, quốc phòng - an ninh, kinh tế, văn hóa, xã hội, y tế, cơ sở hạ tầng, khoa học - kỹ thuật, và lao động hợp tác Sự hợp tác này không chỉ thúc đẩy sự phát triển bền vững mà còn tạo ra nền tảng vững chắc cho mối quan hệ giữa hai quốc gia.

+ Phạm vi thời gian: Nghiên cứu mối quan hệ ngoại giao giữa Cộng hòa

Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây) và Cộng hòa Dân chủĐức từ năm 1955 đến 1990

Phương pháp nghiên cứu được áp dụng trong đề tài này dựa trên luận điểm của triết học Mác - Lênin, với nguyên tắc khách quan và toàn diện, cùng với nguyên tắc lịch sử cụ thể Đồng thời, nghiên cứu cũng quán triệt các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước liên quan đến ngoại giao và giao lưu nhân dân.

Ngoài ra, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp nghiên cứu tài liệu

Mối quan hệ ngoại giao giữa Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Đức trước đây đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa Quan hệ này không chỉ góp phần vào sự phát triển của Việt Nam mà còn là tiền đề cho mối quan hệ ngoại giao hiện đại giữa Việt Nam và Đức ngày nay.

Việt Nam và Đức hiện chưa có sự hiểu biết đầy đủ về mối quan hệ lịch sử giữa hai quốc gia Nghiên cứu về đề tài này sẽ giúp mọi người nhận thức rõ hơn và đánh giá chính xác hơn về mối quan hệ giữa Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (trước đây là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) và Cộng hòa Dân chủ Đức.

7 Đóng góp mới của đề tài

- Về mặt lý luận: Đề tài tìm hiểu và nghiên cứu về mối quan hệ ngoại giao giữa Cộng hòa

NH Ữ NG NHÂN T Ố CH Ủ Y Ế U T ÁC ĐỘNG ĐẾ N QUAN H Ệ

B ố i c ả nh qu ố c t ế , khu v ự c cu ố i th ập niên 40, đầ u th ậ p niên 50 c ủ a Th ế

1.1.1 Bối cảnh quốc tế sau Chiến tranh thế giới thứ 2

Vào giai đoạn cuối của Chiến tranh thế giới thứ hai, các nước Đồng minh đối mặt với nhiều vấn đề quan trọng và cấp bách cần được giải quyết.

- Nhanh chóng đánh bại hoàn toàn chủnghĩa phát xít

- Tổ chức lại trật tự thế giới sau chiến tranh

- Phân chia thành quả giữa các nước thắng trận

Vào ngày 4 tháng 11 năm 1945, hội nghị quốc tế được tổ chức tại Yalta (Liên Xô) với sự tham gia của các nguyên thủ ba cường quốc: Liên Xô, Mỹ và Anh, nhằm giải quyết các vấn đề quan trọng sau Thế chiến II Hội nghị Yalta đã đưa ra những quyết định quan trọng liên quan đến tương lai của châu Âu và các quốc gia bị ảnh hưởng bởi chiến tranh.

- Đẩy mạnh việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít Đức và chủ nghĩa quân phiệt

–Thành lập tổ chức Liên hợp quốc nhằm duy trì hoà bình và an ninh thế giới

–Thoả thuận về việc đóng quân tại các nước nhằm giải giáp quân đội phát xít, phân chia phạm vi ảnh hưởng ở châu Âu và châu Á:

Tại châu Âu, quân đội Liên Xô kiểm soát miền Đông nước Đức, Đông Berlin và các quốc gia Đông Âu, trong khi quân đội Mỹ, Anh và Pháp chiếm đóng miền Tây nước Đức, Tây Berlin và các nước Tây Âu Khu vực Đông Âu chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ Liên Xô.

Liên Xô; vùng Tây Âu thuộc phạm vi ảnh hưởng của Mĩ Hai nước Áo và Phần Lan trở thành những nước trung lập

Hội nghị ở châu Á đã chấp nhận các điều kiện của Liên Xô để tham chiến chống Nhật Bản, bao gồm việc giữ nguyên trạng Mông Cổ, trả lại miền Nam đảo Sakhalin và các đảo xung quanh cho Liên Xô, quốc tế hóa cảng Đại Liên và khôi phục việc thuê cảng Lữ Thuận Liên Xô và Trung Quốc sẽ cùng khai thác đường sắt Nam Mãn Châu – Đại Liên, và Liên Xô sẽ chiếm 4 đảo thuộc quần đảo Kuril Trong khi đó, quân đội Mỹ sẽ chiếm đóng Nhật Bản, quân đội Liên Xô sẽ chiếm miền Bắc Triều Tiên, còn miền Nam sẽ do quân đội Mỹ kiểm soát, với vĩ tuyến 38 làm ranh giới Trung Quốc cần trở thành một quốc gia thống nhất, với quân đội nước ngoài rút khỏi nước này Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc cần cải tổ với sự tham gia của Đảng Cộng sản và các đảng phái dân chủ, đồng thời trả lại cho Trung Quốc vùng Mãn Châu, đảo Đài Loan và quần đảo Bành Hồ, trong khi các vùng còn lại của châu Á vẫn thuộc ảnh hưởng của các nước phương Tây.

Hội nghị Ianta đánh dấu sự phân chia khu vực đóng quân và ảnh hưởng giữa các nước thắng trận, ảnh hưởng sâu sắc đến hòa bình, an ninh và trật tự thế giới sau này Những quyết định quan trọng và thỏa thuận tại hội nghị đã tạo nên khuôn khổ cho trật tự thế giới mới, được gọi là trật tự hai cực Ianta Theo đó, thế giới được chia thành hai phe do hai siêu cường lãnh đạo, dẫn đến sự đối đầu gay gắt kéo dài gần bốn thập niên, làm cho quan hệ quốc tế trở nên phức tạp và căng thẳng.

1.1.2 Cộng hòa Dân chủ Đức sau Chiế n tranh t hế giới lần thứ 2

Năm 1945, sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, các nước Đồng Minh đã phân chia nước Đức thành nhiều khu vực khác nhau Khu vực từ sông Niesse đến sông Oder được chuyển giao hoàn toàn cho Cộng hòa Nhân dân Ba Lan, trong khi khu vực Kửnigsberg được cắt cho Liên Xô và đổi tên thành Kaliningrad.

11 còn lại của nước Đức bị chia làm 4 phần cho 4 nước: Anh – Pháp – Mỹ - Liên

Năm 1949, khi hai cực Đông –Tây đối đầu trong cuộc Chiến tranh Lạnh, tại

3 vùng kiểm soát của Anh – Pháp –Mỹ đã kết hợp lại, thành lập chính quyền

Cộng hòa Liên bang Đức được thành lập với sự bảo trợ của Liên Xô, dẫn đến việc hình thành chính quyền Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức) Đông Đức trở thành một thành viên tích cực trong khối Xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là sau khi khối quân sự Warsaw và Hội Đồng Tương Trợ Kinh Tế Các Nước XHCN (SEV) ra đời, đối đầu với Tây phương Tư bản trong cuộc Chiến tranh Lạnh.

CHDC Đức có một hệ thống chính trị đa đảng, khác với nhiều nước xã hội chủ nghĩa khác Đảng cầm quyền ở CHDC Đức là sự kết hợp của hai đảng chính trị Các đảng chính trị tại CHDC Đức bao gồm:

1 Đảng chính trị cầm quyền ở Đông Đức là Sozialistische Einheitspartei Deutschlands (Đảng Xã hội chủ nghĩa Thống nhất Đức, SED), được thành lập năm 1946 dựa trên việc hợp tác và thống nhất giữa Đảng Cộng sản Đức (KPD) và Đảng Dân chủ Xã hội Đức (SPD) (các chi bộ của SPD tại Đông Đức)

2 Christlich-Demokratische Union Deutschlands (Liên đoàn Dân chủ Thiên chúa giáo Đức, CDU), đã hợp nhất với CDU Tây Đức sau khi thống nhất

3 Demokratische Bauernpartei Deutschlands (Đảng Dân chủ Nông dân Đức, DBD) Đảng này đặc biệt quan trọng bởi vai trò của nông dân trong nền kinh tế Đảng đã sáp nhập với CDU của Tây Đức sau thống nhất

4 Liberal-Demokratische Partei Deutschlands (Đảng Dân chủ Tự do Đức, LDPD), sáp nhập với đảng FDP Tây Đức sau thống nhất

5 Nationaldemokratische Partei Deutschlands (Đảng Dân chủ Quốc gia Đức, NDPD), sáp nhập với đảng FDP Tây Đức sau thống nhất

Đảng Xã hội chủ nghĩa Thống nhất Đức (SED) thực hiện quyền lãnh đạo thông qua việc hợp tác với các đảng chống phát xít trong Mặt trận thống nhất.

Quốc gia Dân chủĐức – một tổ chức mà tất cả các đảng chính trị ởCHDC Đức phải tham gia

Nhà nước CHDC Đức có mối quan hệ chặt chẽ với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác, đồng thời ủng hộ các phong trào giải phóng dân tộc và chống lại chủ nghĩa đế quốc Ngoài ra, CHDC Đức còn tham gia nghĩa vụ quốc tế tại Mozambique, Namibia và Angola.

Nền kinh tế của Cộng hòa Dân chủ Đức (CHDC Đức) được đặc trưng bởi sự kế hoạch hóa tập trung cao độ, hoạt động trong khuôn khổ của hệ thống kế hoạch hóa kinh tế toàn Đông Âu.

Kinh tế của CHDC Đức, thuộc khối Warsaw, nổi bật với ngành công nghiệp nhẹ và nông nghiệp phát triển Mặc dù công nghiệp nặng của CHDC Đức bắt đầu được đầu tư từ đầu thập niên 1970, nhưng vẫn chưa đạt được sức mạnh như Liên Xô hay Tây Đức.

Các hàng hóa tại Đông Đức được phân phối qua các Kaufhalle (Bách hóa Tổng hợp) mà không phụ thuộc vào tem phiếu phân phối, tương tự như thị trường bình thường Các Kaufhalle thường thuộc sở hữu của nhà nước hoặc Hợp tác xã Tiêu dùng, với mỗi Bách hóa là tài sản hợp tác của một nhóm cá nhân Do có giá bán cố định cho tất cả hàng hóa, nên không có sự cạnh tranh về giá giữa các cửa hàng khác nhau.

Nh ữ ng nhân t ố ti ền đề trướ c khi Vi ệ t Nam – CHDC Đứ c thi ế t l ậ p quan

1.2.1 Lính Lê Dương Đức tại Đông Dương

Trong cuộc chiến tại Đông Dương, người Pháp đã sử dụng nhiều lính Lê Dương gốc Đức từ khu vực chiếm đóng trên lãnh thổ Đức Ngoài ra, các tù binh cựu quân nhân SS Đức cũng được đưa sang Đông Dương để chiến đấu thay cho quân Pháp Tại khu vực Điện Biên Phủ, có tới 8000 lính Đức tham gia vào lực lượng Lê Dương Pháp.

Trong cuộc chiến tại Đông Dương, lính Đức nhận ra họ chỉ là công cụ cho thực dân Pháp, dẫn đến việc nhiều lính Lê Dương gốc Đức đào ngũ và gia nhập Việt Nam Những người lính này đã hỗ trợ Quân đội Nhân dân Việt Nam rất nhiều về kỹ thuật và chiến thuật.

Từ năm 1951 đến 1954, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã hỗ trợ nhiều hàng binh Đức trở về quê hương thông qua sự trung gian của Liên Xô và Trung Quốc.

Quốc – lúc này Việt Nam và Đông Đức chưa thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức

1.2.2 Vai trò của Trung tá Erwin Borchers đối với cách mạng Việt Nam

Erwin Borchers, sinh năm 1906 ở Strasburg, là con trai của một sĩ quan

Ngay từ khi còn trẻ, ông là người lúc nào cũng "đam mê chính trị” và sau đó ông đã trở thành một nhà xã hội dân chủ học

Erwin Borchers gia nhập một nhóm chống đối ở Frankfurt sau khi Hitler lên nắm quyền tại Đức năm 1933, nơi anh in và phát truyền đơn Anh suýt bị bắt bởi bọn mật thám Đức quốc xã, sau đó trốn sang Pháp với mong muốn phục vụ trong quân đội Pháp để chiến đấu.

15 chống Hitler Tuy nhiên, nguyện vọng này của Borchers không được chấp nhận vì mẹ anh "đã phản bội nước Pháp" khi kết hôn với một sĩ quan Đức

Khi chiến tranh bắt đầu, Erwin Borchers bị giam giữ cùng với những thanh niên Đức và Áo khác, bị coi là một điệp viên tiềm tàng Người Pháp đã thuyết phục Borchers và các tù nhân khác rằng gia nhập đội quân lính đánh thuê (Lê Dương) là cách duy nhất để thoát khỏi cảnh ngồi sau hàng rào dây thép gai cho đến khi chiến tranh kết thúc.

Vào ngày 16 tháng 9 năm 1939, Erwin Borchers đã trở thành lính đánh thuê tại Algeria, nơi anh gặp Rudolf Schroeder, một sinh viên ngành xã hội học Schroeder đã trốn sang Pháp vào năm 1933 sau khi bị tố giác vì đã tặng một bó hoa cho giáo sư người Do Thái của mình.

Sau đó, Borchers và Schroeder đã lên đường tới Đông Dương, nơi họ kết bạn với Đảng viên Cộng sản người Do Thái Ernst Frey Frey, đến từ Vienna, Áo, đã chạy trốn sang Pháp để thoát khỏi sự truy bức của bọn quốc xã.

Ba người bạn đều cảm thấy lo ngại trước chủ nghĩa phân biệt chủng tộc của các sĩ quan cấp cao và không ưa phong cách chính trị - quân sự của đội quân đánh thuê Họ đã thành lập một nhóm cộng sản và bí mật liên lạc với Việt Minh Khi nhận ra kế hoạch tái thực dân hóa Việt Nam của Pháp, ba người đã quyết định gia nhập hàng ngũ bên kia.

Những người nước ngoài tham gia Việt Minh không chỉ là "hàng binh", vì vậy Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gọi họ là "người Việt Nam mới" để tránh gây hiểu lầm Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, khi lực lượng vũ trang Việt Minh còn non trẻ và gặp nhiều khó khăn, kinh nghiệm và kiến thức của những "người Việt Nam mới" đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển của Quân đội Nhân dân Việt Nam, trong đó có Erwin Borchers, người được phong quân hàm Trung Tá.

Vào ngày 16 tháng 8, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao tặng ông danh hiệu “Chiến Sĩ” cùng với một Huân chương, ghi nhận những đóng góp to lớn của ông cho phong trào giải phóng Việt Nam.

Erwin Borchers là một trí thức có tầm hiểu biết sâu rộng, là tín đồ Tin lành mộ đạo và người theo chủ nghĩa xã hội dân chủ chân chính Ông đã học văn học và ngôn ngữ Đức, cũng như văn học và ngôn ngữ Romania tại Đức và Pháp Trong hàng ngũ Việt Minh, Borchers đảm nhận vai trò phụ trách công tác tuyên truyền, với sự quan tâm đặc biệt đến quan điểm của các tù binh, đặc biệt là các hàng binh Đức.

Vào năm 1954, khoảng 10.000 lính đánh thuê Đức, chủ yếu là cựu binh SS, tham chiến ở Đông Dương do thiếu việc làm và trình độ Khác với cựu binh Wehrmacht, cựu binh SS không có quyền công dân đầy đủ và bị coi là tội phạm chiến tranh, khiến họ khó tìm kiếm cơ hội việc làm Bên cạnh đó, nhiều tù binh Đức bị Pháp giam giữ cũng bị ép gia nhập lính Lê Dương để trả "thuế máu" cho Pháp Đến năm 1953, đã có 5.000 lính Đức thiệt mạng, và hàng trăm thanh niên Đức đã chạy sang hàng ngũ bên kia, một phần do tuyên truyền và một phần để tránh số phận của tù binh chiến tranh.

Năm 1951, Frey và Schroeder rời Việt Nam về châu Âu, trong khi Erwin Borchers ở lại, kết hôn và trở thành cha của bảy đứa trẻ Ông đã tích cực tham gia vào sự phát triển của lực lượng Việt Minh, từ một nhóm du kích nhỏ trở thành một quân đội mạnh mẽ, có khả năng chiến đấu và dần dần đẩy quân Pháp ra khỏi miền Bắc Việt Nam Cuối tháng 2/1954, Erwin Borchers đã có mặt tại Điện Biên Phủ cùng với đội tuyên truyền của mình, sử dụng loa phóng thanh để kêu gọi các lính đánh thuê và đơn vị lính Bắc Phi hạ vũ khí giữa những đợt tấn công.

Ngày 7/5/1954, sau 56 ngày đêm chiến đấu ác liệt, cứ điểm cuối cùng của pháo đài Điện Biên Phủ đã thất thủ, Tướng Christan de Castries và toàn bộ sĩ

Trong trận chiến, 17 quân Bình Lĩnh còn lại phải ra hàng, dẫn đến tổng số 6.000 người Pháp thiệt mạng và hơn 10.000 người bị bắt làm tù binh, trong đó có hàng ngàn lính Đức.

Sau khi kháng chiến chống Pháp kết thúc, Trung tá Chiến Sĩ thuộc ban quân vận đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng Huân chương chiến thắng hạng ba và một món quà lưu niệm là chiếc đồng hồ có hình Hồ Chí Minh Ông đã nhận một vị trí trong Bộ Tuyên truyền và sau đó làm việc cho Hãng thông tấn ADN của CHDC Đức cũ tại Hà Nội Năm 1965, Erwin Borchers cùng gia đình chuyển sang Đông Berlin, và ông qua đời vào năm 1984.

Vi ệ t Nam – C ộ ng hòa Dân ch ủ Đứ c thi ế t l ậ p quan h ệ ngo ạ i giao và nhu

Sau khi hòa bình được thiết lập ở miền Bắc Việt Nam, các quốc gia Xã hội Chủ nghĩa đã bắt đầu thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Năm 1955, Cộng hòa Dân chủ Đức đã mở Đại Sứ Quán tại Hà Nội, và đến năm 1980, họ tiếp tục thiết lập Lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Vào ngày 03/02/1955, CHDC Đức chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, hai quốc gia có hệ thống chính trị tương đồng và cùng thuộc khối Xã hội Chủ nghĩa Sự liên kết này không chỉ nhằm chống lại chủ nghĩa Đế quốc, mà còn hỗ trợ lẫn nhau trong bối cảnh bị chia cắt do chiến tranh lạnh Việt Nam tìm kiếm đồng minh để đối phó với Mỹ và khôi phục kinh tế sau chiến tranh, trong khi CHDC Đức cũng mong muốn củng cố ảnh hưởng tại khu vực châu Á.

Xã hội Chủnghĩa trên thế giới

Trong suốt 35 năm từ 1955 đến 1990, CHDC Đức và Việt Nam đã thiết lập những hợp tác quan trọng trên nhiều lĩnh vực như Chính trị, An ninh - Quốc phòng, Kinh tế, Y tế, Cơ sở hạ tầng và Giao lưu nhân dân.

Mặc dù nước Đức đã thống nhất và chế độ XHCN ở Đông Đức không còn tồn tại, nhưng di sản của mối quan hệ giữa các đồng chí anh em XHCN thời đó vẫn còn ảnh hưởng đến hiện tại.

Trong chương 1, nhóm tác giả đã hướng dẫn người đọc từng bước khám phá bối cảnh lịch sử, tiến trình phát triển và các yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa hai nước Cộng hòa.

Xã hội Chủnghĩa Việt Nam ( Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây ) và Cộng

19 hòa Dân chủĐức thiết lập mối quan hệ ngoại giao, bắt đầu một mối quan hệ tuy ngắn ngủi nhưng mang rất nhiều ý nghĩa to lớn

QUAN H Ệ VI Ệ T NAM – C Ộ NG HÒA DÂN CH Ủ ĐỨ C TRÊN CÁC LĨNH VỰ C

Quan h ệ Vi ệ t Nam – C ộ ng hòa Dân ch ủ Đức trên lĩnh vự c chính tr ị - đố i ngo ạ i

2.1.1 Mối quan hệ giữa lãnh đạo Đảng và Nhà nước

Hồ Chí Minh và Chủ tịch CHDC Đức Wilhelm Pieck đã trở thành những người bạn chiến đấu thân thiết từ khi họ cùng hoạt động trong Quốc tế Cộng sản, một mối quan hệ không phải ai cũng biết đến.

Tình bạn sâu sắc giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và lãnh tụ Wilhelm Pieck đã gắn kết hai dân tộc Việt - Đức, giúp họ hiểu nhau và đoàn kết trong cuộc chiến vì lý tưởng chung Qua những năm tháng hoạt động đầy gian khổ, cả hai nhà cách mạng đều trở thành chủ tịch đầu tiên của nhà nước công - nông Đức Dân chủ Cộng hòa là một trong những quốc gia đầu tiên công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Wilhelm Pieck, phong trào đoàn kết ủng hộ Việt Nam đã được phát động và phát triển mạnh mẽ từ những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp Phong trào này đã tác động sâu sắc đến thanh niên Đức, nhiều người trong số họ đã từ bỏ hàng ngũ lê dương của Pháp để gia nhập lực lượng yêu nước Việt Nam, trở thành những cán bộ tin cậy của quân đội ta.

Theo chỉ thị của Chủ tịch Wilhelm Pieck, nhiều cán bộ y tế, văn hóa và báo chí từ Cộng hòa Dân chủ Đức đã sang hỗ trợ Việt Nam ngay sau chiến thắng tại Điện Biên Phủ.

Vào thời điểm đó, Chủ tịch Wilhelm Pieck đã gửi thư cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, bày tỏ sẵn sàng tiếp nhận một số thanh niên và thiếu niên Việt Nam sang Đức học tập, nhằm chuẩn bị cho việc họ trở về đóng góp vào sự phát triển của đất nước.

Năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi điện chúc mừng sự ra đời của nhà nước công - nông đầu tiên tại Đức Từ đó, hàng năm vào dịp kỷ niệm quốc khánh, sinh nhật hoặc sự kiện trọng đại, hai lãnh đạo thường gửi điện mừng cho nhau Một trong những bức thư xúc động từ Chủ tịch Wilhelm Pieck gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh là vào dịp kỷ niệm 70 năm ngày sinh của Người.

Trong ngày vẻ vang hôm nay, tôi hướng về người bạn và đồng chí Hồ Chí Minh, nhà lãnh đạo trung thành và hy sinh của nhân dân Việt Nam Tôi luôn nhớ về những cuộc tiếp xúc trước đây, nơi tình hữu nghị giữa hai nước được thể hiện rõ nét, cùng với những nỗ lực chung trong việc gìn giữ hòa bình và cải thiện đời sống của nhân dân lao động.

Vào mùa hè năm 1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện chuyến thăm hữu nghị chính thức các nước anh em, trong đó có Đông Đức từ ngày 25/7 đến 1/8 Khi đó, Chủ tịch Wilhelm Pieck đang trong tình trạng sức khỏe yếu, khiến Hồ Chí Minh rất lo lắng Ngay sau khi đến Berlin, Người đã đến thăm nhà riêng của Chủ tịch Pieck ở Pankow Buổi gặp gỡ có sự tham gia của Thủ tướng Otto Grotewohl, Bí thư thứ nhất Trung ương Đảng Walter Ulbricht và một số cán bộ cao cấp khác Cuộc trò chuyện thân mật này chỉ kéo dài khoảng 30 phút và không ai ngờ rằng đây sẽ là cuộc gặp gỡ cuối cùng giữa hai vị lãnh đạo.

Vào tháng 09/1960, trong bối cảnh Đại hội III của Đảng Lao động, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận được tin buồn về sự ra đi của Chủ tịch Wilhelm Pieck Người đã bày tỏ sự đau buồn sâu sắc và đến viếng Chủ tịch tại Đại sứ quán CHDC Đức ở Hà Nội Đồng thời, Người nhờ Giáo sư Kurt Hager, Trưởng đoàn đại biểu Đảng Xã hội Chủ nghĩa thống nhất Đức (SED), chuyển lời chia buồn tới toàn Đảng, toàn dân CHDC Đức và gia đình Chủ tịch Wilhelm Pieck.

Chuyến thăm của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào năm 1957 là một trong hai chuyến thăm chính thức của lãnh đạo Việt Nam tới CHDC Đức Tiếp theo, vào ngày 16/10/1975, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, đã có chuyến thăm và hội đàm với người đồng cấp Honecker Trong cuộc gặp này, CHDC Đức đã cam kết hỗ trợ Việt Nam trong việc khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh, đồng thời tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực khoa học công nghệ, y tế và cơ sở hạ tầng.

Sau các chuyến thăm giữa lãnh đạo hai nước, Việt Nam và CHDC Đức vẫn duy trì các chương trình làm việc song phương tại Moskva, đặc biệt là trong khuôn khổ Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XV, XVI, XVII vào các năm 1976, 1981 và 1986.

2.1.2 Cộng đồng người Việt Nam ở Moritzburg, CHDC Đức

Cộng đồng Moritzburg hay còn được gọi là Moritzburger là tên gọi khoảng

Vào năm 1955, 350 thiếu niên Việt Nam từ 9 đến 15 tuổi đã di chuyển đến thị trấn Moritzburg, gần thành phố Dresden, Đông Đức, bằng tàu hỏa trong hành trình kéo dài 3 tuần qua Bắc Kinh, Moskva và Warszawa Sự kiện này diễn ra theo thỏa thuận giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Dân chủ Đức, đánh dấu một chương trình hợp tác quốc tế trong bối cảnh lịch sử của thời kỳ đó.

Năm 1959, khoảng 150 người Moritzburger đã sang DDR để học nghề và tiếp tục học đại học Từ môi trường Moritzburg, nhiều thế hệ học sinh Việt Nam đã trưởng thành và trở về quê hương xây dựng đất nước, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Thế hệ đầu tiên người Việt Nam đến làm việc, học tập và sinh sống tại nước Đức Xã hội Chủ nghĩa đã đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng mối quan hệ giữa Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Đức.

2.1.3 Sự ủng hộ của CHDC Đức về mặt n goại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong chiến tranh

Trong suốt nhiều năm chiến tranh, từ cuộc kháng chiến chống Pháp, chống

Mỹ, cho tới 2 cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc và Tây Nam, các nước Xã hộ

Chủ nghĩa Đông Âu, đặc biệt là sự ủng hộ từ CHDC Đức, đã đóng góp tích cực cho cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam Hỗ trợ không chỉ dừng lại ở vật chất và cơ sở hạ tầng kỹ thuật, mà còn bao gồm đào tạo và phát triển nguồn nhân lực Trên trường quốc tế, CHDC Đức luôn duy trì sự ủng hộ Việt Nam về mặt ngoại giao và chính trị.

Quan h ệ Vi ệ t Nam – C ộ ng hòa Dân ch ủ Đức trên lĩnh vự c quân s ự , an

2.2.1 Trên lĩnh vực quân sự

Trong thời kỳ chiến tranh, Cộng hòa Dân chủ Đức đã cung cấp nhiều viện trợ vũ khí cho Việt Nam và cử các đoàn chuyên gia, cố vấn đến hỗ trợ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, sự giúp đỡ từ CHDC Đức còn rất hạn chế do nước này mới được thành lập năm 1949 và đang trong quá trình phục hồi sau chiến tranh Thêm vào đó, cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ II vẫn chưa kết thúc hoàn toàn, cùng với các thế lực phản động gây ra cuộc Đại bạo loạn Berlin năm 1953 Nền kinh tế và hệ thống chính trị của CHDC Đức vẫn phụ thuộc nhiều vào Liên Xô Số vũ khí viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chủ yếu là vũ khí cá nhân hạng nhẹ do Đức Quốc xã sản xuất, được Liên Xô vận chuyển từ các kho của Đông Đức.

Trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, sự hỗ trợ vũ khí từ CHDC Đức và Trung Quốc cho Việt Nam trở nên đa dạng và hiện đại hơn CHDC Đức đã thay đổi toàn bộ vũ khí theo tiêu chuẩn Liên Xô, gửi đi nhiều loại súng và pháo cũ với số lượng lớn Đồng thời, Trung Quốc cũng chuyển từ cỡ đạn tiêu chuẩn của Đức sang cỡ đạn Liên Xô, cung cấp lượng đạn dược lớn cho Việt Nam Các loại vũ khí viện trợ bao gồm súng trường Karabiner 98K, súng tiểu liên MP-38, MP-40, súng máy MG34, cùng nhiều loại pháo như PaK40 75mm, FlaK36 88mm và sFH18 150mm Đến cuối thập niên 60, Đông Đức tiếp tục viện trợ vũ khí cho Việt Nam.

Trong quá trình hỗ trợ Việt Nam, Đông Đức đã cung cấp nhiều loại vũ khí sản xuất theo thiết kế của Liên Xô, bao gồm súng tiểu liên MPi-K và MPi-KM, được đánh giá cao về độ bền, chất lượng và độ tin cậy trên chiến trường Ngoài vũ khí, họ còn viện trợ nhiều thiết bị thông tin liên lạc, thiết bị điện tử, xe vận tải và mũ sắt Đặc biệt, mũ sắt Stahlhelm M56 của CHDC Đức được các chiến sĩ lái xe Trường Sơn sử dụng, là loại mũ tốt nhất trên chiến trường Việt Nam, với khả năng chống đạn 9mm bắn trực diện, vượt trội hơn so với mũ M1 của Mỹ và SSh-40, SSh-60 của Liên Xô.

2.2.2 T rên lĩnh vực an ninh

Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đã thực hiện nhiều chiến dịch tình báo điện tử nhằm chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Cộng hòa Dân chủ Đức, với ngành An ninh nổi tiếng tại Đông Âu, đã hỗ trợ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong việc bảo vệ an ninh, đặc biệt là trong lĩnh vực phản gián thông tin điện tử.

Sự hợp tác an ninh giữa Việt Nam và Đức đã được khởi xướng bởi hai bộ trưởng, những nhân vật nổi bật trong lĩnh vực an ninh của mỗi quốc gia Bộ trưởng Bộ Công an Việt Nam đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy mối quan hệ này.

Trần Quốc Hoàn và Bộtrưởng Bộ An ninh Quốc gia Đức Erich Mielke

Cộng hòa Dân chủ Đức đã hỗ trợ Việt Nam trong việc phát triển hạ tầng kỹ thuật an ninh, đặc biệt là trong lĩnh vực trinh sát điện tử và chống phản gián Thiếu tướng Nguyễn Minh Tiến và Đại tá Châu Diệu Ái là hai nhân vật đầu tiên được cử sang Potsdam để nghiên cứu và chuyển giao công nghệ từ CHDC Đức Các thiết bị do CHDC Đức cung cấp đã giúp an ninh Việt Nam phá sóng liên lạc của lực lượng biệt kích Mỹ tại miền Bắc, đồng thời hỗ trợ các chiến sĩ tình báo vô tuyến tại miền Nam trong việc chặn sóng và nghe lén các cuộc hội đàm của quan chức và tướng lĩnh chính quyền Sài Gòn.

Sau khi đất nước lập lại hòa bình và thống nhất, các đoàn cán bộ Công an Nhân dân Việt Nam vẫn tiếp tục được cử đi học tại Trường.

An ninh CHDC Đức Potsdam – trường này được ẩn danh với tên dân sự

“Trường Đại học Luật Khoa”

Khi Đông và Tây Đức thống nhất, Bộ An ninh Quốc gia CHDC Đức cũ bị chính quyền mới chỉ trích và coi là một tổ chức tội phạm chống lại CHLB Đức Danh tính các cán bộ Việt Nam được cử đi đào tạo tại Trường An ninh Potsdam cùng với các chương trình và lĩnh vực hợp tác cụ thể giữa hai nước cũng được đề cập.

Việt Nam giữ kín vì mục đích ngoại giao – chính trị giữa hai nước.

Quan h ệ Vi ệ t Nam – C ộ ng hòa Dân ch ủ Đức trên lĩnh vự c kinh t ế -

2.3.1 T rên lĩnh vực kinh tế

Kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao, Cộng hòa Dân chủ Đức đã cung cấp nhiều hỗ trợ kinh tế cho Việt Nam, bên cạnh sự hợp tác với hai đồng minh lớn là Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác.

Xô Viết và Trung Quốc, cùng với các nước xã hội chủ nghĩa như Tiệp Khắc, Ba Lan, Hungary, Bulgaria, România, CHDC Đức, CHDCND Triều Tiên và Cuba, đã cung cấp cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa một lượng hàng hóa, trang thiết bị và tài chính rất lớn.

Tổng giá trị tài sản mà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nhận được trong giai đoạn 1970-1974 như sau:

Theo số liệu của CIA giải mật năm 2005 về "Viện trợ quân sự và kinh tế của khối Cộng sản trong Chiến tranh Việt Nam", nguồn tài chính, cơ sở hạ tầng và nguyên vật liệu từ khối Cộng sản đã đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn khó khăn.

Sau khi chiến tranh kết thúc và đất nước thống nhất, CHDC Đức đã hỗ trợ Việt Nam trong việc xây dựng nhiều cơ sở kinh tế, đồng thời cử nhiều chuyên gia và cố vấn đến giúp đỡ quá trình phát triển của đất nước.

Ngành cà phê của Việt Nam là một di sản quý giá, đặc biệt được ưa chuộng bởi người Đức Cà phê không chỉ mang lại sự tỉnh táo nhờ chứa caffein mà còn là một phần không thể thiếu trong văn hóa và đời sống hàng ngày của họ Mỗi buổi sáng, người Đức thường bắt đầu ngày mới bằng cách pha cà phê, mặc dù do điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng, họ không thể tự trồng cà phê mà phải nhập khẩu từ nước ngoài.

Đức, với đồng tiền DM mạnh, dễ dàng nhập khẩu cà phê từ Brazil và các nước Nam Mỹ hay Châu Á, sau đó chế biến và đóng gói dưới các thương hiệu lớn như Jacobs, Miletta, Tchibo Ngược lại, Cộng hòa Dân chủ Đức gặp khó khăn do hạn chế về nguồn ngoại tệ mạnh như USD hay DM Đầu những năm 80, nguồn ngoại tệ trở nên khan hiếm, dẫn đến tình trạng thiếu cà phê tại các siêu thị ở Đông Berlin và các thành phố Đông Đức Người tiêu dùng ngày càng đòi hỏi, buộc Chính phủ phải tìm giải pháp Chính phủ CHDC Đức đã tư vấn đến Việt Nam, nơi từng là thuộc địa của Pháp và có kinh nghiệm trồng cà phê Kết quả là một thỏa thuận được ký kết vào ngày 28/10/1980, trong đó CHDC Đức cam kết cung cấp tín dụng cho Việt Nam.

Năm 1980, Việt Nam vừa mới thoát khỏi chiến tranh được 5 năm và đang đối mặt với nhiều khó khăn do cấm vận kinh tế Để phát triển các nông trường cà phê tại Buôn Ma Thuột, Việt Nam đã nhận khoản vay 32 triệu Ruble, với điều kiện thanh toán bằng cà phê vào năm 1991 Đồng thời, tại thành phố Halle, một nhà máy liên hợp cà phê - VEB Kaffee Halle cũng đang được xây dựng Kỹ sư Kaulfuò đã được cử sang Việt Nam làm trưởng đoàn chuyên gia, nhằm hỗ trợ xây dựng nền tảng cho ngành cà phê Việt Nam.

Sau chiến tranh, Tây Nguyên còn tồn đọng nhiều vật liệu nổ, gây ra những nguy hiểm tiềm ẩn Cuộc sống nơi đây vẫn rất khó khăn và thiếu thốn, ảnh hưởng đến đời sống của người dân Sigfried Kaulfuò đã cùng đồng nghiệp nỗ lực để cải thiện tình hình này.

Việt và người dân Tây Nguyên đã khai phá những nông trường cà phê đầu tiên tại đây Mặc dù gặp nhiều khó khăn, nhưng người bạn Đức và người dân Việt Nam luôn lạc quan và chăm chỉ Từ đó, Sigfried Kaulfu đã góp phần quan trọng trong sự phát triển của ngành cà phê ở vùng đất này.

Vào năm 1990, Việt Nam đã chuẩn bị để xuất khẩu những lô cà phê nguyên liệu đầu tiên đến Halle, tuy nhiên, do tình hình chính trị, Nhà nước CHDC Đức đã ngăn cản việc này.

Vào năm 1990, khi nước Đức thống nhất, họ hoàn toàn không biết đến cà phê Việt Nam và không có ý định nhập khẩu sản phẩm này Tuy nhiên, Kaulfuò cùng những người bạn Đức đã nỗ lực tìm kiếm thị trường cho cà phê nguyên liệu từ Việt Nam Nếu không có những cố gắng không mệt mỏi của ông, có lẽ chúng ta vẫn chưa biết phải làm gì với những hạt cà phê được trồng theo thỏa thuận giữa chính phủ.

Và, những cố gắng tìm đường ra cho hạt cà phê khi ấy đã lát nên con đường để

Việt Nam trở thành nhà xuất khẩu thứ hai trên thế giới và đứng đầu trong các nhà nhập khẩu cà phê vào Đức ngày hôm nay

2.3.2 T rên lĩnh vực khoa học – công nghệ

Từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Wilhelm Pieck đã bắt đầu hợp tác chuyển giao công nghệ từ Đức sang Việt Nam Cộng hòa Dân chủ Đức được biết đến là một quốc gia công nghiệp hiện đại trong khối các nước xã hội chủ nghĩa.

Trong giai đoạn xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở miền Bắc Việt Nam vào cuối thập niên 50 và đầu thập niên 60, CHDC Đức đã hỗ trợ Việt Nam trong việc xây dựng các công trình cơ bản và chuyển giao công nghệ luyện kim, chế tạo máy móc Đồng thời, phía Đông Đức cũng giúp phát triển cơ sở vật chất cho ngành dệt may Tuy nhiên, những nỗ lực này đã bị tàn phá gần như hoàn toàn bởi bom đạn của Hoa Kỳ trong các cuộc chiến tranh phá hoại.

Sau ngày đất nước thống nhất, CHDC Đức đã hỗ trợ Việt Nam khôi phục và phát triển công nghệ trong nhiều lĩnh vực như khai khoáng, luyện kim, chế tạo máy, cơ khí, vô tuyến điện tử, dệt may và một số ngành công nghiệp nhẹ khác Tuy nhiên, do cơ chế quản lý yếu kém, tư duy quan liêu bao cấp trì trệ cùng với khủng hoảng và sự sụp đổ của nước bạn, nhiều cơ sở vật chất đã bị lãng phí, tụt hậu và không còn khả năng sử dụng.

30 còn được cao như thiết kế ban đầu (ví dụ: Công nghệ luyện kim được CHDC Đức chuyển giao một phần tại Tổ hợp Gang thép Thái Nguyên)

Trên lĩnh vực văn hoá – giáo d ụ c – y t ế – cơ sở h ạ t ầ ng

- Giao lưu, hợp tác vềvăn hóa:

Việt Nam và CHDC Đức đã có một lịch sử hợp tác văn hóa phong phú, với nhiều chương trình giao lưu thường xuyên Đặc biệt, đội thiếu niên Ernst Thälmann và Đoàn Thanh niên Tự do Đức FDJ đã tổ chức các hội trại thanh thiếu niên quốc tế, tạo cơ hội cho các nước xã hội chủ nghĩa giao lưu và học hỏi lẫn nhau.

Chủ nghĩa và các tổ chức như Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh cùng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tích cực tham gia các chương trình giao lưu hàng năm tại Đức.

Các bộ phim Việt Nam thường xuyên được gửi tham gia Liên hoan phim Berlin hàng năm tại Đức Đồng thời, những bộ phim kinh điển của Đông Đức, như Hồ Sơ Thần Chết, Mặt Trận Không Khoan Nhượng và Những Đứa Con, đã trở nên rất nổi tiếng ở Việt Nam, đặc biệt trong thập niên 80.

Của Gấu Mẹ Vĩ Đại… Ngành điện ảnh, nhiếp ảnh Đức cũng đã viện trợ cho

Việt Nam nhiều máy quay phim, chụp ảnh của Praktica, VEB Carl-Zeiss Jena… để phục vụ cho nền điện ảnh và nhiếp ảnh nước nhà

Chủ đề Việt Nam là một phần quan trọng trong âm nhạc của CHDC Đức, với nhiều bài hát ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh và Quân đội Nhân dân Những tác phẩm này không chỉ phản ánh tình yêu quê hương mà còn thể hiện lòng tự hào dân tộc và sự tôn kính đối với lịch sử.

Việt Nam cũng một thời rất nổi tiếng ở Đức: Bài ca Hồ Chí Minh, Sài Gòn tự do, Bài ca Chiến thắng, Pháo binh Việt Nam…

- Hợp tác về giáo dục, đào tạo:

Cộng hòa Dân chủ Đức đã hỗ trợ Việt Nam trong việc xây dựng cơ sở vật chất và trang thiết bị cho nhiều cơ sở giáo dục, nổi bật như Trường Trung học phổ thông Việt - Đức ở Hà Nội, Trường THPT Ernst Thälmann và Trường Kỹ thuật Wilhelm Pieck tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Nhiều học sinh và sinh viên được cử đi học tại các cơ sở giáo dục ở CHDC Đức như Berlin, Leipzig, và Potsdam Sau khi hoàn thành chương trình học, họ trở về quê hương và đóng góp tích cực vào sự phát triển và xây dựng đất nước.

Sau ngày tiếp quản Thủ đô, chúng ta nhận lại nhà thương Phủ Doãn từ Pháp trong tình trạng trống không, thiếu thốn cơ sở vật chất Được sự hỗ trợ từ CHDC Đức, chúng ta đã cải tạo và trang bị cho bệnh viện, đồng thời đào tạo cán bộ y tế, biến nhà thương hoang tàn thành Bệnh viện Hữu nghị Việt – Đức, nổi tiếng cả trong và ngoài nước cho đến ngày nay.

Việt – Đức vẫn là một bệnh viện đầu ngành của cả nước; có trang thiết bị hiện đại và đội ngũ y bác sĩ hàng đầu cảnước

Trường Đại học Y khoa Ernst Moritz Arndt tại Cộng hòa Dân chủ Đức đã đào tạo nhiều thế hệ cán bộ y bác sĩ ngành quân y cho Việt Nam Đây là một trong những trường y khoa nổi tiếng tại CHDC Đức, chuyên cung cấp đào tạo cho cán bộ, y bác sĩ ngành quân y phục vụ cho Quân đội Nhân dân Quốc gia Đức và các nước xã hội chủ nghĩa anh em.

- Viện trợ của CHDC Đức về cơ sở hạ tầng

Cộng hòa Dân chủ Đức đã hỗ trợ Việt Nam trong việc xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng quan trọng như Bệnh viện Việt – Đức và các trường học như Trường Trung học phổ thông Việt – Đức tại Hà Nội, Trường Trung học phổ thông Ernst Thälmann và Trường Kỹ thuật Wilhelm Pieck tại Thành phố Hồ Chí Minh Bên cạnh đó, Đông Đức còn giúp xây dựng khu tập thể Quang Trung tại Vinh, Nghệ An, bao gồm 21 khối nhà 5 tầng với 1556 căn hộ, nơi đây cũng là một trong những địa điểm đầu tiên ở Vinh được sử dụng nước máy nhờ sự hỗ trợ từ nước bạn.

Quan h ệ Vi ệ t Nam – C ộ ng hòa Dân ch ủ Đức trên lĩnh vự c h ợ p tác lao độ ng Xã h ộ i Ch ủ nghĩa

Từ cuối những năm 1970, CHDC Đức đã thu hút nhiều lao động trẻ từ Mozambique, Angola, Cuba, Ba Lan và Việt Nam để đào tạo thành công nhân lành nghề, nhằm đáp ứng nhu cầu lao động tại quốc gia này.

Nhiều người trẻ Việt Nam đã đáp ứng lời kêu gọi này, xem đây là cơ hội tuyệt vời để học tập và làm việc tại CHDC Đức Đối với một đất nước từng trải qua nhiều khó khăn như Việt Nam, việc có được cơ hội này thực sự là một đặc ân quý giá.

Những người Việt trẻ tuổi thường là trụ cột nuôi cả gia đình ở quê hương Thời điểm đó, việc được đi học đại học hay học nghề ở Việt Nam là điều hiếm hoi Việt Nam phải trả nợ, bao gồm cả khoản nợ với CHDC Đức, quốc gia đã hỗ trợ miền Bắc Việt Nam nhiều tài chính trong cuộc kháng chiến chống Mỹ Đến năm 1989, người Việt Nam đã trở thành nhóm công nhân đông nhất tại CHDC Đức, chủ yếu làm việc trong ngành công nghiệp nhẹ, với số lượng lên tới 70.000 người, vượt xa dự kiến ban đầu của chính phủ CHDC Đức Dần dần, nhiều công nhân không cần chứng chỉ nghề và tiếng Đức chỉ được dạy qua các khóa cấp tốc Với sự chăm chỉ và đáng tin cậy, công nhân Việt Nam đã trở thành lực lượng lao động không thể thiếu tại CHDC Đức.

Sự gia tăng số lượng người lao động Việt Nam đã dẫn đến nhiều vấn đề phức tạp liên quan đến chỗ ở và sinh hoạt Trong thời gian làm việc, công nhân được chăm sóc chu đáo về mọi mặt, với sự hỗ trợ của phiên dịch và người phụ trách chăm sóc Đội ngũ bảo vệ đảm bảo tuân thủ định mức lao động và giờ làm việc nghiêm ngặt Trong đời sống cá nhân, kỷ luật tại Việt Nam rất nghiêm, đặc biệt là đối với phụ nữ mang thai, họ thường phải đối mặt với lựa chọn khó khăn như bỏ thai hoặc trở về quê hương.

Trong 5 năm ở CHDC Đức, những người hợp tác lao động Việt Nam chủ yếu làm việc để kiếm tiền hỗ trợ gia đình Họ nhận thấy cơ hội trong việc cung cấp hàng hóa cho người dân Đức và tận dụng kỹ năng may mặc của mình để sản xuất đồ Jeans đang thịnh hành Dù đây là hoạt động không hợp pháp, nhưng mối quan hệ giữa công dân Đức và công nhân Việt Nam diễn ra thuận lợi, với sự hài lòng từ cả hai phía Tuy nhiên, vẫn tồn tại mâu thuẫn do việc mua sắm của người Việt Nam gặp khó khăn trong bối cảnh thiếu hàng hóa tại CHDC Đức.

Công nhân hợp tác Việt Nam sau khi hết hạn lao động được phép mang về hai xe máy và năm xe đạp miễn thuế, cùng với hai máy khâu, 150 mét vải và 100 kg đường Tài sản của họ trong thời gian ở nước ngoài phải được đóng thùng, với thể tích không vượt quá 2m³ và khối lượng không quá một tấn Khi trở về, mỗi người chỉ được phép đóng một thùng gỗ chứa hàng theo quy định Hàng tháng, họ cũng có thể gửi một thùng hàng về Việt Nam.

Không lâu sau, bức tường Berlin sụp đổ, dẫn đến việc Hiệp định chính phủ mất giá trị và nền kinh tế của CHDC Đức sụp đổ Hàng nghìn người Việt rơi vào cảnh thất nghiệp, trong đó phần lớn đã nhận tiền bồi thường để trở về nước Tuy nhiên, một số vẫn ở lại, nỗ lực kiếm sống và nhiều người đã tự lập, ổn định cuộc sống, sinh con và con cái họ học tập tốt tại các trường Cộng đồng người Việt đã dần trở thành một phần hội nhập tích cực vào xã hội Đức.

Số liệu thống kê của Cục quản lý Lao động ngoài nước, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Việt Nam công bốnhư sau:

Sốlao động Việt Nam tại các nước và theo ngành nghề

Thu nhập bình quân hàng tháng của công nhân

35 Đóng góp ngân sách nhà nước bình quân của mỗi lao động Việt Nam tại nước ngoài

Số lao động Việt Nam tại Cộng hòa Dân chủ Đức đứng thứ hai trong các nước tiếp nhận lao động Việt Nam ở Đông Âu, chỉ sau Liên Xô Các lao động Việt Nam chủ yếu làm việc trong lĩnh vực công nghiệp, đặc biệt là tại các nhà máy ô tô như IFA, Trabant, và Wartburg, cũng như trong ngành dệt may, nơi CHDC Đức cung cấp vải cho may mặc và quân nhu cho Liên Xô, Tiệp Khắc và Ba Lan.

Nguồn thu ngoại tệ từ lao động hợp tác đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì dự trữ quốc gia của Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn khó khăn và chịu nhiều lệnh cấm vận, phong tỏa từ các nước đế quốc.

Lao động hợp tác Việt Nam tại các nước Xã hội Chủ nghĩa, đặc biệt là Cộng hòa Dân chủ Đức, đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế đất nước, tăng cường thu ngân sách nhà nước và nâng cao tinh thần hợp tác quốc tế.

Qua chương 2, có thể thấy mối quan hệ giữa Cộng hòa Dân chủ Đức và Việt Nam, dù ngắn ngủi, nhưng đã để lại những dấu ấn to lớn trong tất cả các lĩnh vực của đời sống quốc gia Tình cảm giữa nhân dân hai nước đã được xây dựng từ sự quan tâm của lãnh đạo cao nhất Điều này đã dẫn đến sự viện trợ quân sự, kinh tế, hỗ trợ an ninh, xây dựng cơ sở hạ tầng và hợp tác phát triển.

Cộng hòa Dân chủ Đức đã hỗ trợ Việt Nam trong những thời điểm khó khăn, giúp chúng ta triển khai tối đa 36 tác lao động Chúng ta không được phép quên ơn nghĩa này, mà phải luôn ghi nhớ rằng, trong lúc đói khổ và thiếu thốn, đã có những người anh em sẵn sàng dang rộng vòng tay giúp đỡ chúng ta hết mình.

BÀI H Ọ C KINH NGHI Ệ M VÀ TRI Ể N V Ọ NG QUAN H Ệ

Ngày đăng: 22/11/2021, 10:56

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

PHỤ LỤC 2: Một số hình ảnh về quan hệ Việt Nam– CHDC Đức - Đề tài quan hệ ngoại giao việt nam và cộng hòa dân chủ đức từ năm 1955 đến 1990
2 Một số hình ảnh về quan hệ Việt Nam– CHDC Đức (Trang 59)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

w