Chúng ta đang sống trong sự biến đổi không ngừng của môi trƣờng, mỗi ngƣời đều chịu sự ảnh hƣởng của tuổi tác, khí hậu, biến đổi dân số và từ chính những thói quen sinh hoạt của mình. Ví dụ điển hình của sự ảnh hƣởng này lên con ngƣời chính là bệnh không lây, đứng đầu là các bệnh về tim mạch, ung thƣ, béo phì. Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến các bệnh về tim mạch là tăng huyết áp (THA). Theo ƣớc tính của Tổ chức y tế thế giới (WHO) có hàng triệu ngƣời bị THA và đây là nguyên nhân dẫn đến đau tim, đột quỵ, có khoảng chín triệu ca tử vong do tăng huyết áp mỗi năm. Vào năm 2008, trên thế giới ƣớc tính 40% ngƣời trƣởng thành (độ tuổi từ 25 trở lên) mắc bệnh THA, số lƣợng ngƣời mắc bệnh tăng từ 600 triệu ngƣời năm 1980 lên đến 1 tỉ ngƣời năm 2008 [47]. Các nƣớc đang phát triển và chƣa phát triển có tỷ lệ mắc tăng huyết áp cao hơn các nƣớc đã phát triển trong đó Việt Nam là nƣớc đang phát triển, tần suất mắc tăng huyết áp ở ngƣời lớn ngày càng tăng, vào những năm 1960 tỷ lệ mắc là 1%, năm 1992 là 11,2%, năm 2001 là 16,3% và 2005 là 18,3% . Theo thống kê năm 2015 của Hội tim mạch học Việt Nam, có trên 5454 ngƣời trƣởng thành trong quần thể 44 triệu ngƣời tại 8 tỉnh thành trên toàn quốc mắc tăng huyết áp, tỷ lệ mắc tăng huyết áp là 47,3% [13]. Trên thế giới, mỗi năm có 17 triệu ca tử vong do bệnh tim mạch, chiếm gần một phần ba tổng số ca tử vong, trong đó tử vong do nguyên nhân tăng huyết áp gần 9,4 triệu ca mỗi năm[47]. Tăng huyết áp gây ra ít nhất 45% tử vong vì biến chứng tim, và 51% tử vong do biến chứng đột quỵ [47]. Theo các nghiên cứu cho thấy, ngƣời tăng huyết áp không kiểm soát đƣợc thì nguy cơ bị bệnh mạch vành tăng gấp 3 lần, suy tim tăng gấp 6 lần, đột quỵ tăng gấp 7 lần [9]. Tuy nhiên con số này có thể khống chế đƣợc bằng việc tuân thủ điều trị thuốc cũng nhƣ thay đổi lối sống lành mạnh, tăng huyết áp có thể đƣợc phòng tránh dễ dàng và ít tốn kém. Mặc dù vậy việc kiểm soát tăng huyết áp cũng gặp không ít khó khăn. Cho dù trên thế giới đã cho ra đời những phƣơng pháp điều trị hiệu quả, nhƣng vẫn có một số lƣợng bệnh nhân bỏ điều trị trong vòng một năm đầu sau khi đƣợc chẩn đoán. Số liệu thống kê từ WHO, năm 2003, chỉ ra rằng trong số những ngƣời đƣợc chẩn đoán có 50% là tiếp tục điều trị theo đơn thuốc của họ, 75% bệnh nhân tăng huyết áp không đạt đƣợc huyết áp tối ƣu [46]. Tại Việt Nam, năm 2015, ở những ngƣời tăng huyết áp có 39,1% (8,1 triệu ngƣời) không đƣợc phát hiện tăng huyết áp; 69% (8,1 triệu ngƣời) bị tăng huyết áp chƣa kiểm soát đƣợc [20]. Nghiên cứu về tình trạng tăng huyết áp của ngƣời dân độ tuổi từ 25-64 tuổi ở Nhơn Châu, Nhơn Hội, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định năm 2014, cho kết quả tỷ lệ hiện mắc tăng huyết áp là 20%, kiến thức đúng về tăng huyết áp chiếm 34,3%, và thực hành đúng về phòng chống tăng huyết áp chiếm 19,2% [22]. Trong một nghiên cứu về kiến thức bệnh nhân tăng huyết áp đang đƣợc điều trị tại bệnh viện đa khoa Bồng Sơn, thành phố Bình Định năm 2015-2016 cho thấy đa số bệnh nhân có hiểu biết về điều chỉnh lối sống nhƣng chƣa nắm rõ về điều trị dùng thuốc và nguyên tắc dùng thuốc, có 27,2% bệnh nhân cho rằng điều trị dùng thuốc chỉ khi nào huyết áp cao, dùng một đợt rồi nghỉ là 9,1% [12]. Đơn vị phòng chống tăng huyết áp Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định, có nhiệm vụ khám, điều trị và quản lý tất cả các trƣờng hợp tăng huyết áp trên địa bàn toàn tỉnh. Năm 2016 theo báo cáo của Đơn vị quản lý và tƣ vấn THA Bệnh viện Đa khoa tỉnh, số bệnh nhân tăng huyết áp đƣợc quản lý và điều trị là 589 bệnh nhân. Trong đó, có 386 bệnh nhân điều trị đạt huyết áp mục tiêu (dƣới 140/90mmHg), đạt tỉ lệ 65,53% [8]. Nghĩa là vẫn tồn tại gần 203 bệnh nhân (34,46%) không đạt huyết áp mục tiêu. Vậy đặt ra vấn đề cho dù bệnh nhân có những hiểu biết nhất định về tăng huyết áp nhƣng thái độ và thực hành về tuân thủ điều trị có thể chƣa đúng, và có điều gì làm ảnh hƣởng đến sự tuân thủ điều trị của bệnh nhân. Vì vậy đề tài “Tuân thủ điều trị tăng huyết áp của bệnh nhân tăng huyết áp điều trị ngoại trú không đạt huyết áp mục tiêu tại bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định, năm 2017” đƣợc thực hiện để đánh giá kiến thức, thái độ và mức độ tuân thủ điều trị tăng huyết áp của bệnh nhân ở nhóm điều trị không đạt huyết áp mục tiêu, góp phần quản lý bệnh nhân tăng huyết áp tốt hơn, đƣa ra những biện pháp can thiệp, giáo dục sức khỏe để ngƣời bệnh hiểu đúng và điều trị hiệu quả. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU Tỷ lệ có kiến thức, thái độ và tuân thủ điều trị đúng ở bệnh nhân tăng huyết áp ngoại trú không đạt mục tiêu điều trị tại bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định, năm 2017 là bao nhiêu ? MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU Mục tiêu tổng quát Xác định tỷ lệ có kiến thức, thái độ và tuân thủ điều trị đúng ở bệnh nhân tăng huyết áp ngoại trú không đạt mục tiêu điều trị tại bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định, năm 2017. Mục tiêu cụ thể 1. Xác định tỷ lệ có kiến thức, thái độ đúng của bệnh nhân tăng huyết áp ngoại trú không đạt huyết áp mục tiêu tại bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định. 2. Xác định tỷ lệ tuân thủ điều trị dùng thuốc của bệnh nhân tăng huyết áp ngoại trú không đạt huyết áp mục tiêu tại bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định. 3. Xác định tỷ lệ tuân thủ điều trị không dùng thuốc của bệnh nhân tăng huyết áp ngoại trú không đạt huyết áp mục tiêu tại bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định. 4. Xác định mối liên quan giữa tuân thủ điều trị THA dùng thuốc với kiến thức và thái độ điều trị THA 5. Xác định mối liên quan giữa tuân thủ điều trị THA không dùng thuốc với kiến thức và thái độ điều trị THA
TỔNG QUAN Y VĂN
Định nghĩa và phân loại tăng huyết áp
1.1.1 Định nghĩa tăng huyết áp
Huyết áp (HA) là áp lực trong động mạch, giúp máu lưu thông đến các mô và cơ quan Nó chịu ảnh hưởng từ nhịp tim, thể tích máu và độ đàn hồi của thành mạch.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), huyết áp bình thường ở người trưởng thành được xác định khi huyết áp tâm thu (HATT) nằm trong khoảng 105 đến 120 mmHg và huyết áp tâm trương (HATTr) từ 60 đến 80 mmHg Tăng huyết áp được chẩn đoán khi huyết áp tâm thu đạt ≥140 mmHg và/hoặc huyết áp tâm trương ≥90 mmHg.
1.1.2 Phân loại tăng huyết áp
Bảng 1 1 Phân độ tăng huyết áp theo JNC VII
Theo JNC VII, để phân loại và chẩn đoán tăng huyết áp ở người trưởng thành, cần ít nhất 2 lần đo trong 2 lần thăm khám lâm sàng Nếu HATT và HATTr nằm ở 2 phân độ khác nhau, chẩn đoán cuối cùng sẽ dựa trên phân độ huyết áp cao hơn Huyết áp được chia thành 4 độ: bình thường, tiền tăng huyết áp, tăng huyết áp độ 1 và tăng huyết áp độ 2 Tiền tăng huyết áp không được coi là tăng huyết áp, nhưng là một nguy cơ cảnh báo cho sự tiến triển lên tăng huyết áp độ 1 hoặc độ 2.
Dịch tễ tăng huyết áp
1.2.1 Tình hình tăng huyết áp trên thế giới
Thông tin đáng tin cậy về bệnh tăng huyết áp là cần thiết để xây dựng chính sách y tế hiệu quả Dữ liệu từ năm 2000 cho thấy 26,4% người trưởng thành toàn cầu bị tăng huyết áp, với 26,6% nam giới và 26,1% phụ nữ Dự báo đến năm 2025, tỷ lệ này sẽ tăng lên 29,2% Tổng số người lớn mắc bệnh tăng huyết áp năm 2000 ước tính là 972 triệu, trong đó có 333 triệu ở các nước phát triển và 639 triệu ở các nước đang phát triển Dự đoán đến năm 2025, số người lớn bị tăng huyết áp sẽ tăng khoảng 60%.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), vào năm 2008, khoảng 1 tỷ người trên toàn cầu mắc bệnh tăng huyết áp, chiếm 40% dân số từ 25 tuổi trở lên Tỷ lệ mắc bệnh cao nhất ghi nhận ở Châu Phi với 46%, trong khi Châu Mỹ có tỷ lệ thấp nhất là 35%.
Có nhiều nghiên cứu của các tác giả trên thế giới về bệnh tăng huyết áp, tại Canada
(1995) tỷ lệ THA là 22%, Mexico (1998) 30%, Cuba (1998) 44%, Tây Ban Nha
(1996) 30%, Trung Quốc (2001) 27%, Thái Lan (2001) 20,5%, Singapore (1998) 26,6% [33].
1.2.2 Tình hình tăng huyết áp tại Việt Nam Ở Việt Nam, tỷ lệ phần trăm người bị THA ngày càng gia tăng khi nền kinh tế phát triển Trong một nghiên cứu của tác giả Bùi Văn Tân và Đinh Thị Nguyệt (năm
2010), tỷ lệ bệnh nhân không biết bị THA là 15,57%, biết nhƣng không điều trị 21,16%, điều trị không đúng 50,25%, Chỉ có 12,56% điều trị đúng và kiểm soát đƣợc huyết áp.
Nghiên cứu của Trần Thiện Thuần năm 2005 tại thành phố Hồ Chí Minh cho thấy tỷ lệ tăng huyết áp ở người từ 25 đến 65 tuổi là 26,52%, dựa trên phương pháp nghiên cứu cắt ngang mô tả với cỡ mẫu 1991 người.
Tần suất bệnh tăng huyết áp (THA) tại Việt Nam đã gia tăng nhanh chóng trong vài thập niên qua, với tỷ lệ THA ở khu vực thành thị cao hơn đáng kể so với khu vực nông thôn Đặc biệt, nam giới có xu hướng mắc THA nhiều hơn nữ giới Với dân số khoảng 88 triệu người, ước tính có khoảng 11 triệu người đang sống với bệnh THA.
Yếu tố nguy cơ tăng huyết áp
Di truyền đóng vai trò quan trọng trong việc tăng nguy cơ cao huyết áp, với tỷ lệ mắc bệnh này ở những người có cha mẹ hoặc người thân có quan hệ huyết thống cao gấp 2-7 lần so với dân số chung.
Tuổi tác là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sức khỏe, khi càng lớn tuổi, thành mạch sẽ trở nên kém đàn hồi, góp phần vào nguy cơ tăng huyết áp Theo thống kê, người trong độ tuổi từ 44 đến 46 có nguy cơ mắc bệnh tăng huyết áp cao gấp nhiều lần.
4 lần người 65 tuổi có nguy cơ tăng huyết áp gấp gần 2 lần [38].
Nam giới dưới 45 tuổi có nguy cơ mắc tăng huyết áp cao hơn nữ giới Từ độ tuổi 45 đến 64, tỷ lệ mắc tăng huyết áp giữa nam và nữ tương đương Tuy nhiên, sau 65 tuổi, nữ giới có xu hướng mắc tăng huyết áp cao hơn nam giới.
Chủng tộc: Ở người da đen, nguy cơ mắc tăng huyết áp cao hơn người da trắng
Tăng lipids máu là yếu tố chính gây ra xơ vữa động mạch và tăng huyết áp, làm tăng nguy cơ bệnh tim mạch Sự kết hợp giữa tăng huyết áp và đái tháo đường cũng làm gia tăng nguy cơ tổn thương các cơ quan quan trọng Việc kiểm soát huyết áp, cholesterol và đường huyết là cần thiết để giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch ở bệnh nhân tăng huyết áp có đái tháo đường Theo thống kê của CDC, khoảng 60% người mắc đái tháo đường cũng bị tăng huyết áp.
Vận động thể lực hàng ngày từ 30-45 phút có lợi cho hệ tim mạch, giúp giảm nguy cơ mắc tăng huyết áp và các bệnh tim mạch, đặc biệt ở những người ít vận động Việc duy trì thói quen tập luyện đều đặn sẽ góp phần cải thiện sức khỏe tim mạch.
Ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng rất quan trọng cho sức khỏe, tuy nhiên, chế độ ăn nhiều muối có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh tăng huyết áp Theo khuyến cáo của WHO, người trưởng thành nên hạn chế lượng natri tiêu thụ dưới 2g, tương đương với ít hơn 5g muối mỗi ngày.
Hút thuốc lá chứa nhiều chất kích thích, đặc biệt là nicotin, có tác động đến hệ thần kinh giao cảm, dẫn đến co mạch và tăng huyết áp Nghiên cứu cho thấy việc hút một điếu thuốc có thể làm tăng huyết áp tâm thu lên 11 mmHg và huyết áp tâm trương lên 9 mmHg, với tác động kéo dài từ 20-30 phút Do đó, không hút thuốc là biện pháp hiệu quả để phòng ngừa tăng huyết áp.
Uống rượu, dù ở mức độ nào, có thể dẫn đến nhiều vấn đề sức khỏe nghiêm trọng như trụy tim, đột quỵ và loạn nhịp tim Ngoài ra, rượu còn gây tăng huyết áp, ung thư, nghiện rượu, béo phì và tai nạn Để phòng ngừa bệnh tăng huyết áp, mọi người nên hạn chế lượng rượu bia tiêu thụ Lượng khuyến nghị hàng ngày là khoảng 30ml rượu mạnh, 50ml rượu vang hoặc 300ml bia.
Thừa cân và béo phì dẫn đến tích trữ mỡ trong cơ thể, làm tăng cholesterol xấu và triglyceride, đồng thời giảm cholesterol tốt Điều này không chỉ gia tăng nguy cơ cao huyết áp mà còn làm tăng khả năng mắc các bệnh tim mạch và tiểu đường.
Căng thẳng thần kinh và stress có thể làm tăng nhịp tim và dẫn đến huyết áp cao do tác động của adrenalin và noradrenalin khiến động mạch co thắt Để giảm thiểu stress và phòng ngừa bệnh huyết áp cao, mỗi người cần rèn luyện tính tự lập, kiên nhẫn và khả năng làm chủ bản thân trong mọi tình huống.
Biến chứng của tăng huyết áp
Biến chứng của tăng huyết áp (THA) rất đa dạng và diễn biến âm thầm, ảnh hưởng đến nhiều cơ quan trong cơ thể Các triệu chứng lâm sàng thường kín đáo, khiến người bệnh dễ chủ quan và nghĩ rằng mình vẫn khỏe mạnh Việc nhận biết các biến chứng của THA là vô cùng quan trọng để có biện pháp can thiệp kịp thời.
Biến chứng tim mạch do tăng huyết áp (THA) bao gồm nhồi máu cơ tim, bệnh động mạch vành, và suy tim, trong đó suy tim và bệnh mạch vành là hai nguyên nhân chính gây tử vong THA làm tăng gánh nặng cho tim và hệ thống động mạch, khiến tim phải làm việc nhiều hơn, dẫn đến hiện tượng giãn nở và dày thất trái Dày thất trái là một biến chứng sớm, phản ánh sự thích nghi của cơ tim với sức cản ngoại biên gia tăng Theo thời gian, bệnh nhân có thể gặp triệu chứng suy tim trái, như khó thở khi gắng sức, và tiến triển đến khó thở ngay cả khi nằm Cuối cùng, suy tim toàn bộ có thể xảy ra với các triệu chứng như phù nề, gan to, và tĩnh mạch cổ nổi, cùng với dấu hiệu dày thất phải trên X-quang và điện tim Bệnh mạch vành thường biểu hiện qua các cơn đau thắt ngực và loạn nhịp tim.
Biến chứng về não là một trong những vấn đề nghiêm trọng thường gặp ở bệnh nhân tăng huyết áp (THA) Tai biến mạch máu não, bao gồm xuất huyết não và nhồi máu não, có thể dẫn đến triệu chứng thần kinh khu trú kéo dài dưới 24 giờ Ngoài ra, bệnh não do THA có thể gây ra tình trạng lú lẫn, hôn mê, kèm theo co giật, nôn mửa và nhức đầu dữ dội.
Biến chứng về thận bao gồm xơ vữa động mạch nhanh và sớm, dẫn đến suy thận dần dần và hoại tử dạng tơ huyết tiểu động mạch thận, gây ra tình trạng huyết áp cao ác tính Ở giai đoạn cuối, thiếu máu cục bộ nặng tại thận sẽ làm tăng nồng độ rennin và angiotensin II trong máu, gây ra cường aldosterone thứ phát.
Biến chứng về mắt có thể tiến triển theo giai đoạn và dẫn đến mù lòa Khi soi đáy mắt, có thể phát hiện các tổn thương như lòng động mạch co nhỏ, ngoằn ngoèo, động tĩnh mạch bắt chéo, phù nề, xuất tiết, xuất huyết võng mạc và phù gai thị.
Biến chứng mạch ngoại vi, đặc biệt là tách thành động mạch chủ, có thể gây tử vong Tăng huyết áp (THA) là nguyên nhân chính gây xơ vữa động mạch và phồng động mạch chủ Trong những năm gần đây, tỷ lệ biến chứng về mạch máu ngày càng tăng cao.
Nghiên cứu cho thấy người bị tăng huyết áp (THA) không được kiểm soát có nguy cơ mắc bệnh động mạch vành cao gấp 3 lần, suy tim gấp 6 lần và đột quỵ gấp 7 lần Các biến chứng của THA có thể xảy ra một cách cấp tính hoặc âm thầm, gây ra mối đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng và ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng sống của bệnh nhân.
Phòng ngừa tăng huyết áp
Để duy trì cân nặng hợp lý, chỉ số BMI lý tưởng cho người trưởng thành nên nằm trong khoảng 18,5-22,9 kg/m² Việc kết hợp chế độ ăn uống khoa học và vận động thường xuyên là cần thiết để phòng ngừa tình trạng thừa cân và béo phì.
Giảm lượng muối ăn có thể tác động tích cực đến huyết áp Một nghiên cứu từ đơn vị tăng huyết áp ở London cho thấy việc giảm 100mmol/người/ngày (tương đương 6g muối) giúp giảm 7,11mmHg huyết áp tâm thu và 3,88mmHg huyết áp tâm trương ở bệnh nhân tăng huyết áp, cũng như 3,57mmHg huyết áp tâm thu và 1,66mmHg huyết áp tâm trương ở những người không mắc bệnh.
Không hút thuốc lá có thể giảm 50% nguy cơ mắc bệnh mạch vành so với những người tiếp tục hút thuốc, bất kể thời gian Đối với những người bị tăng huyết áp, giảm 1 gói thuốc mỗi ngày có thể làm giảm rủi ro từ 35-40%.
Hạn chế tiêu thụ rượu bia là rất quan trọng, vì mỗi 10g rượu bia có thể làm tăng huyết áp lên 1mmHg Việc uống nhiều rượu bia không chỉ làm tăng nguy cơ xuất huyết não mà còn làm tăng nguy cơ tử vong do bệnh động mạch vành so với những người không uống.
Tập thể dục: tập thể dục, đi bộ hoặc vận động ở mức độ vừa phải, đều đặn khoảng
Tập luyện thể lực từ 30-60 phút mỗi ngày là một phần quan trọng trong chương trình điều trị hàng ngày Việc tập thể dục không chỉ giúp giảm huyết áp mà còn hỗ trợ giảm cân hoặc duy trì cân nặng lý tưởng.
Tránh lo âu, căng thẳng thần kinh: mỗi người cần có chế độ thư giãn, nghỉ ngơi hợp lý.
Điều trị tăng huyết áp
Mục tiêu lâu dài của điều trị huyết áp là đạt được mức huyết áp lý tưởng với ít tác dụng phụ nhất nhằm giảm thiểu tổn thương cơ quan đích và biến chứng tim mạch, từ đó hạ thấp tỷ lệ mắc bệnh và tử vong Các mức huyết áp mục tiêu theo hướng dẫn của ESH/ESC 2013 và JNC8 được nêu rõ trong bảng 1.2.
Bảng 1 2 Tóm tắt huyết áp mục tiêu của ESH/ESC 2013 và JNC8 [29, 39] Đối tƣợng ESH/ESC
Tăng huyết áp + đái tháo đường < 140/85
Tăng huyết áp + bệnh thận mạn + chƣa xuấthiện protein niệu
Tăng huyết áp + bệnh thận mạn + xuất hiện protein niệu
Điều trị huyết áp dưới 130/90 cần được thực hiện một cách tích cực cho những bệnh nhân có tổn thương cơ quan đích Việc hạ huyết áp quá nhanh có thể gây ra biến chứng thiếu máu ở các cơ quan này, trừ khi trong tình huống cấp cứu.
Bệnh nhân tiền tăng huyết áp (THA) và THA cần thực hiện thay đổi lối sống để giảm huyết áp, ngăn ngừa tiến triển thành THA, giảm liều thuốc hạ áp và giảm nguy cơ tim mạch Theo chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống tăng huyết áp, có nhiều biện pháp làm giảm huyết áp hiệu quả mà không cần dùng thuốc.
Giảm cân: béo phì hoặc quá cân nếu giảm 10kg để BMI nằm trong khoảng 18,5-
Chế độ ăn uống giàu trái cây, rau củ và sản phẩm sữa ít béo có thể giúp giảm huyết áp tâm thu từ 8-14 mmHg Ngoài ra, việc sử dụng 24,5 cũng có thể làm giảm huyết áp tâm thu từ 5-20 mmHg.
Giảm lƣợng muối ăn: vào hàng ngày, không ăn quá 1 muỗng cà phê muối ( < 6g
NaCl) mỗi ngày, bao gồm cả lượng muối được nêm trong thức ăn và nước chấm.
Vận động thể lực: tham gia vào các hoạt động thể lực vừa sức nhƣ đi bộ ít nhất 30 phút mỗi ngày và mọi ngày trong tuần.
Hạn chế hay uống rƣợu bia vừa phải : uống ít hơn 80ml rƣợu mạnh, 600ml bia và 250ml rƣợu vang trong 1 ngày.
Để điều trị tăng huyết áp (THA) hiệu quả, cần kết hợp thay đổi lối sống và sử dụng thuốc một cách hợp lý Việc hạn chế căng thẳng thông qua nghỉ ngơi, thư giãn và giải trí là rất quan trọng Bắt đầu với liều thuốc thấp và tăng dần nếu cần thiết, đồng thời có thể thay đổi hoặc phối hợp thuốc để giảm thiểu tác dụng phụ.
Theo hướng dẫn của bộ Y tế chẩn đoán, điều trị tăng huyết áp ban hành năm 2010 [2]:
Tăng huyết áp độ 1 có thể được điều trị bằng cách chọn một loại thuốc từ các nhóm như lợi tiểu thiazide liều thấp, ức chế men chuyển, chẹn kênh canxi tác dụng kéo dài, hoặc chẹn beta giao cảm (trong trường hợp không có chống chỉ định).
Đối với bệnh nhân tăng huyết áp độ 2 trở lên, việc phối hợp hai loại thuốc là cần thiết để đạt hiệu quả điều trị tốt nhất Các loại thuốc có thể sử dụng bao gồm lợi tiểu, chẹn kênh canxi, ức chế men chuyển, ức chế thụ thể AT1 của angiotensin II, và chẹn beta giao cảm Việc lựa chọn phối hợp thuốc phù hợp sẽ giúp kiểm soát huyết áp hiệu quả hơn.
Để điều trị huyết áp cao hiệu quả, cần phối hợp từng bước các loại thuốc hạ huyết áp cơ bản Bắt đầu từ liều thấp, có thể sử dụng lợi tiểu thiazide với liều 12,5mg/ngày, tiếp theo là chẹn kênh canxi phóng thích chậm như nifedipine với liều từ 10-20mg/ngày, và cuối cùng là ức chế men chuyển như enalapril 5mg/ngày hoặc perindopril với liều từ 2,5-5mg/ngày.
Quản lý người bệnh ngay tại tuyến cơ sở để đảm bảo bệnh nhân được uống thuốc đúng và đủ liều.
Nếu chƣa đạt huyết áp mục tiêu: chỉnh liều tối ƣu hoặc bổ sung thêm một loại thuốc khác cho đến khi đạt huyết áp mục tiêu.
Nếu huyết áp không đạt mục tiêu, cần chuyển bệnh nhân đến cơ sở y tế cấp cao hoặc chuyên khoa tim mạch để điều trị Việc quản lý tăng huyết áp cùng với các yếu tố nguy cơ tim mạch khác cần được thực hiện tại tuyến trên.
Quản lý tăng huyết áp và các yếu tố nguy cơ tim mạch khác ở tuyến trên bao gồm:
Phát hiện tổn thương cơ quan đích ngay ở giai đoạn tiền lâm sàng Loại trừ các nguyên nhân gây tăng hyết áp thứ phát.
Chọn chiến lƣợc điều trị dựa vào độ huyết áp và nguy cơ tim mạch.
Tối ưu hóa phác đồ điều trị tăng huyết áp cần dựa vào các chỉ định bắt buộc và ưu tiên cho từng nhóm thuốc hạ huyết áp, phù hợp với các thể bệnh cụ thể Việc này giúp nâng cao hiệu quả điều trị và đảm bảo an toàn cho bệnh nhân.
Phối hợp nhiều loại thuốc giúp cải thiện hiệu quả kiểm soát huyết áp, giảm thiểu tác dụng phụ và nâng cao sự tuân thủ điều trị của bệnh nhân Điều này đặc biệt quan trọng trong việc điều trị các bệnh lý phối hợp và dự phòng cho những người có nguy cơ mắc bệnh tim mạch cao hoặc rất cao.
Trong các tình huống khẩn cấp như tăng huyết áp ác tính, tách thành động mạch chủ, suy thận tiến triển nhanh, sản giật, hoặc tăng huyết áp kèm nhồi máu cơ tim cấp và suy tim trái cấp, việc sử dụng thuốc hạ áp đường tĩnh mạch là rất cần thiết.
Lựa chọn thuốc khởi đầu
Có chỉ định bắt buộc Không có chỉ định bắt buộc Điều chỉnh lối sống
Không đạt HA mục tiêu(