Đặt vấn đề: Tăng huyết áp (THA) là vấn đề sức khỏe cộng đồng thách thức. Tỷ lệ mắc và tử vong do THA đang có xu hướng gia tăng trên toàn cầu. Các phương pháp kiểm soát THA phổ biến bao gồm dược lý, điều chỉnh lối sống và phương pháp không dùng thuốc bổ sung. Hiệu quả so sánh giữa các phương pháp không dùng thuốc bổ sung vẫn còn là một khía cạnh rất mới để giảm huyết áp ở bệnh nhân THA. Hầu hết các nghiên cứu tổng quan hệ thống và phân tích gộp truyền thống trước đây chỉ tập trung đánh giá hiệu quả hạ huyết áp của từng liệu pháp bổ sung riêng lẻ theo cặp. Do đó, việc so sánh đồng thời hiệu quả điều trị THA của nhiều liệu pháp vẫn còn là một câu hỏi nan giải. Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của các liệu pháp không dùng thuốc lên các chỉ số huyết áp và thứ hạng tương đối của các liệu pháp trong giảm các chỉ số huyết áp ở bệnh nhân THA. Từ đó, xác định liệu pháp hiệu quả nhất trong điều trị THA. Đối tƣợng và phƣơng pháp nghiên cứu: Sử dụng nghiên cứu tổng quan hệ thống có phân tích gộp mạng lưới. Tìm kiếm từ bảy nguồn cơ sở dữ liệu điện tử từ năm 1975 đến năm 2018 để xác định các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCTs) liên quan và sàng lọc bởi nghiên cứu viên. Đối với các nghiên cứu thỏa tiêu chí chọn vào, trích xuất dữ liệu và đánh giá chất lượng các nghiên cứu bằng công cụ đánh giá nguy cơ sai lệch Cochrane. Hiệu số trung bình và khoảng tin cậy 95% chỉ cỡ tác động, sử dụng điểm xếp hạng P để sắp xếp thứ tự hiệu quả các phương pháp. Kết quả: Nghiên cứu chọn được 77 thử nghiệm so sánh 6 phương pháp không dùng thuốc (thiền siêu việt, phản hồi sinh học, yoga, châm cứu, thiết bị thở, âm nhạc) trên 5674 bệnh nhân. Trong phân tích gộp mạng, phản hồi sinh học kết hợp yoga, phản hồi sinh học kết hợp thở có hiệu quả đáng kể trong giảm huyết áp tâm thu (MD=- 17,2, điểm P=0,9; MD=-9,49, điểm P=0,7) và tâm trương (MD=-11,0, điểm P=0,96; MD=-5,85, điểm P=0,75) so với chứng. Thở, phản hồi sinh học giảm đáng kể huyết áp trung bình so với chứng (MD=-8,32, điểm P=0,85; MD=-8,07, điểm P=0,83). Kết luận: Phân tích gộp mạng lưới cho thấy phản hồi sinh học kết hợp yoga là phương pháp giảm huyết áp tâm thu và tâm trương hiệu quả nhất, còn thở là phương pháp giảm huyết áp trung bình hiệu quả nhất ở bệnh nhân THA và tiền THA. Từ khóa: phương pháp không dùng thuốc, tăng huyết áp, phân tích gộp mạng lưới, huyết áp.
TỔNG QUAN Y VĂN
Khái niệm tăng huyết áp
1.1.1 Định nghĩa tăng huyết áp
THA, hay còn gọi là cao huyết áp, là tình trạng huyết áp tăng cao đến mức có thể gây tổn thương cho mạch máu và các cơ quan như võng mạc, não, tim, và thận Huyết áp bình thường ở người lớn được xác định là 120 mmHg cho huyết áp tâm thu và 80 mmHg cho huyết áp tâm trương Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Hiệp hội THA Thế giới (WHO/ISH), một người trưởng thành được chẩn đoán mắc THA khi huyết áp tâm thu lớn hơn 140 mmHg và/hoặc huyết áp tâm trương lớn hơn 90 mmHg, hoặc đang sử dụng thuốc hạ huyết áp hàng ngày.
Vào năm 2017, Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ (AHA) đã công bố hướng dẫn mới về chẩn đoán và phân loại tăng huyết áp (THA) Theo hướng dẫn này, một người được xác định là mắc THA khi huyết áp tâm thu đạt 130 mmHg trở lên và/hoặc huyết áp tâm trương đạt 80 mmHg trở lên.
1.1.2 Phân độ tăng huyết áp
Bảng 1.1 Phân loại THA theo WHO-ISH, khuyến cáo của Hội Tim mạch Việt Nam năm 2010 và hướng dẫn của Bộ Y tế
Phân độ huyết áp Huyết áp tâm thu
(mmHg) Huyết áp tâm trương
Huyết áp tối ƣu < 120 Và < 80
Huyết áp bình thường 120 – 129 Và/ hoặc 80 – 84
Tiền tăng huyết áp 130 – 139 Và/ hoặc 85 – 89
Tăng huyết áp độ 1 140 – 150 Và/ hoặc 90 – 99
Tăng huyết áp độ 2 160 – 179 Và/ hoặc 100 – 109
Tăng huyết áp độ 3 ≥ 180 Và/ hoặc ≥ 110
Tăng huyết áp tâm thu đơn độc ≥ 140 Và < 90
Khi huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương không đồng nhất, cần chọn mức cao hơn để phân loại Đối với huyết áp tâm thu đơn độc, việc phân độ cũng dựa trên các mức biến động của huyết áp tâm thu.
Bảng 1.2 Phân độ THA theo AHA/ASA 2017
Phân độ huyết áp Huyết áp tâm thu (mmHg) Huyết áp tâm trương (mmHg)
Cơn tăng huyết áp > 180 Và/ hoặc > 120
Nếu huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương không cùng mức phân độ thì chọn mức cao hơn để xếp loại [151].
Tình hình và gánh nặng bệnh tăng huyết áp trên thế giới và Việt Nam
1.2.1 Tình hình tăng huyết áp trên thế giới
Biểu đồ 1.1 Tỷ lệ tăng huyết áp ở người từ 25 tuổi trở lên năm 2008
Nguồn biểu đồ: Tổ chức Y tế thế giới (WHO) [9]
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tỷ lệ huyết áp cao (THA) ở người trưởng thành từ 25 tuổi trở lên trên toàn cầu vào năm 2008 là khoảng 40% Mặc dù tỷ lệ THA đã giảm từ năm 1980 đến 2008, số người mắc THA không kiểm soát được đã tăng từ 600 triệu lên gần 1 tỷ do dân số gia tăng và lão hóa Khu vực châu Phi có tỷ lệ THA cao nhất, đạt 46% ở cả hai giới, trong khi châu Mỹ có tỷ lệ thấp nhất là 35% Tỷ lệ THA ở nam giới (39%) cao hơn ở phụ nữ (32%), và sự khác biệt này chỉ có ý nghĩa thống kê tại châu Mỹ và châu Âu Các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình có tỷ lệ THA khoảng 40%, trong khi ở các nước thu nhập cao, tỷ lệ này là 35%.
Giữa năm 1975 và 2015, huyết áp tâm thu và tâm trương trung bình giảm đáng kể ở các quốc gia phương Tây và châu Á Thái Bình Dương có thu nhập cao, với một số quốc gia chuyển từ mức huyết áp cao nhất thế giới năm 1975 xuống thấp nhất vào năm 2015 Mặc dù huyết áp trung bình cũng giảm ở phụ nữ tại các khu vực như Trung và Đông Âu, Mỹ Latinh và Caribê, cũng như gần đây ở Trung Á, Trung Đông và Bắc Phi, nhưng xu hướng này không chắc chắn hơn so với các khu vực có thu nhập cao Ngược lại, huyết áp trung bình có thể tăng ở Đông và Đông Nam châu Á, Nam Á, Châu Đại Dương và châu Phi cận Sahara, với Trung và Đông Âu, châu Phi cận Sahara và Nam Á có mức huyết áp cao nhất vào năm 2015 Tỷ lệ tăng huyết áp (THA) giảm ở các quốc gia có thu nhập cao và một số quốc gia thu nhập trung bình, trong khi không có sự thay đổi ở nhiều nơi khác Số người mắc THA đã tăng từ 594 triệu người vào năm 1975 lên 1,13 tỷ người vào năm 2015, chủ yếu ở các quốc gia thu nhập thấp và trung bình.
Trong năm 2018, đã có 496.197 trường hợp mới được phát hiện, với tỷ lệ hiện mắc dao động từ 4% đến 78% Sự gia tăng tỷ lệ hiện mắc trong thập kỷ qua, đặc biệt sau năm 2000, có thể liên quan đến thay đổi lối sống và phương pháp chế biến thực phẩm Tỷ lệ huyết áp cao nhất đang chuyển dịch từ các quốc gia có thu nhập trung bình cao sang các quốc gia có thu nhập trung bình thấp, nơi tỷ lệ mắc bệnh cao nhất Sự gia tăng này đòi hỏi các can thiệp kịp thời để kiểm soát tình trạng tăng huyết áp.
Tỷ lệ người mắc tăng huyết áp (THA) đang gia tăng nhanh chóng ở các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là ở châu Á và châu Phi Theo khảo sát sức khỏe và dinh dưỡng quốc gia Mỹ năm 2011-2012, khoảng 75 triệu người trưởng thành, tương đương 32%, mắc THA, tức là cứ 3 người trưởng thành thì có 1 người bị bệnh này Tuy nhiên, chỉ khoảng 54% trong số họ có khả năng kiểm soát tình trạng THA Một nghiên cứu năm 2017 tại Trung Quốc đã khảo sát 1,7 triệu người từ 35-75 tuổi, cho thấy tình trạng này cũng đang trở thành vấn đề nghiêm trọng tại đây.
Gần một nửa số người bị tăng huyết áp (THA) ở 31 tỉnh chưa được điều trị, trong khi chỉ có dưới một phần mười hai số người kiểm soát được huyết áp của mình.
1.2.2 Tình hình tăng huyết áp tại Việt Nam
Theo Hội Tim mạch học Việt Nam năm 2015, trong số 44 triệu người trưởng thành từ 25 tuổi trở lên tại 8 tỉnh, thành phố, có hơn 5.454 người mắc tăng huyết áp (THA) Kết quả cho thấy 52,8% người Việt Nam có huyết áp bình thường, trong khi 47,3% mắc THA Đặc biệt, 39,1% người bị THA không được phát hiện, 7,2% không được điều trị và 69,0% chưa kiểm soát được huyết áp của mình.
Khảo sát quốc gia về tình trạng thừa cân ở người trưởng thành được Viện Dinh dưỡng Quốc gia Việt Nam thực hiện năm 2005 trên 17.199 người từ 25-64 tuổi cho thấy 20,7% mắc tăng huyết áp (THA), tương đương hơn 8 triệu người Tỷ lệ mắc bệnh cao hơn ở nam giới (25,2%) so với nữ giới (15,9%), và nguy cơ mắc bệnh tăng theo độ tuổi Nghiên cứu này mở rộng độ tuổi so với các khảo sát trước đây và sử dụng mẫu đại diện từ nhiều khu vực, cho thấy tỷ lệ mắc THA tại Việt Nam tương đương với một số quốc gia châu Á như Trung Quốc (18%), Thái Lan (21,7%) và Hàn Quốc (22,9%).
Theo một cuộc khảo sát quốc gia năm 2012 do tác giả Sơn PT và cộng sự thực hiện, trong số 44 triệu người Việt Nam, khoảng 11 triệu người mắc tăng huyết áp (THA), tương đương tỷ lệ THA chung là 25,1%, với 28,3% ở nam và 23,1% ở nữ Chỉ có 48,4% bệnh nhân nhận thức về tình trạng THA của mình, 29,6% đã được điều trị, và chỉ 10,7% đạt được mức huyết áp mục tiêu (