1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

LVTN 2018 khảo sát quá trình biến đổi của từ ngữ tiếng việt trong văn chương nam bộ giai đoạn cuối thế kỷ XIX 1932

180 8 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Khảo Sát Quá Trình Biến Đổi Của Từ Ngữ Tiếng Việt Trong Văn Chương Nam Bộ Giai Đoạn Cuối Thế Kỷ XIX- 1932
Tác giả Lê Thị Thùy Nga
Người hướng dẫn T.S. Huỳnh Bá Lân
Trường học Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Ngôn ngữ học
Thể loại khóa luận tốt nghiệp
Năm xuất bản 2018
Thành phố TP. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 180
Dung lượng 1,49 MB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (9)
  • 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (12)
    • 2.1. Đối tượng nghiên cứu (12)
    • 2.2. Phạm vi nghiên cứu (13)
  • 3. Lịch sử nghiên cứu (13)
  • 4. Phương pháp nghiên cứu (18)
  • 5. Đóng góp của luận văn (19)
  • 6. Cấu trúc khóa luận (19)
  • CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG (21)
    • 1.1. Một số vấn đề về tiểu thuyết và tiểu thuyết Nam Bộ (21)
      • 1.1.1. Khái niệm tiểu thuyết (21)
      • 1.1.2. Tiểu thuyết Nam Bộ (23)
      • 1.1.3. Khái niệm phương ngữ (26)
      • 1.1.4. Khái niệm Từ và Ngữ cố định (29)
      • 1.2.1. Khái niệm Từ (30)
      • 1.2.1. Khái niệm Ngữ cố định (34)
        • 1.2.1.1: Khái niệm (34)
        • 1.2.2.2. Đặc điểm về nghĩa của ngữ cố định (36)
        • 1.2.2.3. Phân loại ngữ cố định (37)
        • 1.2.2.4. Tiểu kết (39)
  • CHƯƠNG II: HOẠT ĐỘNG CỦA TỪ TRONG CÁC TÁC PHẨM TIỂU THUYẾT NAM BỘ CUỐI THỂ KỲ XIX ĐẾN NĂM 1932 (40)
    • 2.1. Phân tích nguồn ngữ liệu (41)
    • 2.2. Phân tích cách sử dụng từ vựng trong tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đến năm 1932 (43)
      • 2.1.1. Xu hướng sử dụng từ vựng trong tiểu thuyết Nam Bộ thế kỷ XIX đến năm 1932 (44)
        • 2.2.1.1. Hệ thống từ vựng cổ du nhập từ các vùng miền khác (44)
        • 2.2.1.2. Từ vựng được tạo ra nhờ đọc biến âm (56)
      • 2.2.2. Sự chuyển biến và xu hướng sử dụng của hệ thống từ vựng Nam Bộ (62)
        • 2.2.2.1: Sự chuyển biến (62)
        • 2.2.2.2. Xu hướng sử dụng trong văn chương (66)
    • 2.1. Tiểu kết (67)
    • CHƯƠNG 3: NGỮ CỐ ĐỊNH CỦA PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ TRONG CÁC TIỂU THUYẾT NAM BỘ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX . 62 3.1. Kết quả điều tra (20)
      • 3.2. Cách sử dụng thành ngữ trong các tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ (70)
        • 3.2.1.1. Thành ngữ gốc Hán (71)
        • 3.2.1.2. Thành ngữ thuần Việt (76)
        • 3.2.2. Thành ngữ toàn dân biến thể theo phương ngữ Nam Bộ (81)
          • 3.2.2.1. Biến thể về thứ tự các thành tố (82)
          • 3.2.2.2. Biến thể về số lượng thành tố (85)
          • 3.2.2.3. Biến thể về mặt từ vựng (87)
          • 3.2.2.4. Biến thể ngữ âm (89)
          • 3.2.2.5. Biến đổi cú pháp (92)
        • 3.2.3. Thành ngữ của riêng người dân Nam Bộ sáng tạo (96)
          • 3.2.3.1. Tạo thành ngữ mới theo motif THẤT a THẤT b; ĐỒNG a ĐỒNG b; NGHI a NGHI b (97)
          • 3.2.3.2. Tạo lập thành ngữ mới từ chữ Hán (98)
          • 3.2.3.3. Tạo lập thành ngữ mới từ thành ngữ toàn dân (99)
          • 3.2.3.4. Những cụm câu nói mộc mạc của người dân Nam Bộ (101)
      • 3.3. Ngôn ngữ sử dụng trong tiểu thuyết Nam Bộ (103)
      • 3.4. Tiểu kết (106)
  • KẾT LUẬN (108)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (110)
  • PHỤ LỤC (115)

Nội dung

Lịch sử nghiên cứu

Sự xuất hiện của tiểu thuyết chữ Quốc ngữ tại Nam Bộ đánh dấu sự khởi đầu của nền văn học hiện đại Việt Nam Trong đó, tiểu thuyết và Thơ mới nổi lên như những thể loại chủ chốt, mở đầu cho thời kỳ hoàng kim của văn học Những ý kiến đánh giá và nghiên cứu về giai đoạn đầu của tiểu thuyết Nam Bộ cho thấy những đóng góp quan trọng và đặc biệt của thể loại này trong sự phát triển của văn học Việt Nam.

Các nhà nghiên cứu hiện nay chủ yếu tập trung vào việc phân tích các tiểu thuyết Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, với những tác giả tiêu biểu như Hồ Biểu Chánh và Lê Hoằng Mưu.

Bên cạnh việc nghiên cứu các nhà văn Nam Bộ và tác phẩm tiêu biểu của họ, các học giả cũng chú trọng đến phương ngữ Nam Bộ Tuy nhiên, sự quan tâm chủ yếu chỉ tập trung vào phương ngữ trong đời sống hiện đại, mà chưa đề cập đến nhiều phương ngữ đã từng tồn tại trong lịch sử viết chữ nhưng nay đã biến mất hoặc không còn được sử dụng Những từ ngữ này hiện chỉ còn tồn tại trong sách báo cổ, đặc biệt là trong các tác phẩm tiểu thuyết.

Vấn đề nghiên cứu ngôn ngữ Nam Bộ trong văn chương ít được đề cập -Trên phương diện văn học

Nghiên cứu tiểu thuyết Nam Bộ chủ yếu tập trung vào các tác phẩm của tác giả Hồ Biểu Chánh, được xem là xu hướng chính trong lĩnh vực này.

Sau khi đất nước thống nhất, các nhà phê bình và nghiên cứu văn học đã chú trọng nhiều hơn đến nền văn học Nam Bộ, đánh dấu thời kỳ phát triển mạnh mẽ của các bài viết phê bình và nghiên cứu về các tác giả Nam Bộ Sự quan tâm này phản ánh đúng vị thế và những đóng góp quan trọng của văn học Nam Bộ trong quá trình đổi mới nền văn học Việt Nam.

Các nhà nghiên cứu hiện đang chú trọng vào việc sưu tầm và giới thiệu tư liệu, cũng như chân dung của các nhà văn.

Năm 1987 nhân dịp kỷ niệm 100 năm ra đời truyện Thầy Lazaro Phiền,

Nguyễn Văn Trung đã phát hành tuyển tập tài liệu "Những áng văn chương Quốc ngữ đầu tiên" dành cho học viên cao học, trong đó ông giới thiệu về các tượng đài văn học Nam Bộ như Nguyễn Chánh Nhương, Trương Duy Toản, Michel Tinh, Biến Ngũ Nhy, Lê Hoằng Mưu và Nguyễn Chánh Sắt.

Nhà nghiên cứu Bằng Giang đã có những đóng góp quan trọng cho hệ thống nghiên cứu về văn học Nam Bộ thông qua công trình "Văn học Quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865-1930" xuất bản năm 1992 Tác phẩm này không chỉ trở thành cẩm nang quý giá cho các nhà nghiên cứu muốn tìm hiểu về văn học Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đến 1932, mà còn cung cấp cái nhìn toàn cảnh về thời kỳ này với hơn 435 trang, giới thiệu các nhà văn tiêu biểu cùng hệ thống tác phẩm phong phú.

Tài liệu về các nhà văn Nam Bộ đã bị thất lạc trong nhiều năm, khiến việc sưu tầm trở nên khó khăn Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đang nỗ lực để cung cấp cái nhìn toàn cảnh về giai đoạn hoàng kim của văn học Nam Bộ, một phần quan trọng trong quá trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc Một trong những công trình tiêu biểu trong lĩnh vực này là "Văn học Nam Bộ từ đầu đến giữa thế kỷ XX".

(1900-1945) của Hoài Anh và Hồ Sĩ Hiệp, hay Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ

Công trình do Nguyễn Kim Anh chủ biên về văn học Nam Bộ vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX đã giải đáp nhiều thắc mắc của độc giả, như tiến trình phát triển của nền văn học này và nguyên nhân khiến nó thụt lùi sau thời kỳ hoàng kim Ngoài ra, tác phẩm còn đưa ra những nhận định quan trọng về vai trò của các nhà văn trong việc xây dựng và phát triển các thể loại văn học mới.

Nhiều luận văn và luận án đã được thực hiện nhằm khai thác các khía cạnh của văn học Nam Bộ Một trong những luận văn tiêu biểu gần đây là luận văn thạc sĩ ngữ văn của Lê Thị Thanh Thủy, được hoàn thành vào năm 2006.

Luận văn về ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh tập trung vào việc khai thác đặc điểm ngôn ngữ của các nhân vật, từ đó làm nổi bật phong cách tiểu thuyết của nhà văn này Nghiên cứu cũng phản ánh mối liên hệ giữa ngôn ngữ nhân vật và các giá trị văn hóa đặc trưng của vùng đất Nam Bộ Đặc biệt, luận án tiến sĩ của Phan Mạnh Hùng năm 2014 đã đưa ra một khía cạnh mới về nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1932, mở ra hướng nghiên cứu mới cho các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực này.

Phan Mạnh Hùng đã mang đến cho độc giả những cái nhìn mới mẻ về văn học Nam Bộ thông qua tác phẩm của mình Luận văn khẳng định vai trò quan trọng của văn học Nam Bộ, đặc biệt là tiểu thuyết, trong quá trình hiện đại hóa tiểu thuyết và văn học Việt Nam vào đầu thế kỷ XX.

Công trình nghiên cứu của Lê Thị Ngọc Hạnh về ca dao dân ca Nam Bộ, được xuất bản trước năm 1945, là một nguồn tư liệu quý giá cho các nhà nghiên cứu yêu thích văn hóa vùng đất này Luận văn cung cấp cái nhìn sâu sắc về ngôn ngữ và sắc thái địa phương thông qua những lời ru và câu hò đặc trưng, giúp người đọc hiểu rõ hơn về giá trị văn hóa của ca dao dân ca Nam Bộ.

Nó cũng cấp cho tôi cái nhìn cơ bản về văn hóa, phong tục, con người vùng đất Nam Bộ

Một vài công trình được kể đến ở trên đã giúp chúng ta hình dung được phần nào về lịch sử nghiên cứu tiểu thuyết Nam Bộ

-Trên phương diện ngôn ngữ

Hầu hết các đề tài liên quan đến mặt ngôn ngữ tại vùng đất miền Nam chủ yếu được đề cập và khai thác trên phương diện phương ngữ

Trần Thị Ngọc Lang nghiên cứu sự khác biệt về từ vựng ngữ nghĩa của phương ngữ Nam Bộ, tập trung vào các vấn đề như cách xưng hô, nhóm từ liên quan đến sông nước, và các yếu tố chỉ mức độ của tính từ trong luận văn “Những khác biệt về từ vựng- ngữ nghĩa giữa phương ngữ Nam Bộ và phương ngữ Bắc Bộ” (1993) Luận văn này đã khái quát những đặc điểm ngữ âm tiêu biểu của người dân Nam Bộ và phương thức tạo từ qua các phương pháp láy, chuyển nghĩa, cùng với những đặc điểm từ vựng ngữ nghĩa rõ nét Ngoài ra, Hoàng Thị Châu cũng đề cập đến các phương ngữ trên mọi miền đất nước trong tác phẩm “Tiếng Việt trên các miền đất nước”.

“Sự tiếp xúc giữa các phương ngữ ở Thành phố Hồ Chí Minh” (1986) và

“Phương ngữ Nam Bộ” (1995) của Trần Thị Ngọc Lang; “ Về hiện tượng láy trong phương ngữ mền Nam” của Trịnh Sâm năm 1986; …

Về nghiên cứu phương ngữ qua khảo sát các tác phẩm văn chương có Huỳnh Công Tín với một vài công trình: “Cảm nhận bản sắc Nam Bộ” (2006); “

Phương pháp nghiên cứu

Để làm rõ vấn đề nghiên cứu chúng tôi sử dụng các cách thức và phương pháp nghiên cứu sau:

Để đáp ứng yêu cầu của đề tài, chúng tôi đã tiến hành sưu tầm ngữ liệu từ các tiểu thuyết viết bằng chữ Quốc ngữ, tập trung vào giai đoạn cuối thế kỷ XIX đến đầu năm 1932 Nguồn tư liệu được thu thập chủ yếu từ Thư viện Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn và Thư viện Trung tâm ĐHQGTPHCM.

Sau khi thu thập đầy đủ ngữ liệu và tài liệu hữu ích cho đề tài, bước tiếp theo là thực hiện phân loại và sắp xếp chúng một cách khoa học Việc thống kê tần suất xuất hiện của các dữ liệu này sẽ giúp nghiên cứu trở nên rõ ràng và rành mạch hơn.

So sánh, phân tích và tổng hợp là phương pháp phổ biến trong quá trình hoàn thành khóa luận Chúng tôi đã thống kê và phân loại nguồn ngữ liệu, từ đó tiến hành phân tích, đối chiếu và so sánh để có cái nhìn tổng quát về vấn đề Qua đó, chúng tôi đạt được những đánh giá khách quan, hợp lý và khoa học nhất.

Phương pháp liên ngành trong nghiên cứu từ, ngữ Nam Bộ yêu cầu xem xét đồng thời lịch sử, văn hóa và xã hội của vùng đất này Sự hiểu biết về các yếu tố phi văn học và ngôn ngữ, đặc biệt là ảnh hưởng từ tầng lớp độc giả bình dân, là rất cần thiết để nắm bắt đúng bản chất của từ, ngữ Nam Bộ trong bối cảnh cụ thể.

Đóng góp của luận văn

Vấn đề nghiên cứu từ ngữ Nam Bộ không phải là điều mới mẻ, nhưng chúng tôi hy vọng đề tài này sẽ giúp làm sáng tỏ những nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành, phát triển và biến đổi của hệ thống từ ngữ trong vùng đất đã có hơn 300 năm lịch sử hình thành và phát triển.

Chúng tôi mong muốn bắt đầu lập bảng thống kê và đối chiếu một số từ cũng như ngữ cố định trong ngôn ngữ Nam Bộ.

Mặt khác, đề tài cũng góp phần vào việc bảo tồn, gìn giữ và phát triển vốn từ, ngữ phong phú thêm hệ thống từ, ngữ của dân tộc.

Cấu trúc khóa luận

Khóa luận gồm 176 trang, ngoài phần Mở đầu ………Kết luận………Tài liệu tham khảo… Phụ lục khóa luận chia làm 3 chương

Chương 1 của bài viết sẽ khám phá những vấn đề chung liên quan đến tiểu thuyết, đặc biệt là tiểu thuyết Nam Bộ Nội dung chương này bao gồm khái niệm về tiểu thuyết, các đặc điểm riêng biệt của tiểu thuyết Nam Bộ, cùng với những khái niệm cơ bản về từ và ngữ trong văn học.

Chương 2 tập trung vào hoạt động của từ vựng trong các tác phẩm tiểu thuyết Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1932, phản ánh thực trạng và sự biến đổi của từ vựng trong khu vực này Bên cạnh đó, chương cũng phân tích xu hướng sử dụng từ trong văn chương và đời sống hàng ngày của người dân Nam Bộ.

Chương 3 của bài viết tập trung vào việc phân tích ngữ cố định trong các tiểu thuyết Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1932 Chúng tôi nghiên cứu các thành ngữ được các nhà văn Nam Bộ sử dụng, từ đó nhận diện sự biến đổi và sáng tạo trong ngôn ngữ của họ Qua đó, những thành ngữ quen thuộc được biến đổi thành những đặc trưng riêng, phản ánh tính cách và thói quen ngôn ngữ đặc sắc của vùng đất Nam Bộ.

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

Một số vấn đề về tiểu thuyết và tiểu thuyết Nam Bộ

Tiểu thuyết, mặc dù là thể loại văn học khá mới ở Việt Nam, đã có sự phát triển mạnh mẽ tại nhiều quốc gia khác từ thế kỷ XIII, XIV Thời kỳ hoàng kim của tiểu thuyết phương Tây và thế giới diễn ra vào khoảng những năm 30 của thế kỷ XIX, với những tác phẩm kinh điển của Balzac và L Tolstoy Tại Việt Nam, tiểu thuyết bắt đầu được nhắc đến từ những năm 20 của thế kỷ XX, cho thấy rằng đây là một trong những thể loại văn học có tuổi đời ngắn ở nước ta.

Khái niệm tiểu thuyết không có sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu, cho dù là trên thế giới hay ở Việt Nam

Hêghen gọi tiểu thuyết là “Sử thi thị dân”, còn Belinski gọi tiểu thuyết là

Tiểu thuyết được coi là "sử thi của đời tư" vì nó tập trung vào việc miêu tả những tình cảm, dục vọng và biến cố trong đời sống riêng tư và nội tâm của con người Mặc dù có nhiều màu sắc khác nhau, tiểu thuyết chủ yếu hướng đến việc trần thuật cuộc sống bình thường, hằng ngày của cá nhân và xã hội trong quá trình hình thành và phát triển Nội dung tiểu thuyết thường xoay quanh đời sống của một hoặc vài cá nhân trong các mối quan hệ xã hội, với cốt truyện chặt chẽ, qua đó nhà văn thể hiện tư tưởng và tình cảm của mình thông qua hành động, số phận và suy nghĩ của các nhân vật Qua từng thời đại, tiểu thuyết giúp người đọc nhận thức được thế giới xung quanh và tính tất yếu của tự nhiên và xã hội qua ngòi bút tài hoa của các nhà văn.

Tiểu thuyết khám phá đa dạng các khía cạnh của cuộc sống như tình yêu, xã hội - chính trị, lịch sử và giả tưởng Sự phong phú về đề tài, dung lượng và cốt truyện tạo nên sự hấp dẫn cho thể loại văn học này.

Sự khác biệt giữa các tiểu thuyết và tác giả không nằm ở nội dung mà chính là phong cách Phong cách viết, hướng trần thuật, giọng điệu và cách khai thác chủ đề đã tạo nên dấu ấn riêng cho mỗi tác phẩm Cách mà nhà văn thể hiện tâm tư, nguyện vọng và triết lý của bản thân trong tác phẩm chính là yếu tố quyết định giúp tiểu thuyết tồn tại và ghi danh trong lòng độc giả qua thời gian.

Tiểu thuyết xuất hiện sớm nhất ở các quốc gia Châu Âu, nền văn học cổ đại

Tiểu thuyết đã có sự xuất hiện từ sớm với các tác phẩm như Truyện Tristan và Iseult, và thời kỳ Phục hưng đã thúc đẩy sự phát triển của thể loại này qua các tác giả như G.Boccaccio, L.Ariosto và W.Shakespeare Đặc biệt, Don Quijote của M.de Cervantes đánh dấu bước tiến vượt bậc trong tiểu thuyết Đến thế kỷ XX, tiểu thuyết trở nên đa dạng về đề tài và hình thức, trở thành thể loại được sáng tác nhiều nhất và thu hút đông đảo độc giả trên toàn thế giới Ngoài ra, tiểu thuyết còn là nguồn tài liệu quan trọng cho việc chuyển thể sang các thể loại khác như sân khấu, điện ảnh và truyền hình.

Tiểu thuyết ở Việt Nam đã trải qua những bước phát triển mạnh mẽ từ giai đoạn sơ khai đến nay, không ngừng tiến bộ và vận động theo hướng tích cực Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về tiểu thuyết qua các thời kỳ, khái niệm này vẫn chưa có sự đồng nhất Trong bối cảnh phong trào viết tiểu thuyết mới khởi phát, Phạm Quỳnh đã định nghĩa rằng tiểu thuyết là một truyện viết bằng văn xuôi nhằm tả tình tự con người và phong tục xã hội.

2 Dẫn theo Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội

16 những sự lạ, tích kỳ, đủ làm cho người đọc có hứng thú” [30,1] Do đó khái niệm tiểu thuyết nên hiểu một cách uyển chuyển, mềm dẻo

Tiểu thuyết Nam Bộ xuất hiện sớm ở miền Nam Việt Nam, được coi là cái nôi của tiểu thuyết và văn học hiện đại Việt Nam Trong khi đó, giai đoạn chín muồi của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc diễn ra dưới triều Minh Thanh với nhiều tác phẩm nổi tiếng như Tam quốc chí diễn nghĩa, Thủy hử truyện, Tây du ký, Kim Bình Mai, và Hồng lâu mộng Tiểu thuyết Việt Nam, đặc biệt ở Nam Bộ, phát triển mạnh mẽ trước khi chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết phương Tây, nhưng đã bị tác động sâu sắc bởi tiểu thuyết Trung Quốc, tạo nên mối quan hệ khăng khít giữa hai nền văn học.

Theo Nguyễn Khuê, văn xuôi chữ Quốc ngữ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ

XX phát triển qua các giai đoạn:

Một trong những công việc quan trọng là phiên âm truyện thơ Nôm và phiên dịch truyện văn xuôi chữ Hán Ví dụ điển hình bao gồm việc Janneaux phiên âm tác phẩm Lục Vân Tiên vào năm 1873 và Trương Vĩnh Ký phiên âm Kim Vân Kiều vào năm 1878.

Hai là phiên dịch tác phẩm văn học Trung quốc, ví dụ như cuốn Trung dung do Trương Vĩnh Ký dịch năm 1875, Đại học (1887) bên cạnh đó còn có

Huỳnh Tịnh Của với 112 truyện dịch,…

Ba là thể loại truyện thơ lục bát viết bằng chữ Quốc ngữ, kế thừa từ truyện thơ Nôm Một số tác phẩm tiêu biểu như "U tình lục" của Hồ Biểu Chánh, sáng tác năm 1909 và in năm 1913, cùng với "Vậy mới phải viết," viết năm 1913 và xuất bản năm 1918, là những ví dụ điển hình cho sự phát triển này, trong đó có tác phẩm phỏng tác từ văn chương Pháp.

Trong giai đoạn này, sự phát triển của văn xuôi chữ Quốc ngữ tại Nam Bộ không chỉ đáp ứng nhu cầu của độc giả mà còn khuyến khích các nhà văn yêu nước sáng tác tiểu thuyết và truyện văn xuôi Điều này đã tạo nền tảng vững chắc cho sự ra đời của tiểu thuyết Quốc ngữ ở miền Nam.

Tiểu thuyết ở Nam Bộ chủ yếu viết về con người và đời sống vùng đất Nam

Văn học Nam Bộ không chỉ có sự đóng góp của các nhà văn sinh ra và lớn lên tại đây, mà còn thu hút nhiều tác giả khác từ các vùng miền khác, những người đã để lại dấu ấn sâu sắc qua các tác phẩm viết về vùng đất này Đây là một đặc điểm nổi bật của văn học Nam Bộ trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX Một số nhà văn tiêu biểu đã góp phần quan trọng vào việc định hình và phát triển nền văn học Nam Bộ, trong đó có những tên tuổi đáng chú ý mà chúng ta không thể không nhắc đến.

Tiểu thuyết Nam Bộ được sáng tác bởi các nhà văn nổi bật như Nguyễn Trọng Quản, Trần Thiên Trung, Lê Hoằng Mưu, Biến Ngũ Nhi, Nguyễn Chánh Sắt và Tân Dân Tử, những người đã sinh ra và lớn lên tại vùng đất này.

Tiểu thuyết được viết bởi các tác giả có nguồn gốc từ nhiều vùng đất khác nhau, nhưng lại gắn bó với sông nước và làm việc tại Nam Bộ, tiêu biểu như Bửu Đình, Phạm Minh Kiên và Hồng Tiêu.

Tiểu thuyết xuất bản ở Nam Bộ chủ yếu do các nhà văn từ nơi khác gửi đến, những người này thường xuyên tham gia các hoạt động văn hóa, nghệ thuật và văn học trên báo chí, đặc biệt là tại Sài Gòn Các tác giả như Đạm Phương nữ sử và Huỳnh Thị Bảo Hòa đã được công chúng yêu thích văn học ở Nam Bộ biết đến.

Tiểu thuyết Nam Bộ, khởi đầu từ năm 1882, đã mở ra một chương mới cho nền văn học tại khu vực này và nhanh chóng nhận được sự đón nhận từ công chúng Mặc dù sau một thời gian phát triển rực rỡ, nền văn học Nam Bộ đã bị thụt lùi so với văn học Bắc Bộ, nhưng những đóng góp của nó vẫn xứng đáng được công nhận và nghiên cứu một cách nghiêm túc.

HOẠT ĐỘNG CỦA TỪ TRONG CÁC TÁC PHẨM TIỂU THUYẾT NAM BỘ CUỐI THỂ KỲ XIX ĐẾN NĂM 1932

Phân tích nguồn ngữ liệu

Để nghiên cứu sự biến đổi từ vựng trong ngôn ngữ Nam Bộ, chúng tôi đã khảo sát các tác phẩm của những nhà văn đương đại được độc giả yêu thích Những tác phẩm này không chỉ gây tiếng vang lớn trong cộng đồng bạn đọc mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội hiện nay.

Trên cơ sở xử lý tư liệu chúng tôi thu được bảng thống kê về các loại từ như sau:

Các loại mục từ Số lượng Tỉ lệ

Từ cổ từ các địa phương khác 98/248 39.5%

Từ biến âm âm chính 81/248 32.7%

Từ biến âm ở âm đầu 10/248 4%

Từ biến âm về thanh điệu 26/248 10.5%

Từ biến âm âm đầu âm cuối 33/248 13.3%

Trong 9 tiểu thuyết khảo sát, đã thu thập được 248 ngữ liệu từ, cho thấy sự khác biệt rõ rệt so với hệ thống từ vựng toàn quốc và từ vựng riêng của người Nam Bộ.

Kết quả thống kê cho thấy nhiều từ ngữ hiện nay không còn được sử dụng trong đời sống và văn học, với 39.5% trong số 98 từ khảo sát có nguồn gốc từ các vùng miền khác hoặc từ Hán Việt Những từ ngữ này trở nên xa lạ với người dân Nam Bộ và công chúng yêu văn học, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả tiếp nhận tác phẩm và sở thích đọc sách của độc giả hiện nay.

Biến âm và chệch âm chiếm 32.7% trong từ vựng của người dân Nam Bộ, cho thấy sự phong phú và đa dạng ngôn ngữ Nhiều từ có nhiều cách đọc khác nhau, nhưng các nhà văn thường không thống nhất trong việc sử dụng chúng trong cùng một tác phẩm.

Sự khác biệt về âm cuối và dấu câu trong các ngữ liệu thu thập được xuất phát từ thói quen "nói như viết" của người dân Nam Bộ Chúng tôi sẽ làm rõ vấn đề này trong các phần tiếp theo.

Số lượng các từ ngữ có âm cuối cũng như là dấu khác biệt so với hệ thống ngôn ngữ toàn dân chiếm số lượng lớn

Trong quá trình biên soạn tiểu thuyết từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1932, chúng tôi nhận thấy nhiều hiện tượng sai chính tả không thống nhất trong cách viết của cùng một tác giả Do đó, những sai sót này không được coi là hiện tượng từ vựng trong tác phẩm.

Sau đây chúng tôi sẽ đi vào miêu tả, phân tích chi tiết ở những loại mục từ này.

Phân tích cách sử dụng từ vựng trong tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đến năm 1932

Bộ cuối thế kỷ XIX đến năm 1932

Chữ Quốc ngữ đã phát triển mạnh mẽ ở Nam Bộ không phải ngẫu nhiên, mà do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan Những tiền đề kinh tế và xã hội tại Nam Kỳ đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự nở rộ của văn học chữ Quốc ngữ Một trong những yếu tố quan trọng là sự nỗ lực của các học giả trong việc đưa chữ Quốc ngữ đến gần hơn với cộng đồng Trương Vĩnh Ký nhấn mạnh trong cuốn sách giáo khoa của mình rằng "Chữ quốc ngữ phải trở thành chữ viết của đất nước" và kêu gọi phổ biến chữ Quốc ngữ bằng mọi phương tiện vì lợi ích và sự tiến hóa của xã hội.

Văn học là phương tiện phổ biến đầu tiên, đặc biệt tại Nam Bộ, nơi chữ Quốc ngữ giai đoạn đầu mang những đặc điểm khác biệt do ảnh hưởng từ nhiều nền văn hóa Điều này khiến cho giới trẻ ngày nay gặp khó khăn khi tiếp cận các tác phẩm của những tác giả như Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Chánh Sắt hay Lê Hoằng Mưu, vì nhiều từ cổ và từ ít được sử dụng hiện nay khiến họ cảm thấy xa lạ và khó hiểu.

14 Dẫn theo Phan Cự Đệ (1978), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (tập 2), NXB Đại học&Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội

2.1.1 Xu hướng sử dụng từ vựng trong tiểu thuyết Nam Bộ thế kỷ XIX đến năm 1932

2.2.1.1 Hệ thống từ vựng cổ du nhập từ các vùng miền khác

Hầu hết từ vựng được thu thập từ các tác phẩm văn chương cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX hiện nay đã trở nên hiếm hoi hoặc ít được sử dụng Những từ này chủ yếu đến từ các địa phương khác nhau trên cả nước, bao gồm từ vay mượn gốc Hán, tiếng Pháp, và ngôn ngữ của người Chăm Ngoài ra, còn có hệ thống từ vựng biến âm chính, bao gồm thanh điệu và âm cuối.

Nam Bộ, với hơn 300 năm hình thành và phát triển, đã trải qua nhiều biến đổi đáng kể về kinh tế, chính trị và ngôn ngữ Sự kiện chúa Nguyễn Hoàng vượt dãy Hoành Sơn đánh dấu sự khởi đầu cho thời kỳ Nam tiến, khi cư dân từ miền Bắc và miền Trung Việt Nam di cư vào đây Vùng đất này trở thành nơi hội tụ của nhiều tộc người và vùng miền trên cả nước Từ vựng của Nam Bộ cũng rất phong phú, chịu ảnh hưởng từ quá trình di cư, nhập cư và các yếu tố thổ nhưỡng, khí hậu, cũng như sự giao thoa văn hóa với cư dân bản địa.

Hệ thống từ vựng của người dân Nam Bộ chứa đựng nhiều từ cổ có nguồn gốc từ các vùng Bắc Bộ và Trung Bộ.

Trong nghiên cứu về 9 tác phẩm nổi bật của các nhà văn tiểu thuyết được công chúng yêu thích, chúng tôi đã ghi nhận 98 từ vựng không còn được sử dụng phổ biến trong đời sống hàng ngày của người dân Nam Bộ, trong đó một số từ đã hoàn toàn biến mất.

Hệ thống từ vựng ở Nam Bộ giai đoạn này là sự kết hợp phong phú giữa từ vựng miền Bắc, miền Trung, cùng với ảnh hưởng từ người Hoa, phương Tây và người Chăm Sự đa dạng này tạo nên một bức tranh ngôn ngữ đặc sắc, phản ánh sự giao thoa văn hóa trong khu vực.

38 a) Từ vựng xuất hiện theo quá trình di cư của người dân từ các địa phương khác

Vùng miền Nam Bộ có một kho từ vựng đa dạng và phong phú, hình thành từ sự giao thoa ngôn ngữ của nhiều vùng khác nhau trên cả nước Phương ngữ Nam Bộ không chỉ chứa đựng từ ngữ của ba miền Bắc, Trung, Nam mà còn bảo tồn những từ cổ của phương ngữ Bắc Bộ mà hiện nay ít được sử dụng, như "đặng" (để / được) và "nhái" (bắt chước / phỏng theo), vẫn được người dân miền Nam sử dụng trong giao tiếp hàng ngày.

Trong các tiểu thuyết cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, cũng như trong các tác phẩm văn học hiện đại của nhà văn Nam Bộ, từ vựng đặc trưng đã trở thành một phần không thể thiếu trong giao tiếp hàng ngày Những từ ngữ này không chỉ phản ánh văn hóa mà còn khẳng định bản sắc ngôn ngữ của con người nơi đây.

Em không mong đợi gì hơn khi thân phận mình như vậy Là một người phụ nữ, khi có chồng, em phải theo anh, cùng nhau hưởng thụ nếu may mắn, và chia sẻ khổ cực nếu gặp khó khăn Anh có thể lo cho bản thân, nhưng em không thể để anh gánh nặng một mình Em cũng mong muốn trọn vẹn nghĩa vợ chồng, vì vậy hãy xem em như một người phụ nữ bình thường, không phải là con nhà giàu có, để cùng nhau nỗ lực trong cuộc sống.

Ai làm được- Hồ Biếu Chánh

Vào tháng năm Annam, trong mùa gặt, Thân mắc chưng ở mướn, còn mụ Lựu ở nhà cùng Thị-Liến Vào một ngày, lúc trời vừa sáng, Thị-Liến đã chuyển bụng sinh ra một bé gái.

Trong tác phẩm "Hà Hương phong nguyệt truyện" của Lê Hoằng Mưu, không chỉ có từ vựng đặc trưng của vùng phương ngữ Bắc Bộ mà còn ghi nhận sự tồn tại của nhiều phương ngữ Trung Bộ trong hệ thống từ vựng của Nam Bộ Một số từ vựng tiêu biểu bao gồm: cổi (cởi), mần (làm), xối nước (giội nước), vô (vào), xê (tránh ra, dang ra), và một chặp (một lúc).

Khi thấy cha mình bỏ đi để tắm cho anh, Con Quyên vội vã chạy vào nhà Trần Văn Sửu đã gội đầu cho thằng Tý xong và sau đó anh ta lục tục đi vào trong.

Cha con nghĩa nặng- Hồ Biểu Chánh

Vốn từ vựng của vùng đất Nam Bộ chủ yếu được hình thành từ sự di cư, kết hợp nhiều nguồn từ vựng khác nhau từ các vùng miền như miền Trung và miền Bắc Điều này tạo nên sự đa dạng và phong phú trong ngôn ngữ của khu vực.

Bộ giàu có và rất phong phú

Hiện nay, người dân Nam Bộ vẫn sử dụng nhiều từ vựng truyền thống trong sinh hoạt hàng ngày Tuy nhiên, trong văn học hiện đại, việc chọn lọc từ vựng đã diễn ra để phù hợp hơn với đa dạng độc giả trên toàn quốc Điều này cho thấy sự phát triển và biến đổi của từ vựng cổ trong ngữ cảnh văn hóa hiện đại.

NGỮ CỐ ĐỊNH CỦA PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ TRONG CÁC TIỂU THUYẾT NAM BỘ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX 62 3.1 Kết quả điều tra

Các nhà văn Nam Bộ đã khéo léo sử dụng thành ngữ trong tác phẩm của họ, từ đó thể hiện sự biến đổi và sáng tạo trong ngôn ngữ Những thành ngữ quen thuộc đã được biến đổi, trở thành đặc trưng cho tính cách và thói quen ngôn ngữ của vùng đất Nam Bộ.

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1 Một số vấn đề về tiểu thuyết và tiểu thuyết Nam Bộ

Tiểu thuyết là một thể loại văn học tương đối mới mẻ ở Việt Nam, nhưng lại không xa lạ với các quốc gia có nền văn học phát triển Trên thế giới, tiểu thuyết đã bắt đầu hình thành từ thế kỷ XIII, XIV, và đạt đến thời kỳ phát triển mạnh mẽ vào khoảng những năm 30 của thế kỷ XIX với các tác phẩm kinh điển của Balzac, L Tolstoy, và nhiều tác giả khác Tại Việt Nam, tiểu thuyết đã được nhắc đến từ những năm 20 của thế kỷ XX, cho thấy đây là một trong những thể loại văn học có tuổi đời khá ngắn tại đất nước này.

Khái niệm tiểu thuyết không có sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu, cho dù là trên thế giới hay ở Việt Nam

Hêghen gọi tiểu thuyết là “Sử thi thị dân”, còn Belinski gọi tiểu thuyết là

Tiểu thuyết được coi là "sử thi của đời tư" vì nó miêu tả sâu sắc những cảm xúc, dục vọng và biến cố trong đời sống cá nhân và nội tâm con người Mặc dù mỗi tác phẩm có màu sắc riêng, nhưng chung quy lại, tiểu thuyết hướng đến việc trần thuật và mô tả cuộc sống bình thường hàng ngày của cá nhân và xã hội trong quá trình hình thành và phát triển Nội dung tiểu thuyết xoay quanh cuộc sống của một hoặc vài nhân vật trong các mối quan hệ xã hội, với cốt truyện chặt chẽ, qua đó tác giả gửi gắm tư tưởng và tình cảm của mình thông qua hành động, số phận và suy nghĩ của nhân vật Qua từng thời kỳ lịch sử, tiểu thuyết giúp người đọc nhận thức rõ hơn về thế giới xung quanh cũng như tính tất yếu của tự nhiên và xã hội, nhờ vào tài năng của các nhà văn.

Tiểu thuyết khám phá đa dạng các khía cạnh trong cuộc sống như tình yêu, xã hội-chính trị, lịch sử và giả tưởng Sự phong phú về đề tài, dung lượng và cốt truyện tạo nên những tác phẩm độc đáo và hấp dẫn.

Sự khác biệt giữa các tiểu thuyết và tác giả không chỉ nằm ở nội dung mà còn ở phong cách viết Phong cách này bao gồm hướng trần thuật, giọng điệu và cách khai thác chủ đề, thể hiện tâm tư, nguyện vọng và triết lý của nhà văn Chính những yếu tố này đã làm cho nhiều tiểu thuyết gia và tác phẩm của họ trở nên nổi bật và trường tồn với thời gian.

Tiểu thuyết xuất hiện sớm nhất ở các quốc gia Châu Âu, nền văn học cổ đại

Tiểu thuyết đã có những dấu ấn sớm như Truyện Tristan và Iseult, và thời Phục hưng đã tạo điều kiện cho sự phát triển của thể loại này, thể hiện qua các tác phẩm của G.Boccaccio, L.Ariosto và W.Shakespeare Tuy nhiên, sự phát triển vượt bậc của tiểu thuyết được thể hiện rõ nhất qua tác phẩm Don Quijote của M.de Cervantes Đến thế kỷ XX, tiểu thuyết phát triển đa dạng về đề tài, khía cạnh và hình thức, trở thành thể loại sáng tác phổ biến và thu hút đông đảo độc giả trên toàn thế giới Ngoài ra, tiểu thuyết còn là nguồn tài liệu quan trọng cho việc chuyển thể sang các thể loại khác như sân khấu, điện ảnh và truyền hình.

Tiểu thuyết Việt Nam đã trải qua sự phát triển mạnh mẽ từ thời kỳ sơ khai đến nay, không ngừng tiến bộ và phát triển theo hướng tích cực Có nhiều định nghĩa về tiểu thuyết tại Việt Nam qua các giai đoạn khác nhau, cho thấy sự không đồng nhất trong khái niệm này Khi phong trào viết tiểu thuyết mới bắt đầu, Phạm Quỳnh đã định nghĩa rằng tiểu thuyết là một tác phẩm viết bằng văn xuôi nhằm miêu tả tình cảm con người và phong tục xã hội.

2 Dẫn theo Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội

16 những sự lạ, tích kỳ, đủ làm cho người đọc có hứng thú” [30,1] Do đó khái niệm tiểu thuyết nên hiểu một cách uyển chuyển, mềm dẻo

Tiểu thuyết Nam Bộ xuất hiện sớm tại miền Nam Việt Nam, được coi là cái nôi của tiểu thuyết và văn học hiện đại Việt Nam Trong khi đó, giai đoạn phát triển cao nhất của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc diễn ra dưới triều Minh Thanh với nhiều tác phẩm nổi tiếng như Tam quốc chí diễn nghĩa, Thủy hử truyện, Tây du ký, Kim Bình Mai, và Hồng lâu mộng Văn học Việt Nam, đặc biệt là tiểu thuyết ở Nam Bộ, đã phát triển mạnh mẽ trước khi tiếp nhận ảnh hưởng từ tiểu thuyết phương Tây, nhưng vẫn chịu tác động sâu sắc từ tiểu thuyết Trung Quốc, tạo nên mối quan hệ khăng khít giữa hai nền văn học.

Theo Nguyễn Khuê, văn xuôi chữ Quốc ngữ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ

XX phát triển qua các giai đoạn:

Một trong những công việc quan trọng là phiên âm truyện thơ Nôm và phiên dịch truyện văn xuôi chữ Hán, điển hình như Janneaux đã phiên âm tác phẩm Lục Vân Tiên vào năm 1873, và Trương Vĩnh Ký đã phiên âm Kim Vân Kiều vào năm 1878.

Hai là phiên dịch tác phẩm văn học Trung quốc, ví dụ như cuốn Trung dung do Trương Vĩnh Ký dịch năm 1875, Đại học (1887) bên cạnh đó còn có

Huỳnh Tịnh Của với 112 truyện dịch,…

Ba là sáng tác truyện thơ lục bát bằng chữ Quốc ngữ, đại diện cho sự phát triển của truyện thơ Nôm Một ví dụ tiêu biểu là cuốn "U tình lục" của Hồ Biểu Chánh, được viết vào năm 1909 và in năm 1913 Bên cạnh đó, cuốn "Vậy mới phải viết", xuất bản năm 1918, là một tác phẩm phóng tác từ văn chương Pháp, thể hiện sự giao thoa văn hóa trong sáng tác văn học thời kỳ này.

Trong giai đoạn phát triển văn xuôi chữ Quốc ngữ ở Nam Bộ, nhu cầu và thị hiếu của độc giả được phục vụ một cách hiệu quả Đồng thời, điều này cũng khuyến khích các nhà văn yêu nước sáng tác tiểu thuyết và truyện văn xuôi Quốc ngữ, từ đó tạo nền tảng vững chắc cho sự ra đời của tiểu thuyết Quốc ngữ tại miền Nam.

Tiểu thuyết ở Nam Bộ chủ yếu viết về con người và đời sống vùng đất Nam

Không chỉ có các nhà văn Nam Bộ tham gia vào quá trình sáng tác, mà nhiều tác giả khác cũng đã ghi dấu ấn trong văn học khi viết về vùng đất này Điều này thể hiện sự phát triển mạnh mẽ của văn học Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX Một số nhà văn nổi bật đã góp phần định hình nền văn học Nam Bộ, đáng chú ý là những tên tuổi tiêu biểu trong giai đoạn này.

Tiểu thuyết Nam Bộ được sáng tác bởi những nhà văn nổi tiếng như Nguyễn Trọng Quản, Trần Thiên Trung, Lê Hoằng Mưu, Biến Ngũ Nhi, Nguyễn Chánh Sắt và Tân Dân Tử, những người đã gắn bó và trưởng thành tại vùng đất này.

Tiểu thuyết Nam Bộ được sáng tác bởi những nhà văn đến từ các vùng đất khác, như Bửu Đình, Phạm Minh Kiên, và Hồng Tiêu, những người đã có những đóng góp quan trọng cho văn học khu vực này.

Tiểu thuyết xuất bản tại Nam Bộ chủ yếu do các nhà văn từ nơi khác gửi đến, những người này tích cực tham gia vào các hoạt động văn hóa, nghệ thuật và văn học trên báo chí, đặc biệt là ở Sài Gòn Một số tên tuổi như Đạm Phương nữ sử và Huỳnh Thị Bảo Hòa đã được công chúng yêu thích văn học ở Nam Bộ biết đến.

Ngày đăng: 06/10/2021, 23:42

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Bằng Giang (1998), Văn học Quốc ngữ Nam Kì 1865-1930, NXB Trẻ, TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn học Quốc ngữ Nam Kì 1865-1930
Tác giả: Bằng Giang
Nhà XB: NXB Trẻ
Năm: 1998
2. Cao Xuân Mỹ (1999), Văn xuôi Nam Bộ nửa đầu thế kỷ 20- Tập 1, NXB Văn Nghệ TP.HCM & Trung tâm nghiên cứu Quốc học, TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn xuôi Nam Bộ nửa đầu thế kỷ 20- Tập 1
Tác giả: Cao Xuân Mỹ
Nhà XB: NXB Văn Nghệ TP.HCM & Trung tâm nghiên cứu Quốc học
Năm: 1999
3. Diệp Quang Ban (2005), Ngữ pháp tiếng Việt, NXB Giáo Dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ngữ pháp tiếng Việt
Tác giả: Diệp Quang Ban
Nhà XB: NXB Giáo Dục
Năm: 2005
4. Diệp Quang Ban- Hoàng Văn Thung( 1996), Ngữ pháp tiếng Việt tập 1, NXB Giáo Dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ngữ pháp tiếng Việt tập 1
Tác giả: Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung
Nhà XB: NXB Giáo Dục
Năm: 1996
5. Đái Xuân Ninh, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Quang, Vương Toàn (1984), Ngôn ngữ học- khuynh hướng, lĩnh vực, khái niệm, tập 2, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ngôn ngữ học- khuynh hướng, lĩnh vực, khái niệm, tập 2
Tác giả: Đái Xuân Ninh, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Quang, Vương Toàn
Nhà XB: NXB Khoa học xã hội
Năm: 1984
6. Đào Duy Anh (2001), Hán Việt từ điển, NXB Khoa học Xã Hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hán Việt từ điển
Tác giả: Đào Duy Anh
Nhà XB: NXB Khoa học Xã Hội
Năm: 2001
7. Đào Thị Dung (2004), Thành ngữ so sánh tiếng Việt và đặc trưng văn hóa, luận văn thạc sĩ, TPHCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thành ngữ so sánh tiếng Việt và đặc trưng văn hóa
Tác giả: Đào Thị Dung
Năm: 2004
8. Đỗ Hữu Châu (1981), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, NXB Giáo Dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt
Tác giả: Đỗ Hữu Châu
Nhà XB: NXB Giáo Dục
Năm: 1981
9. Đỗ Hữu Châu (2005), Các bình diện của từ và từ tiếng Việt, NXB Giáo Dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các bình diện của từ và từ tiếng Việt
Tác giả: Đỗ Hữu Châu
Nhà XB: NXB Giáo Dục
Năm: 2005
10. Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán (2003), Đại cương ngôn ngữ học, tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đại cương ngôn ngữ học
Tác giả: Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 2003
11. Đoàn Lê Giang (2011), Văn học Nam Bộ 1932-1945 – một cái nhìn toàn cảnh, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 12/2011 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn học Nam Bộ 1932-1945 – một cái nhìn toàn cảnh
Tác giả: Đoàn Lê Giang
Nhà XB: Tạp chí Nghiên cứu văn học
Năm: 2011
12. Hồ Biểu Chánh (2018), Chút phận linh đinh, NXB Hội nhà văn, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chút phận linh đinh
Tác giả: Hồ Biểu Chánh
Nhà XB: NXB Hội nhà văn
Năm: 2018
13. Hoàng Phê (1988), Từ điển tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển tiếng Việt
Tác giả: Hoàng Phê
Nhà XB: NXB Khoa học xã hội
Năm: 1988
14. Hoàng Quốc (2000), Một vài đặc điểm ngôn ngữ ngôn ngữ của thành ngữ gốc Hán trong tiếng Việt, luận văn thạc sĩ, TPHCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một vài đặc điểm ngôn ngữ ngôn ngữ của thành ngữ gốc Hán trong tiếng Việt
Tác giả: Hoàng Quốc
Năm: 2000
15. Hoàng Thị Châu (1989), Tiếng Việt trên các miền đất nước (Phương ngữ học), NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tiếng Việt trên các miền đất nước
Tác giả: Hoàng Thị Châu
Nhà XB: NXB Khoa Học Xã Hội
Năm: 1989
16. Hoàng Tuệ (1997), Nhìn lại thời tiếng Việt tiếp xúc với tiếng Pháp, tạp chí ngôn ngữ số 3, tr 13-16 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhìn lại thời tiếng Việt tiếp xúc với tiếng Pháp
Tác giả: Hoàng Tuệ
Năm: 1997
17. Huỳnh Công Tín (2007), Từ điển Từ ngữ Nam Bộ, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: ), Từ điển Từ ngữ Nam Bộ
Tác giả: Huỳnh Công Tín
Nhà XB: NXB Khoa học Xã hội
Năm: 2007
18. Khúc Thùy Liên (2011), Đặc điểm cấu tạo của từ tiếng Việt trong một số tác phẩm Nam Bộ giai đoạn cuối thế kỷ XIX- Luận văn thạc sĩ- TPHCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đặc điểm cấu tạo của từ tiếng Việt trong một số tác phẩm Nam Bộ giai đoạn cuối thế kỷ XIX
Tác giả: Khúc Thùy Liên
Năm: 2011
19. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: 150 thuật ngữ văn học
Tác giả: Lại Nguyên Ân
Nhà XB: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 2003
20. Mã Giang Lân (Chủ biên), 2000 - Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam 1900 -1930, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam 1900 -1930
Tác giả: Mã Giang Lân
Nhà XB: NXB Văn hóa thông tin
Năm: 2000

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Trên cơ sở xử lý tư liệu chúng tôi thu được bảng thống kê về các loại từ như sau:   - LVTN 2018   khảo sát quá trình biến đổi của từ ngữ tiếng việt trong văn chương nam bộ giai đoạn cuối thế kỷ XIX 1932
r ên cơ sở xử lý tư liệu chúng tôi thu được bảng thống kê về các loại từ như sau: (Trang 41)
BẢNG 1: BẢNG LIỆT KÊ - LVTN 2018   khảo sát quá trình biến đổi của từ ngữ tiếng việt trong văn chương nam bộ giai đoạn cuối thế kỷ XIX 1932
BẢNG 1 BẢNG LIỆT KÊ (Trang 115)
người chịu khổ hình cho - LVTN 2018   khảo sát quá trình biến đổi của từ ngữ tiếng việt trong văn chương nam bộ giai đoạn cuối thế kỷ XIX 1932
ng ười chịu khổ hình cho (Trang 168)
Bảng 2: Thành ngữ toàn dân - LVTN 2018   khảo sát quá trình biến đổi của từ ngữ tiếng việt trong văn chương nam bộ giai đoạn cuối thế kỷ XIX 1932
Bảng 2 Thành ngữ toàn dân (Trang 173)
Bảng 3: Thành ngữ là biến thể của thành ngữ toàn dân - LVTN 2018   khảo sát quá trình biến đổi của từ ngữ tiếng việt trong văn chương nam bộ giai đoạn cuối thế kỷ XIX 1932
Bảng 3 Thành ngữ là biến thể của thành ngữ toàn dân (Trang 175)
Bảng 4: Thành ngữ của người Nam Bộ - LVTN 2018   khảo sát quá trình biến đổi của từ ngữ tiếng việt trong văn chương nam bộ giai đoạn cuối thế kỷ XIX 1932
Bảng 4 Thành ngữ của người Nam Bộ (Trang 178)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w