1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

LVTN 2018 nghĩa văn bản của các từ trái nghĩa khi đi thành cặp trong câu nói tiếng việt

255 28 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 255
Dung lượng 1,6 MB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (12)
  • 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề (14)
  • 3. Mục đích nghiên cứu (23)
  • 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu (23)
  • 5. Phương pháp nghiên cứu (25)
  • 6. Cấu trúc của khóa luận (25)
  • CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN (27)
    • 1.1. Khái quát về từ trái nghĩa tiếng Việt (27)
      • 1.1.1. Định nghĩa từ trái nghĩa tiếng Việt (27)
        • 1.1.1.1. Định nghĩa dựa trên ngữ nghĩa (27)
        • 1.1.1.2. Định nghĩa dựa trên cả hai mặt ngữ âm, ngữ nghĩa (30)
        • 1.1.1.3. Định nghĩa dựa trên ngữ nghĩa, ngữ dụng (32)
      • 1.1.2. Phân loại từ trái nghĩa tiếng Việt (35)
        • 1.1.2.1. Phân loại dựa trên ngữ nghĩa (35)
        • 1.1.2.2. Phân loại dựa trên từ loại và nghĩa (41)
        • 1.1.2.3. Phân loại dựa trên ngữ nghĩa và ngữ dụng (44)
    • 1.2. Khái quát về nghĩa văn bản và hàm ý (50)
      • 1.2.1. Quan niệm về nghĩa văn bản (50)
      • 1.2.2. Định nghĩa về hàm ý (50)
        • 1.2.2.1. Định nghĩa dựa trên ý nghĩa biểu thị (51)
        • 1.2.2.2. Định nghĩa dựa trên phương thức cấu thành (52)
        • 1.2.2.3. Định nghĩa dựa trên ý nghĩa biểu thị và phương thức cấu thành (54)
    • 1.3. Tiểu kết (57)
  • CHƯƠNG 2: CHỨC NĂNG CÚ PHÁP CỦA TỪ TRÁI NGHĨA (58)
    • 2.1. Thống kê chức năng cú pháp của từ trái nghĩa khi đi thành cặp (58)
      • 2.1.1. Bảng ngữ liệu thống kê (58)
      • 2.1.2. Đặc điểm ngữ liệu (60)
        • 2.1.2.1. Kết cấu cú pháp (61)
        • 2.1.2.2. Kết cấu so sánh (62)
    • 2.2. Cặp trái nghĩa đảm nhiệm chức vụ thành phần chính trong kết cấu (63)
      • 2.2.1. Đặc điểm ngữ liệu (63)
      • 2.2.2. Cặp trái nghĩa làm chủ ngữ (64)
        • 2.2.2.1. Cặp trái nghĩa mức độ làm chủ ngữ (64)
        • 2.2.2.2. Cặp trái nghĩa đối lập loại trừ làm chủ ngữ (67)
        • 2.2.2.3. Cặp trái nghĩa phương hướng, vị trí làm chủ ngữ (68)
      • 2.2.3. Cặp trái nghĩa làm vị ngữ (70)
        • 2.2.3.1. Cặp trái nghĩa mức độ làm vị ngữ (70)
        • 2.2.3.2. Cặp trái nghĩa đối lập loại trừ làm vị ngữ (72)
        • 2.2.3.3. Cặp trái nghĩa phương hướng, vị trí làm vị ngữ (74)
    • 2.3. Cặp trái nghĩa đảm nhiệm chức vụ thành phần phụ trong kết cấu (77)
      • 2.3.1. Đặc điểm ngữ liệu (77)
      • 2.3.2. Cặp trái nghĩa đảm nhiệm chức vụ trong nồng cốt (78)
        • 2.3.2.1. Cặp trái nghĩa làm định ngữ cho nồng cốt (78)
        • 2.3.2.2. Cặp trái nghĩa làm bổ ngữ cho nồng cốt (82)
      • 2.3.3. Cặp trái nghĩa đảm nhiệm chức vụ ngoài nồng cốt (88)
        • 2.3.3.1. Cặp trái nghĩa làm trạng ngữ (88)
        • 2.3.3.2. Cặp trái nghĩa mức độ làm thành phần giải thích (91)
    • 2.4. Tiểu kết (94)
  • CHƯƠNG 3: PHÂN LOẠI NGHĨA VĂN BẢN CỦA CẶP TỪ TRÁI NGHĨA (95)
    • 3.1. Thống kê nghĩa văn bản của từ trái nghĩa khi đi thành cặp (95)
      • 3.1.1. Bảng ngữ liệu thống kê (95)
      • 3.1.2. Đặc điểm ngữ liệu (96)
        • 3.1.2.1. Đặc điểm kết cấu (96)
        • 3.1.2.2. Đặc điểm nội dung (97)
    • 3.2. Phân loại nghĩa văn bản chỉ có nghĩa đen (98)
      • 3.2.1. Đặc điểm ngữ liệu (98)
      • 3.2.2. Nghĩa văn bản của cặp trái nghĩa mức độ chỉ có nghĩa đen, không có hàm ý90 3.2.3. Nghĩa văn bản của cặp trái nghĩa đối lập loại trừ chỉ có nghĩa đen (99)
      • 3.2.4. Nghĩa văn bản của cặp trái nghĩa phương hướng vị trí chỉ có nghĩa đen (103)
    • 3.3. Phân loại nghĩa văn bản có cả nghĩa đen và hàm ý (105)
      • 3.3.1. Đặc điểm ngữ liệu (105)
      • 3.3.2. Nghĩa văn bản của cặp trái nghĩa mức độ có cả nghĩa đen và hàm ý (109)
      • 3.3.3. Nghĩa văn bản của cặp trái nghĩa đối lập loại trừ có cả nghĩa đen và hàm ý (116)
      • 3.3.4. Nghĩa văn bản của cặp trái nghĩa phương hướng vị trí có cả nghĩa đen và hàm ý (122)
    • 3.4. Tiểu kết (128)
  • KẾT LUẬN (129)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (130)
  • PHỤ LỤC (8)

Nội dung

Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Nghiên cứu từ trái nghĩa là một lĩnh vực quan trọng trong ngôn ngữ học, giúp mô tả mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ trong ngôn ngữ Các nhà ngôn ngữ học, cả trên thế giới và tại Việt Nam, đã thực hiện nhiều nghiên cứu về hiện tượng này từ những góc nhìn khác nhau Hầu hết các tác giả đều tập trung vào bản chất của trái nghĩa trong ngữ nghĩa học Một trong những nghiên cứu tiêu biểu là của John Lyons (1977) trong cuốn "Semantics volume 1" của Cambridge University Press, cho rằng có sự phân biệt giữa các thuật ngữ contrast, opposition và antonymy Theo Lyons, contrast là thuật ngữ bao quát nhất, bao gồm cả opposition và antonymy, nhưng không giới hạn số lượng thành tố trong tập hợp tương phản.

Trong ngữ nghĩa học, "opposition" được dùng để chỉ những giá trị nhị nguyên và tương phản, trong khi "antonymy" lại nhấn mạnh vào sự đối lập về thang độ, chẳng hạn như các cặp từ như lớn - nhỏ, cao - thấp.

Thuật ngữ antonymy, xuất hiện vào thế kỷ 19, mô tả hiện tượng trái nghĩa và đối lập với quan hệ đồng nghĩa (synonymy) Theo John Lyons, cách hiểu về quan hệ trái nghĩa là sự đối lập cực đoan về nghĩa không hoàn toàn chính xác, vì thực tế những ví dụ về quan hệ trái nghĩa thường có sự liên quan với nhau, như được chỉ ra trong các từ điển và sổ tay ngữ nghĩa.

Trong nghiên cứu của John Lyons, ông đề cập đến hàm ý phủ định trong các đơn vị hình thái khi có sự xuất hiện của thành tố trái nghĩa Đối với các trái nghĩa không có thang độ (ungardable opposites), hàm ý phủ định thể hiện ý nghĩa đối lập và loại trừ giữa các thực thể lưỡng phân cực Ví dụ, khi nói "X is male (+)", hàm ý phủ định là "X is female (+)", cho thấy rằng tại vị trí "male", chỉ có thể thay thế bằng thành tố trái nghĩa duy nhất là "female" Do đó, hàm ý phủ định chỉ áp dụng cho những trái nghĩa không có thang độ.

Trái nghĩa thang độ (gardable antonym) cho thấy rằng tính chân xác của hàm ý phủ định không chỉ phụ thuộc vào thành tố trái nghĩa mà còn vào thực thể X, theo quy ước văn hóa của người bản ngữ Chẳng hạn, khi nói "X is hot" (+), điều này hàm ý "X is not cold" (+), nhưng thực tế, X có thể không nóng cũng không lạnh.

In his work "Semantics Volume 1," John Lyons (1977) defines contrast as a broad term that does not specify the number of elements involved in contrasting sets He narrows the concept of opposition to binary contrasts, while antonymy is specifically limited to gradable opposites, exemplified by pairs like "big" and "small" or "high" and "low."

The term "antonymy," introduced in the 19th century, describes the phenomenon of oppositeness in meaning, contrasting with synonymy While antonymy is often viewed as the extreme opposite of identity in meaning, this perspective is misleading Most examples of antonymy found in dictionaries and semantics handbooks do not align with the notion of maximum difference in meaning.

John Lyons chủ yếu tập trung vào bản chất trái nghĩa và sự phân biệt giữa các loại trái nghĩa trong nghiên cứu ngôn ngữ, như opposites có thể so sánh (gradable opposites) và opposites không thể so sánh (ungradable opposites), cũng như các khái niệm như contradictory, contrary, antonymy và complementary Tác giả nhấn mạnh những đặc điểm riêng biệt của các loại trái nghĩa và cách chúng hoạt động khi xuất hiện đơn lẻ trong ngữ nghĩa học, mà chưa xem xét đến việc từ trái nghĩa xuất hiện theo cặp trong ngữ cảnh ngữ nghĩa của câu nói.

James R Hurford và Brendan Heasley (1983) trong tác phẩm "Semantics a coursebook" đã tổng hợp các đặc điểm cơ bản của từ trái nghĩa trong ngữ nghĩa học Các tác giả chỉ ra rằng, trong khi các nhà ngữ nghĩa học truyền thống xem antonymy là sự đối lập về ý nghĩa, các nhà ngữ nghĩa học hiện đại lại có cách tiếp cận sâu sắc hơn, phân loại cụ thể dựa trên nền tảng trái nghĩa truyền thống Họ cho rằng cách hiểu truyền thống chưa đầy đủ, vì thực tế cho thấy các từ có thể đối lập theo nhiều cách khác nhau, hoặc một số từ không hoàn toàn đối lập nhau.

James R Hurford and Brendan Heasley provide an overview of the characteristics of various types of antonyms without delving deeply into the traditional versus modern distinctions They identify four fundamental categories of antonyms in language: binary antonyms (e.g., true-false, dead-alive, married-unmarried), converses (e.g., parent-child, below-above, own-belong), gradable antonyms (e.g., tall-short, long-short, clever-stupid), and contradictory pairs For each category, the authors offer concise definitions and comparisons among the different types of antonyms.

Các tác giả phân loại trái nghĩa thành ba loại: trái nghĩa lưỡng cực, trái nghĩa nghịch đảo và trái nghĩa thang độ, liên quan đến quan hệ ngữ nghĩa giữa các vị ngữ trong cấu trúc câu Ngược lại, trái nghĩa mâu thuẫn lại thuộc về quan hệ ngữ nghĩa giữa các câu Theo James R Hurford và Brendan Heasley, một cấu trúc câu được coi là đối lập với một cấu trúc khác khi chúng phủ định lẫn nhau, nghĩa là khẳng định của câu này là phủ định của câu kia Ví dụ, câu "this beetle is alive" trái nghĩa mâu thuẫn với câu "this beetle is dead."

Các tác giả chỉ ra rằng A và B được coi là trái nghĩa mâu thuẫn khi chúng đồng nhất loại trừ nhau ở hai điểm: Thứ nhất, A (hoặc B) chứa một từ X trong khi B (hoặc A) chứa một từ Y tương ứng; thứ hai, X là từ trái nghĩa của Y hoặc X không tương thích với Y.

James R Hurford và Brendan Heasley nghiên cứu mối quan hệ giữa các cặp trái nghĩa trong ngữ cảnh câu, cho rằng sự đồng xuất hiện của chúng có thể biểu thị ý nghĩa mâu thuẫn Mặc dù nghiên cứu về nghĩa văn bản của các từ trái nghĩa đang manh nha, nhưng vẫn chưa rõ ràng Tại Việt Nam, các nhà Việt ngữ học chủ yếu tập trung vào việc miêu tả và phân loại các tiểu loại trái nghĩa trong tiếng Việt Nghiên cứu từ trái nghĩa ở Việt Nam bắt đầu từ những năm 60 của thế kỷ 20, với nhiều công trình đáng chú ý Đỗ Hữu Châu (1962) trong "Từ vựng- ngữ nghĩa tiếng Việt" đã giới hạn nghiên cứu trái nghĩa trong ngôn ngữ và nhấn mạnh tầm quan trọng của trường từ vựng trong việc xác lập mối quan hệ trái nghĩa, đồng thời thống kê và phân tích các cặp tính từ trái nghĩa.

Nguyễn Văn Tu (1968) trong tác phẩm "Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại" đã phân tích khái niệm từ trái nghĩa, nhấn mạnh rằng cặp từ trái nghĩa thường xuất hiện trong các ngữ cảnh cụ thể như câu, tục ngữ, ca dao và thành ngữ Ông cho rằng việc sử dụng từ trái nghĩa không chỉ phổ biến mà còn có thể tạo ra từ ghép, điều này cho thấy tính linh hoạt và sự phong phú của ngôn ngữ Việt Nam.

Nguyễn Thiện Giáp (1985) trong tác phẩm "Từ vựng học tiếng Việt" đã đưa ra định nghĩa và các đặc trưng của từ trái nghĩa tiếng Việt, bao gồm tính cân xứng, tính so sánh và tính thay thế Ông cũng xác định ba tiêu chí để nhận diện từ trái nghĩa dựa trên đặc trưng ngữ pháp, khả năng kết hợp và tính liên tưởng Bên cạnh đó, tác giả khẳng định mối quan hệ giữa trái nghĩa và các phạm trù ngữ nghĩa khác, đồng thời phân biệt giữa hai kiểu trái nghĩa: trái nghĩa từ vựng và trái nghĩa ngữ cảnh.

Nhóm tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (1990) trong

Mục đích nghiên cứu

Dựa trên các thành tựu nghiên cứu trước đây, bài viết này nhằm tìm hiểu và phân tích nghĩa văn bản của từ trái nghĩa khi xuất hiện theo cặp trong câu nói tiếng Việt Đề tài khảo sát các trường hợp thuộc tiểu loại từ trái nghĩa, từ đó rút ra kết quả nghiên cứu trên hai phương diện chính.

Bài viết này tập trung vào việc phân tích vị trí cú pháp của các cặp từ trái nghĩa trong ngữ cảnh cụ thể, từ đó tạo ra ý nghĩa cho văn bản Dựa trên sự tương xứng giữa các yếu tố trái nghĩa, chúng tôi trình bày những đặc trưng cơ bản khi các cặp từ này thực hiện chức năng cú pháp, đồng thời giải thích mối quan hệ giữa các tiểu loại trái nghĩa và cách chúng tương tác để hình thành nghĩa văn bản.

Đề tài này phân loại các cặp từ trái nghĩa theo nghĩa văn bản, tập trung vào các cặp từ có quan hệ chặt chẽ Khác với các nghiên cứu trước, chúng tôi hệ thống hóa các tiểu loại và tổng hợp ý nghĩa biểu hiện của cặp từ trái nghĩa, nhấn mạnh vai trò của chúng trong việc tạo lập nghĩa văn bản.

Đề tài "Nghĩa văn bản của các từ trái nghĩa khi đi thành cặp trong câu nói tiếng Việt" nhằm bổ sung và hoàn thiện các nghiên cứu trước đó về từ trái nghĩa tiếng Việt Đồng thời, nó cũng góp phần mang đến góc nhìn mới mẻ về đối tượng nghiên cứu, mở rộng phạm vi nghiên cứu để hiểu sâu hơn về sự phát triển của lĩnh vực này.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của bài viết này là các cặp từ trái nghĩa trong câu nói tiếng Việt Chúng tôi đã tham khảo Từ điển trái nghĩa tiếng Việt do nhóm tác giả Dương Kỳ Đức biên soạn.

Vũ Quang Hào, Nguyễn Văn Dựng (1999), để kiểm tra và thống kê các cặp từ trái nghĩa trong quá trình thu thập và khảo sát ngữ liệu

Bài viết này tập trung nghiên cứu vị trí và chức năng cú pháp, cũng như phân loại nghĩa văn bản của các cặp từ trái nghĩa trong 300 câu nói tiếng Việt Nguồn ngữ liệu khảo sát chủ yếu bao gồm ca dao, dân ca, tục ngữ, thành ngữ, thơ trung đại, thơ hiện đại, tác phẩm văn học và báo chí từ các nguồn cụ thể.

- Hồ Xuân Hương (1922), Bánh trôi nước, Thơ Nôm Hồ Xuân Hương, NXB

- Hồ Chí Minh (1941), Tức cảnh Pác Pó, Thơ Hồ Chí Minh, NXB Nghệ An

- Nguyễn Du, Lê Văn Hòe chú giải, hiệu đính, bình luận (1956), Truyện Kiều chú giải, NXB Ziên Hồng, Sài Gòn

- Y Phương (1980), Nói với con, Ngữ văn 9 tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam

- Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Hồ Nhƣ Sơn dịch (1983), Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm- Bạch Vân quốc ngữ thi tập, NXB Văn học Hà Nội

- Dương Kỳ Đức, Vũ Quang Hào, Nguyễn Văn Dựng (1999), Từ điển Trái nghĩa tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội

- Vũ Bằng (2000), Thương nhớ mười hai, NXB Văn hóa- Thông tin, Hà Nội

- Vũ Ngọc Phan (2005), Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, NXB Văn học,

- Nhiều tác giả (2010), Hai mươi bốn giờ một phút, Tuyển tập tạp văn trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn, NXB Tổng hợp, TPHCM, tr 1- 67

- Nguyễn Nhật Ánh (2012), Tôi là Bêtô, NXB Trẻ, TPHCM

- Lê Nguyễn Nhật Linh (2014), Nín đi con, NXB Văn hóa- Thông tin, Hà Nội

Ngoài ra, đề tài khảo sát một số bài viết trên trang báo điện tử, bao gồm:

- Một số bài viết chuyên mục Khoa học- Môi trường trên Báo điện tử Vnexpress, bài viết từ ngày 9/9/2017 đến 25/03/2018 < https://vnexpress.net/ tin-tuc/khoa-hoc/moi-truong>

- Một số bài viết chuyên mục Văn hóa trên Tạp chí điện tử Tia sáng, bài viết từ ngày 26/08/2017 đến 31/03/2018 < http://tiasang.com.vn/van-hoa>

Chúng tôi đã tiến hành khảo sát và phân loại ngữ liệu dựa trên hệ thống tiểu loại từ trái nghĩa trong tiếng Việt, và kết quả được trình bày trong phụ lục kèm theo.

Phương pháp nghiên cứu

Chúng tôi áp dụng các phương pháp phân tích, so sánh, thống kê và miêu tả trong nghiên cứu Phương pháp phân tích giúp khảo sát vị trí, chức năng cú pháp và nghĩa văn bản của các cặp từ trái nghĩa trong các đơn vị ngữ liệu cụ thể Phương pháp so sánh cho phép đối chiếu kết quả thống kê về chức vụ cú pháp và nghĩa văn bản của từng tiểu loại trái nghĩa, cũng như so sánh giữa các tiểu loại khác nhau Phương pháp thống kê được sử dụng để tổng hợp và đúc kết các bảng ngữ liệu, trong khi phương pháp miêu tả chỉ ra các đặc điểm của dữ liệu liên quan đến chức vụ cú pháp và nghĩa văn bản của từng tiểu loại trái nghĩa.

Chúng tôi thực hiện các thao tác tổng hợp và liệt kê ngữ liệu để so sánh kết quả giữa các đặc trưng của các tiểu loại trái nghĩa trong việc cấu thành nghĩa văn bản Đồng thời, chúng tôi cũng đối chiếu các kết quả nghiên cứu với những nghiên cứu trước đây để làm rõ hơn về chủ đề này.

Cấu trúc của khóa luận

Khóa luận này được chia thành 4 chương, bắt đầu với chương mở đầu nêu rõ lý do chọn đề tài, mục đích nghiên cứu, đối tượng và phương pháp thực hiện Chương 1 trình bày cơ sở lý luận về từ trái nghĩa trong tiếng Việt, bao gồm các định nghĩa và phân loại từ trái nghĩa theo cơ cấu nghĩa, đồng thời xây dựng khuynh hướng phân tích về đặc trưng cú pháp và ngữ nghĩa Chương 2 tập trung vào chức năng cú pháp của các cặp từ trái nghĩa trong câu, phân tích khả năng đảm nhận chức năng này Cuối cùng, chương 3 phân loại nghĩa văn bản theo hệ thống tiểu loại đã nêu, làm rõ đặc trưng ngữ nghĩa và vai trò của các cặp từ trái nghĩa trong việc tạo hàm ý cho câu thơ, câu văn.

CƠ SỞ LÝ LUẬN

Khái quát về từ trái nghĩa tiếng Việt

1.1.1.Định nghĩa từ trái nghĩa tiếng Việt

Việc nghiên cứu từ trái nghĩa bắt đầu xuất hiện từ những năm 60 Đỗ Hữu Châu

Năm 1962, công trình "Từ vựng- ngữ nghĩa tiếng Việt" đã đặt nền móng cho nghiên cứu hệ thống từ trái nghĩa trong tiếng Việt Từ đó đến nay, nhiều học giả đã đưa ra những quan niệm khác nhau về định nghĩa từ trái nghĩa, dựa trên các phương diện khác nhau.

1.1.1.1.Định nghĩa dựa trên ngữ nghĩa

Hầu hết các nhà nghiên cứu đồng ý rằng từ trái nghĩa là những từ có nghĩa đối lập với nhau Báo cáo này trình bày ba định nghĩa tiêu biểu về từ trái nghĩa từ các tác giả Đỗ Hữu Châu (1962), Nguyễn Văn Tu (1968) và Nguyễn Thị Hoài Nhân (2001).

Khuynh hướng này xác định từ trái nghĩa là những từ có nghĩa trái ngược, đối lập dựa trên một đặc điểm chung Mặc dù có bản chất đối lập, các học giả lại đưa ra những quan điểm khác nhau về nét chung giữa các cặp từ trái nghĩa, tùy thuộc vào góc nhìn nội quan và ngoại quan.

1.1.1.1.1 Theo góc nhìn nội quan

Đỗ Hữu Châu và Nguyễn Thị Hoài Nhân nhấn mạnh rằng "cái chung" của các từ trái nghĩa xuất phát từ bản chất nội tại của các nét nghĩa trong từ vựng Quan điểm này cho thấy sự liên kết giữa các nét nghĩa trong cấu trúc nghĩa của từ, đồng thời mối quan hệ này xác định vị trí nét nghĩa dẫn đến sự đối lập giữa các từ trái nghĩa trong tiếng Việt Đỗ Hữu Châu (1962) định nghĩa từ trái nghĩa là những từ đối lập về nghĩa và nhấn mạnh rằng chúng phải có một nét chung về nghĩa, liên quan đến yếu tố trường nghĩa trong định nghĩa từ trái nghĩa tiếng Việt.

Lớn, vĩ đại, đồ sộ,

To tát, lớn lao, khổng lồ

Kích thước khối lượng là một khái niệm chung, được phân chia thành hai cực đối lập, thể hiện sự đồng chất giữa các nghĩa nhỏ và lớn Cấu trúc ngữ nghĩa của các nhóm từ như nhỏ, tí, tí xíu và lớn, vĩ đại, đồ sộ cho thấy kích thước khối lượng là nét nghĩa khái quát, trong khi bé- nhỏ là nét nghĩa cụ thể, tạo nên sự khác biệt giữa các đơn vị từ vựng Hơn nữa, sự khác biệt giữa các cặp trái nghĩa phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể.

Nguyễn Thị Hoài Nhân (2001) định nghĩa hiện tượng trái nghĩa là sự đối lập của một trong những thành tố nghĩa của các từ có cùng bản chất Theo cách hiểu rộng hơn, hiện tượng từ trái nghĩa là sự đối lập giữa các nội dung có ý nghĩa của những từ thể hiện hai bản chất khác nhau, dựa trên nhiều đặc điểm ngữ nghĩa khác nhau.

Theo quan niệm của C Mark về sự đối lập, tác giả nhấn mạnh rằng sự đối lập giữa các từ trái nghĩa thuộc về nội bộ của một bản chất, khác với sự đối lập giữa hai bản chất khác nhau Tác giả phân tích ngôn ngữ như một chuỗi ký hiệu có ranh giới rõ rệt, tạo ra thang đo cho nhiều sự vật và khái niệm như nhiệt độ, màu sắc, thời gian và không gian.

Nguyễn Thị Hoài Nhân cụ thể hóa sự trái ngược và đối lập của các từ trái nghĩa dựa trên các nét nghĩa hay thành tố nghĩa cấu thành của từ, với điều kiện các từ trái nghĩa phải có cùng bản chất Chẳng hạn, ngày và đêm thể hiện sự đối lập về mặt thời gian sáng và tối, là hai biểu hiện khác nhau trong một chu kỳ thời gian.

Tác giả cho rằng sự đối lập giữa các từ trái nghĩa không chỉ dựa vào một thành tố nghĩa mà còn có thể phát sinh từ nhiều yếu tố ngữ nghĩa trong từng ngữ cảnh cụ thể Ngữ cảnh khác nhau có thể tạo ra các hình thức đối lập khác nhau, tùy thuộc vào tiêu chí xác lập Định nghĩa này phản ánh sự phát triển trong nghiên cứu ngôn ngữ khi xem xét đối tượng từ góc độ ngoại quan Tuy nhiên, sự đối lập của các từ trái nghĩa chủ yếu vẫn dựa trên tiền đề đối lập của các thành tố nghĩa.

Cả hai tác giả đồng thuận rằng sự đối lập giữa các từ trái nghĩa được xác lập dựa trên các nét nghĩa, cho thấy mối quan hệ giữa chúng Điều này thể hiện sự đối lập giữa các từ trong một trường nghĩa cụ thể, đồng thời làm nổi bật vị trí của nét nghĩa chủ chốt có khả năng hình thành cặp từ trái nghĩa.

1.1.1.1.2 Theo góc nhìn ngoại quan

Một số tác giả đã định nghĩa từ trái nghĩa từ góc nhìn ngoại quan, mở rộng phạm vi kiến giải các yếu tố quyết định sự đối lập và trái ngược của chúng Sự trái nghĩa không chỉ xuất phát từ nét nghĩa nội tại mà còn từ các yếu tố bên ngoài.

Nguyễn Văn Tu (1968): “Từ trái nghĩa là những từ có nghĩa trái ngƣợc nhau” [24;

Trong nghiên cứu, tác giả nhấn mạnh bản chất "trái ngược nhau" của các từ trái nghĩa, cho rằng chúng không chỉ biểu thị những hiện tượng đối lập về mặt khái niệm mà còn có những điểm chung nhất định Điều này cho thấy rằng trái nghĩa luôn dựa trên một tiêu chí nhất định; ví dụ, các từ như cao-thấp chỉ ra sự khác biệt về chiều cao, trong khi nóng-lạnh phản ánh sự khác biệt về nhiệt độ.

Tác giả cho rằng điểm chung giữa các từ trái nghĩa là sự tồn tại song song của những biểu hiện hay sự vật trái ngược trong một phạm trù hiện thực khách quan Nguyễn Văn Tu nhấn mạnh mối quan hệ giữa nghĩa của từ và các sự vật, hiện tượng mà từ phản ánh, chỉ ra sự tương quan gián tiếp giữa các từ trái nghĩa và các hiện tượng đối lập Sự xác lập đối lập này chịu ảnh hưởng từ tư duy con người đối với các phạm trù của thực tế khách quan.

Tóm lại, từ góc nhìn ngoại quan, các tác giả chủ yếu phân tích những tiền đề dẫn đến sự đối lập giữa các đơn vị từ vựng trong việc xác lập cặp từ trái nghĩa trong tiếng Việt Mối quan hệ giữa các yếu tố trái nghĩa được hình thành có liên quan gián tiếp đến các sự vật và hiện tượng khách quan.

Hầu hết các tác giả đều nhất trí về các đặc trưng cơ bản của từ trái nghĩa tiếng Việt, đồng thời đưa ra những định nghĩa giải thích nguồn gốc của sự đối lập và cơ sở thiết lập cái chung Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề liên quan đến mối quan hệ tương liên giữa các cặp từ trái nghĩa chưa được làm rõ.

Khái quát về nghĩa văn bản và hàm ý

1.2.1 Quan niệm về nghĩa văn bản

Dựa trên đặc trưng cơ bản của từ trái nghĩa, chúng tôi khảo sát và phân tích các trường hợp xuất hiện thành cặp trong câu nói tiếng Việt Sự đồng hiện của các yếu tố trong cặp từ trái nghĩa thường tạo ra một nghĩa văn bản rõ ràng.

Trong nghiên cứu này, chúng tôi định nghĩa nghĩa văn bản của cặp từ trái nghĩa là ý nghĩa phát sinh khi các từ này kết hợp với nhau, trong khi khi đứng độc lập, chúng không mang ý nghĩa đó Ý nghĩa này cần được suy luận để hiểu rõ, và chúng tôi gọi đây là hàm ý, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành hàm ý của câu văn hoặc câu thơ trong văn bản.

Trong văn bản, các cặp từ trái nghĩa không chỉ mang nghĩa đen mà còn chứa đựng nghĩa hàm ý Chúng tôi thực hiện phân tích và phân loại chúng dựa trên chức năng cú pháp và ý nghĩa, dựa trên dữ liệu thu thập được.

Trong ngôn ngữ học, khái niệm hàm ý (implicate) được liên kết chặt chẽ với Herbert Paul Grice vào những năm 60-70 của thế kỷ 20 Trong tác phẩm "Nghiên cứu logic và hội thoại" (1975), Grice đã tập trung vào việc làm rõ ranh giới và sự khác biệt giữa những gì được diễn đạt bằng lời nói và những gì được gợi ý, tức là những thông điệp ngầm mà người nghe cần phải suy luận để hiểu.

H.P Grice khái quát hàm ý là phần nghĩa hàm ẩn (nghĩa hàm ngôn) không đƣợc thể hiện trên bề mặt câu chữ của phát ngôn nhưng được suy ra từ nghĩa tường minh (nghĩa hiển ngôn) và hoàn cảnh giao tiếp Nhìn chung, hàm ý không đƣợc thể hiện trên bề mặt câu chữ của phát ngôn nhƣng đƣợc suy ra từ nghĩa hiển ngôn và hoàn cảnh giao tiếp thông qua thao tác suy ý

Hầu hết các tác giả trong lĩnh vực ngôn ngữ học đều dựa vào đặc trưng cơ bản của hàm ý để phát triển góc nhìn cá nhân Khái niệm hàm ý đã xuất hiện trong Việt ngữ học từ năm 1989, với nhiều tên gọi như hàm ý, hàm ngôn, và ẩn ý Một số tác giả tiêu biểu trong lĩnh vực này bao gồm Hoàng Phê (1989), Hồ Lê (1996), Nguyễn Đức Dân (1996), Cao Xuân Hạo (1998), Nguyễn Thiện Giáp (2000), và Đỗ Hữu Châu.

Trong nghiên cứu năm 2007, đã có nhiều định nghĩa khác nhau về hàm ý Chúng tôi thống nhất cách gọi hàm ý và phân loại các định nghĩa này thành ba khuynh hướng chính.

1.2.2.1.Định nghĩa dựa trên ý nghĩa biểu thị

Trong quá trình nghiên cứu, nhiều tác giả đã đưa ra định nghĩa về hàm ý dựa trên ý nghĩa biểu thị của nó Điều này đã tạo tiền đề cho sự phát triển nghiên cứu hàm ý trong tiếng Việt Nhìn chung, xu hướng này đã tổng quát hóa hình ảnh của hàm ý một cách toàn diện.

Hồ Lê (1995) trong tác phẩm "Quy luật ngôn ngữ" đã định nghĩa hàm ý là những ý nghĩa và tình thái ẩn chứa mà người phát ngôn truyền đạt qua lời nói, nằm ngoài nghĩa biểu hiện của câu Điều này bao gồm việc thể hiện những sở chỉ khác nhau so với những sở chỉ mà nghĩa hiển nhiên của phát ngôn diễn đạt.

Tác giả nhấn mạnh rằng đặc trưng hàm ý trong một phát ngôn thường liên quan đến những ý nghĩa và tình thái tiềm ẩn, phản ánh sự khác biệt trong sở thích và quan điểm của người phát ngôn.

So với các tác giả khác khởi điểm từ sự tiếp nhận thông tin của người nghe, Hồ

Lê cho rằng hàm ý là thuộc về người phát ngôn, được tạo ra nhằm truyền đạt thông tin một cách lịch sự, tế nhị hoặc giữ bí mật Hàm ý này nằm ngoài bề mặt ngôn từ và yêu cầu người nghe phải có khả năng mã hóa dựa trên nhiều yếu tố khác nhau Ngoài ra, Hồ Lê cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của phương diện tình thái, tức là mối quan tâm đến thái độ, cảm xúc và mối quan hệ xã hội giữa người nói và người nghe.

Nguyễn Đức Dân (1996) trong tác phẩm "Lôgíc và tiếng Việt" đã chỉ ra rằng bên cạnh hiển ngôn, câu còn chứa đựng thông tin không hiển hiện khác, được gọi là hàm ngôn Tác giả khái quát định nghĩa hàm ý trong mối tương quan với hiển ngôn và nhấn mạnh vai trò của các tiền đề logic trong việc đưa ra kết luận, nhằm đạt hiệu quả cao nhất khi tiếp nhận một mệnh đề có hàm ý.

Khuynh hướng tập trung vào ý nghĩa biểu thị đã chỉ ra đặc trưng hàm ý một cách khái quát, với sự chú ý đến tình thái và mối tương quan giữa hiển ngôn và hàm ý Nhiều tác giả đã phát triển định nghĩa này theo những góc nhìn cụ thể, làm rõ hơn đặc trưng của hàm ý và chỉ ra phương thức cấu thành hàm ý trong phát ngôn.

1.2.2.2.Định nghĩa dựa trên phương thức cấu thành

Các tác giả đã cụ thể hóa định nghĩa về hàm ý bằng cách phân tích phương thức cấu thành của nó, làm rõ cơ chế mã hóa thông tin gián tiếp trong giao tiếp Hàm ý được hình thành thông qua quá trình suy luận của tư duy, phản ánh sự tương tác giữa các nhân tố tham gia.

Suy luận là một khái niệm quan trọng trong Logic học, được định nghĩa là hình thức tư duy từ các tri thức đã có để rút ra tri thức mới Quá trình suy luận bao gồm hai thành tố chính: tiền đề và kết luận, trong đó tiền đề đóng vai trò là cơ sở để hình thành kết luận Tiền đề thường được coi là các kiến thức nền tảng, trong khi kết luận là những ý nghĩa tiềm ẩn mà người nghe có thể hiểu được thông qua tư duy Quá trình suy luận này chịu ảnh hưởng từ các yếu tố ngữ cảnh, quy tắc lập luận và điều kiện hội thoại.

X Phát ngôn hiển ngôn hàm ngôn Y Quá trình suy ý

Hàm ý Điều kiện hội thoại v.v

Tiểu kết

Trong chương 1, chúng tôi đã thiết lập cơ sở lý luận cho ba đối tượng chính: từ trái nghĩa, nghĩa văn bản và hàm ý Chúng tôi tiến hành tóm lược, phân tích và so sánh các định nghĩa liên quan đến những đối tượng này, nhằm đúc kết một định nghĩa phù hợp với mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài.

Từ trái nghĩa là những từ có nghĩa đối lập, không thể hiểu rõ nếu tách rời khỏi ngữ cảnh Nghĩa văn bản của cặp từ trái nghĩa chỉ tồn tại trong văn bản, và khi tách ra, nó sẽ mất đi ý nghĩa đó Hàm ý là ý nghĩa được truyền đạt một cách gián tiếp, cho phép người nghe suy ra một ý khác từ nội dung chính của văn bản.

Chúng tôi tiến hành phân tích chức năng cú pháp và nghiên cứu nghĩa văn bản của từ trái nghĩa khi kết hợp thành cặp trong câu tiếng Việt, dựa trên hệ thống cơ sở lý luận Nghiên cứu này bao gồm các tiểu loại từ trái nghĩa như trái nghĩa mức độ, trái nghĩa đối lập loại trừ và trái nghĩa phương hướng, vị trí Trong mỗi tiểu loại, chúng tôi phân tích vị trí, chức năng cú pháp và nghĩa văn bản, đồng thời trình bày kết quả khảo sát và nghiên cứu tương ứng trong chương 2 và chương 3.

CHỨC NĂNG CÚ PHÁP CỦA TỪ TRÁI NGHĨA

PHÂN LOẠI NGHĨA VĂN BẢN CỦA CẶP TỪ TRÁI NGHĨA

Ngày đăng: 06/10/2021, 23:42

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Cao Xuân Hạo (1991), Sơ thảo Ngữ pháp chức năng, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sơ thảo Ngữ pháp chức năng
Tác giả: Cao Xuân Hạo
Nhà XB: NXB Khoa học xã hội
Năm: 1991
2. Cao Xuân Hạo (1999), Tiếng Việt- mấy vấn đề về ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tiếng Việt- mấy vấn đề về ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa
Tác giả: Cao Xuân Hạo
Nhà XB: NXB Khoa học xã hội
Năm: 1999
3. Cao Xuân Hạo, Hoàng Dũng (2004), Từ điển Thuật ngữ Ngôn ngữ học Anh Việt Việt Anh, Bộ Giáo dục và đào tạo Đại học Sƣ phạm, TPHCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển Thuật ngữ Ngôn ngữ học Anh Việt Việt Anh
Tác giả: Cao Xuân Hạo, Hoàng Dũng
Năm: 2004
4. Dương Kỳ Đức (chủ biên), Vũ Quang Hào (1992), Từ điển Trái nghĩa- Đồng nghĩa tiếng Việt (dùng cho học sinh phổ thông các cấp), NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển Trái nghĩa- Đồng nghĩa tiếng Việt (dùng cho học sinh phổ thông các cấp)
Tác giả: Dương Kỳ Đức (chủ biên), Vũ Quang Hào
Nhà XB: NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp
Năm: 1992
5. Dương Kỳ Đức, Vũ Quang Hào, Nguyễn Văn Dựng (1999), Từ điển Trái nghĩa tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển Trái nghĩa tiếng Việt
Tác giả: Dương Kỳ Đức, Vũ Quang Hào, Nguyễn Văn Dựng
Nhà XB: NXB Khoa học xã hội
Năm: 1999
6. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Hồ Nhƣ Sơn dịch (1983), Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, NXB Văn học Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm
Tác giả: Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Hồ Nhƣ Sơn dịch
Nhà XB: NXB Văn học Hà Nội
Năm: 1983
7. Đỗ Hữu Châu (1962), Từ vựng- ngữ nghĩa tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ vựng- ngữ nghĩa tiếng Việt
Tác giả: Đỗ Hữu Châu
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 1962
8. Đỗ Hữu Châu (2007), Đại cương ngôn ngữ học, tập 2, NXB Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đại cương ngôn ngữ học, tập 2
Tác giả: Đỗ Hữu Châu
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 2007
9. Hoàng Dũng, Bùi Mạnh Hùng (2007), Giáo trình Dẫn luận Ngôn ngữ học, NXB Đại học Sƣ phạm, TPHCM, tr. 126- 127 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Dẫn luận Ngôn ngữ học
Tác giả: Hoàng Dũng, Bùi Mạnh Hùng
Nhà XB: NXB Đại học Sƣ phạm
Năm: 2007
10. Hoàng Phê chủ biên (1998), Từ điển tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển tiếng Việt
Tác giả: Hoàng Phê chủ biên
Nhà XB: NXB Khoa học xã hội
Năm: 1998
11. Hoàng Trọng Phiến (2008), Từ điển giải thích hư từ tiếng Việt, NXB Tri thức Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển giải thích hư từ tiếng Việt
Tác giả: Hoàng Trọng Phiến
Nhà XB: NXB Tri thức
Năm: 2008
12. Hoàng Văn Hành chủ biên (2002), Kể chuyện thành ngữ tục ngữ, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kể chuyện thành ngữ tục ngữ
Tác giả: Hoàng Văn Hành chủ biên
Nhà XB: NXB Khoa học xã hội
Năm: 2002
13. Lê Thị Thanh Bình (2006), Quan hệ trái nghĩa trong tiếng Việt, Luận văn Thạc sĩ Ngữ Văn, Trường Đại học Sư phạm, TPHCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quan hệ trái nghĩa trong tiếng Việt
Tác giả: Lê Thị Thanh Bình
Năm: 2006
15. Lê Vũ Hồng Thanh (2014), Hàm ý trong những câu danh ngôn, Khóa luận Tốt nghiệp chuyên ngành Ngôn ngữ học, Trường Đại học KHXH&amp;NV, TPHCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hàm ý trong những câu danh ngôn
Tác giả: Lê Vũ Hồng Thanh
Năm: 2014
16. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (1990), Cơ sở Ngôn ngữ học và tiếng Việt, NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cơ sở Ngôn ngữ học và tiếng Việt
Tác giả: Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến
Nhà XB: NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp
Năm: 1990
17. Nguyễn Công Đức, Nguyễn Hữu Chương (2004), Từ vựng tiếng Việt, NXB Đại học quốc gia, Trường Đại học KHXH&amp;NV, TPHCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ vựng tiếng Việt
Tác giả: Nguyễn Công Đức, Nguyễn Hữu Chương
Nhà XB: NXB Đại học quốc gia
Năm: 2004
18. Nguyễn Du, Lê Văn Hòe chú giải, hiệu đính, bình luận (1956), Truyện Kiều chú giải, NXB Ziên Hồng, Sài Gòn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Truyện Kiều chú giải
Tác giả: Nguyễn Du, Lê Văn Hòe chú giải, hiệu đính, bình luận
Nhà XB: NXB Ziên Hồng
Năm: 1956
19. Nguyễn Đức Dân (1996), Lôgíc và tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lôgíc và tiếng Việt
Tác giả: Nguyễn Đức Dân
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 1996
20. Nguyễn Thị Hoài Nhân (2001), Sử dụng từ trái nghĩa trong giao tiếp, Đại học Ngoại ngữ, ĐHQG, Hà Nội, tr. 404- 408 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sử dụng từ trái nghĩa trong giao tiếp
Tác giả: Nguyễn Thị Hoài Nhân
Năm: 2001
21. Nguyễn Thị Tú Anh (2012), Hàm ngôn trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học, Trường Đại học Sư phạm, TPHCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hàm ngôn trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Tác giả: Nguyễn Thị Tú Anh
Năm: 2012

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w