1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Chuyển biến đời sống văn hóa tinh thần của người chơ ro ở đồng nai (1986 2016)

36 35 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 36
Dung lượng 1,04 MB

Cấu trúc

  • A. PHẦN MỞ ĐẦU (6)
    • 2. Lịch sử nghiên cứu đề tài (6)
    • 3. Mục tiêu nghiên cứu (8)
    • 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (0)
    • 5. Phương pháp nghiên cứu (8)
    • 6. Đóng góp của đề tài (9)
    • 7. Bố cục (9)
  • B. NỘI DUNG (11)
  • Chương 1: Khái quát về dân tộc Chơ Ro (11)
    • 1.1. Dân số và phân bố dân cư (9)
    • 1.2. Tộc danh và lịch sử tộc người (9)
      • 1.2.1. Tộc danh (12)
      • 1.2.2. Lịch sử tộc người (12)
    • 1.3. Kinh tế truyền thống ........................................ Error! Bookmark not defined. 1.4. Hình thái xã hội ................................................ Error! Bookmark not defined. 1.5. Tổ chức gia đình .............................................. Error! Bookmark not defined. Chương 2: Chuyển biến về tín ngưỡng tôn giáo của người Chơ Ro ở Đồng Nai . 11 2.1. Vũ trụ quan tôn giáo ............................................ Error! Bookmark not defined. 2.1.1. Tự nhiên quan ................................................ Error! Bookmark not defined. 2.2.2.Nhân sinh quan ............................................... Error! Bookmark not defined. 2.2.3. Tôn giáo (0)
    • 2.2. Các nghi lễ nông nghiệp (0)
      • 2.2.1. Lễ hội cúng thần lúa (0)
      • 2.2.2. Lễ hội cúng thần rừng (0)
  • Chương 3: Chuyển biến về văn học nghệ thuật của người Chơ Ro ở Đồng Nai (0)
    • 3.2. Loại hình chuyện kể (22)
    • 3.3. Nghệ thuật dân ca, múa, nhạc khí cụ (10)
      • 3.3.1 Loại hình dân ca (10)
      • 3.3.2. Nghệ thuật múa (10)
      • 3.3.3. Loại hình nhạc khí cụ (10)
    • 3.5. Nghệ thuật tạo hình, trang trí (25)
      • 3.5.1. Trên kiên trúc nhà ở (25)
      • 3.5.2 Trên thổ cẩm, vật dụng (25)
  • KẾT LUẬN (27)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (35)

Nội dung

PHẦN MỞ ĐẦU

Lịch sử nghiên cứu đề tài

1 Quyển sách “Đặc trưng văn hóa truyền thống 54 dân tộc Việt Nam” của GS.TS Hoàng Nam, NXB Khoa học Xã hội, 2013 đã giới thiệu một cách tóm tắt những nét văn hóa đặc trưng của dân tộc, từ tên gọi, nơi cư trú đến kinh tế, văn hóa vật thể, phi vật thể và văn hóa xã hội

2 Quyển sách “Việt Nam sắc màu văn hóa 54 dân tộc anh em” của Trần Quang Phúc (biên soạn), NXB Đồng Nai, 2013 nhằm cung cấp cái nhìn tổng quát những giá trị văn hóa của 54 dân tộc Việt Nam Đây là tập sách được biên soạn trên cơ sở tập hợp, chọn lọc từ các nguồn tư liệu khác nhau đã được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng

3 Công trình sách “Các tộc người ở Việt Nam” của Bùi Xuân Dính, NXB Thời đại, 2012 Đây là công trình Dân tộc học đầu tiên dựng lên bức tranh toàn cảnh về các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, công trình nghiên cứu này phản ánh một cách toàn diện về các tộc người ở nước ta Công trình đã bước đầu chỉ ra mối quan hệ tộc người trong lịch sử, được đặt trong bối cảnh của khu vực lịch sử Dân tộc học ở vùng Đông Nam Á Những cư liệu về nguồn gốc, di cư, dấu tích lịch sử trong văn hóa cung cấp cho người đọc những hiểu biết cơ bản Nghiên cứu đã góp phần xác định một số đặc trưng cơ bản về văn hóa các tộc người Những miêu thuật Dân tộc học của công trình về văn hóa vật chất, văn hóa xã hội, văn hóa tinh thần của mỗi tộc người đã góp phần phản ánh và lưu giữ những yếu tố cơ bản của tộc người đó Trong công trình nghiên cứu này, tập trung về phần văn hóa, vì vậy nghiên cứu đã xây dựng cơ sở quan trọng để so sánh về văn hóa ở mỗi tộc người và giữa các tộc người Công trình này đã phản ánh sự biến đổi và phát triển của các tộc người trong thời kỳ đương đại Ở mỗi tộc người trong công trình ngoài việc trình bày các vấn đề trong xã hội, các tác giả còn nêu lên sự biến đổi đang diễn ra, dưới tác động củ điều kiện mới và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước

Cuốn sách này tập hợp nhiều tác giả, khám phá các vấn đề cơ bản về các dân tộc ở tỉnh phía Nam Nó trình bày điều kiện tự nhiên, cư dân, ngôn ngữ, lịch sử và thành phần dân tộc, cùng với kinh tế, xã hội và văn hóa của từng dân tộc Đặc biệt, cuốn sách tập trung vào quá trình các dân tộc tham gia chống chủ nghĩa xã hội, phục vụ yêu cầu thực tiễn của đất nước, đặc biệt là ở các vùng dân tộc thiểu số Nội dung chủ yếu nói về các dân tộc ít người đã sinh sống lâu đời tại khu vực này, được coi là cộng đồng người bản địa.

4 Quyển sách “Văn hóa người Chơ Ro” của Huỳnh Văn Tới – Lâm Nhân – Phan Đình Dũng, NXB Văn hóa Thông tin, 2013 Quyển sách này nghiên cứu về văn hóa – văn nghệ dân gian của dân tộc Chơ Ro, góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa – văn nghệ mang đậm bản sắc dân tộc

5 Quyển sách “Tìm hiểu một số phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo các hơn về một vùng đất giàu đẹp – một địa bàn chiến lược quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng – an ninh của đất nước; đặc biệt là phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo của các dân tộc vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long Trong đó có nói đến dân tộc Chơ Ro về dân số, địa bàn cư trú và chuyển biến về kinh tế văn hóa

Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu về sự chuyển biến văn hóa tinh thần của người Chơ Ro ở Đồng Nai

- Chuyển biến về tín ngưỡng, tôn giáo của người Chơ Ro ở Đồng Nai (1986 –

- Chuyển biến về ngôn ngữ và các loại hình văn học nghệ thuật của người Chơ

Văn hóa truyền thống của người Chơ Ro mang đậm bản sắc riêng và đã tồn tại từ lâu đời Tuy nhiên, qua quá trình giao lưu và hội nhập, văn hóa này đã trải qua những biến đổi nhất định.

4 Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: chuyển biến đời sống văn hóa tinh thần của người Chơ

+ Thời gian: sự chuyển biến văn hóa trong giai đoạn từ năm 1986 đến 2016

Trong bài viết này tôi sử dụng những phương pháp chính sau đây:

Phương pháp định lượng sử dụng 30 phiếu khảo sát cho 30 hộ gia đình, cung cấp thông tin thống kê quan trọng cho chính quyền địa phương về cơ cấu dân số, bao gồm số lượng người già và trẻ em.

Phương pháp nghiên cứu định tính: điền dã, phỏng vấn sâu, quan sát tham dự Cuộc phỏng vấn sâu với 10 người

6 Đóng góp của đề tài Để hiểu rõ hơn về những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Chơ Ro, Nhiều giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của người Chơ Ro đang dần dần biến mất, không còn mang tính đặc trưng của tộc người

Nghiên cứu sự biến đổi văn hóa của người Chơ Ro tại Đồng Nai trong thời gian gần đây là rất quan trọng, nhằm tìm kiếm giải pháp hiệu quả để bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc này.

Chương 1: Khái quát về dân tộc Chơ Ro

1.1 Dân số và phân bố dân cư

1.2 Tộc danh và lịch sử tộc người

Chương 2: Chuyển biến về tín ngưỡng, tôn giáo của người Chơ Ro ở Đồng Nai

2.3.1 Lễ hội cúng thần lúa

2.3.1 Lễ hội cúng thần rừng

Chương 3: Chuyển biến về ngôn ngữ và các loại hình văn học nghệ thuật của người Chơ Ro ở Đồng Nai (1986 – 2016)

3.3 Nghệ thuật, dân ca, múa, nhạc khí cụ

3.3.3 Loại hình nhạc khí cụ

3.4 Nghệ thuật tạo hình, trang trí

3.4.2 Trên thổ cẩm, vật dụng

Phương pháp nghiên cứu

Trong bài viết này tôi sử dụng những phương pháp chính sau đây:

Phương pháp định lượng được thực hiện thông qua 30 phiếu khảo sát đối với 30 hộ gia đình, nhằm cung cấp thông tin thống kê quan trọng cho chính quyền địa phương về cơ cấu dân số, bao gồm số lượng người già và trẻ em trong cộng đồng.

Phương pháp nghiên cứu định tính: điền dã, phỏng vấn sâu, quan sát tham dự Cuộc phỏng vấn sâu với 10 người

Đóng góp của đề tài

Để hiểu rõ hơn về giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Chơ Ro, cần nhận diện rằng nhiều giá trị văn hóa tốt đẹp của họ đang dần biến mất, làm mất đi những đặc trưng vốn có của tộc người này.

Nghiên cứu sự biến đổi văn hóa của người Chơ Ro ở Đồng Nai hiện nay là cần thiết để xác định các giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc này.

Bố cục

Chương 1: Khái quát về dân tộc Chơ Ro

1.1 Dân số và phân bố dân cư

1.2 Tộc danh và lịch sử tộc người

Chương 2: Chuyển biến về tín ngưỡng, tôn giáo của người Chơ Ro ở Đồng Nai

2.3.1 Lễ hội cúng thần lúa

2.3.1 Lễ hội cúng thần rừng

Chương 3: Chuyển biến về ngôn ngữ và các loại hình văn học nghệ thuật của người Chơ Ro ở Đồng Nai (1986 – 2016)

3.3 Nghệ thuật, dân ca, múa, nhạc khí cụ

3.3.3 Loại hình nhạc khí cụ

3.4 Nghệ thuật tạo hình, trang trí

3.4.2 Trên thổ cẩm, vật dụng

NỘI DUNG

1.1 Dân số và phân bố dân cƣ

Theo thống kê năm 2019, dân số người Chơ Ro lên tới hơn 47 nghìn người, chủ yếu cư trú tại ba tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu và Bình Thuận Cụ thể, Đồng Nai có 15.145 người, Bà Rịa – Vũng Tàu có 8.793 người, và Bình Thuận chiếm 50% với 23.716 người Tại Đồng Nai, người Chơ Ro sinh sống tập trung ở các huyện như Long Khánh, Xuân Lộc, Định Quán, Vĩnh Cửu, Long Thành và Thống Nhất, với nhiều xã như Xuân Vinh, Xuân Bình, và Bình Lộc Ở thành phố Biên Hòa, số lượng người Chơ Ro cư trú còn ít, chủ yếu là thanh thiếu niên đi học hoặc làm việc tại các khu công nghiệp.

Người Chơ Ro sinh sống tại Bà Rịa – Vũng Tàu chủ yếu tập trung ở 7/8 đơn vị hành chính, với số lượng đông nhất ở huyện Châu Đức (4.764 người), tiếp theo là huyện Xuyên Mộc (2.131 người), huyện Tân Thành (1.433 người), huyện Đất Đỏ (853 người), thị xã Bà Rịa (596 người), huyện Long Điền (82 người) và thành phố Vũng Tàu (09 người).

Người Chơ Ro là một nhóm cư dân cổ xưa tại miền núi Nam Đông Dương, thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me Trước khi định cư ở các khu vực hiện nay, họ chủ yếu sống ở vùng đồi núi thấp phía Đông Nam tỉnh Đồng Nai Các nghiên cứu khảo cổ học cho thấy tộc người Chơ Ro, cùng với một số tộc người khác như Mạ và Xtiêng, là hậu duệ của cư dân cổ Môn Khơ Me, là những người bản địa lâu đời tại Đông Nam bộ Cuộc sống của họ có sự liên kết chặt chẽ để quản lý khu vực sinh sống rộng lớn của mình.

Khái quát về dân tộc Chơ Ro

Tộc danh và lịch sử tộc người

Chương 2: Chuyển biến về tín ngưỡng, tôn giáo của người Chơ Ro ở Đồng Nai

2.3.1 Lễ hội cúng thần lúa

2.3.1 Lễ hội cúng thần rừng

Chương 3: Chuyển biến về ngôn ngữ và các loại hình văn học nghệ thuật của người Chơ Ro ở Đồng Nai (1986 – 2016)

3.3 Nghệ thuật, dân ca, múa, nhạc khí cụ

3.3.3 Loại hình nhạc khí cụ

3.4 Nghệ thuật tạo hình, trang trí

3.4.2 Trên thổ cẩm, vật dụng

B NỘI DUNG CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ DÂN TỘC CHƠ RO

1.1 Dân số và phân bố dân cƣ

Theo thống kê năm 2019, dân số người Chơ Ro lên tới 47 nghìn người, chủ yếu cư trú tại ba tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu và Bình Thuận, với 15.145 người ở Đồng Nai, 8.793 người ở Bà Rịa – Vũng Tàu và 23.716 người ở Bình Thuận, chiếm 50% tổng dân số Chơ Ro Tại Đồng Nai, người Chơ Ro sinh sống tập trung tại các huyện Long Khánh, Xuân Lộc, Định Quán, Vĩnh Cửu, Long Thành và Thống Nhất, với nhiều xã như Xuân Vinh, Xuân Bình, và Bàu Trâm Thành phố Biên Hòa có một số ít người Chơ Ro, chủ yếu là thanh thiếu niên học sinh và công nhân tại các khu công nghiệp.

Người Chơ Ro tại Bà Rịa – Vũng Tàu sinh sống ở 7/8 đơn vị hành chính cấp huyện, thị, thành phố Huyện Châu Đức là nơi có đông đảo người Chơ Ro nhất với 4.764 người, tiếp theo là huyện Xuyên Mộc với 2.131 người, huyện Tân Thành có 1.433 người, huyện Đất Đỏ có 853 người, thị xã Bà Rịa với 596 người, huyện Long Điền có 82 người, và thành phố Vũng Tàu chỉ có 09 người.

Người Chơ Ro là một trong những nhóm cư dân cổ xưa tại miền núi Nam Đông Dương, thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me Trước khi định cư ở các vùng hiện tại, họ chủ yếu sống ở các khu vực đồi núi thấp phía Đông Nam tỉnh Đồng Nai Các nghiên cứu khảo cổ học và ngôn ngữ học cho thấy tộc người Chơ Ro, cùng với một số tộc như Mạ và Xtiêng, là hậu duệ của cư dân cổ Môn Khơ Me, và là những người bản địa lâu đời tại Đông Nam bộ Cuộc sống của họ có sự liên kết chặt chẽ, giúp quản lý và bảo vệ khu vực sinh sống rộng lớn của mình.

Người Chơ Ro tại Đồng Nai chủ yếu sinh sống ở năm huyện và thị xã, bao gồm Long Khánh (các xã Xuân Vinh, Xuân Bình), Xuân Lộc (xã Xuân Trường, Xuân Phú, Xuân Thọ), Định Quán (xã Túc Trưng), Vĩnh Cửu (xã Phú Lý) và Long Thành (xã Phước Thái) Hiện nay, cộng đồng người Chơ Ro ở Đồng Nai có khoảng 15.145 người, đứng thứ ba sau người Kinh và người Hoa.

1.2 Tộc danh và lịch sử tộc người

Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó người Chơ Ro được công nhận là một tộc người riêng biệt Các tiêu chí xác định thành phần dân tộc bao gồm cộng đồng ngôn ngữ, đặc điểm văn hóa và ý thức tự giác tộc người Với số lượng dân cư đứng thứ 32 trong 54 dân tộc, người Chơ Ro góp phần làm phong phú thêm bức tranh đa dạng văn hóa của Việt Nam.

Về đặc điểm ngôn ngữ, người Chơ Ro thuộc hệ ngôn ngữ Nam Á, nhóm Môn –

Ngôn ngữ Môn – Khmer bao gồm 21 dân tộc, trong đó có các dân tộc như Ba – na, Brâu, Bru – Vân Kiều, Chơ Ro, Co, Cơ – Ho, Cơ – Tu, Gié – Triêng, Hrê, Kháng, Khmer, Khơ Mú, Mạ, Mảng, M’Nông, Ơ – Đu, Rơ – Măm, Tà – Ôi, Xinh – Mun và Xơ – Đăng.

Ngôn ngữ Xtiêng được phân chia thành 5 tiểu nhóm, bao gồm Khmer, Khơ mú, Cơ tu, Ba na và Mnông Người Chơ ro thuộc tiểu nhóm Mnông, cùng với các dân tộc Mnông, Cơ – ho, Xtiêng và Mạ.

Dân tộc Chrau – Jro, với "Chrau" nghĩa là Người hay Nhóm người và "Jro" là danh từ riêng chỉ cộng đồng, còn được gọi bằng các tên gần giống như Chơ ro, Chrau, Jơ ro, Dơ ro, hoặc đơn giản là người Thượng Trong thời kỳ thực dân Pháp, họ bị gọi là người Mọi Từ sau năm 1975, tộc danh Chơ ro đã được sử dụng chính thức trong các tài liệu và sách báo.

Người Chơ Ro là một nhóm cư dân cổ xưa sinh sống ở miền núi Nam Đông Dương, thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khmer Tiếng Chơ Ro có sự tương đồng với tiếng của các dân tộc Mạ, Cơ Ho, Xtiêng, và Co, nhưng có nhiều từ vựng Khơ me Trước khi định cư tại các khu vực hiện tại, người Chơ Ro chủ yếu sinh sống ở vùng đồi núi thấp phía Đông Nam tỉnh Đồng Nai và một phần tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Tộc người Chơ Ro, cùng với các tộc người Mạ và Xtiêng, là hậu duệ của cư dân cổ Môn – Khmer, và là những người bản địa sinh sống lâu đời tại Đông Nam Bộ Cuộc sống của họ có sự liên kết chặt chẽ, giúp quản lý hiệu quả khu vực sinh sống rộng lớn của mình.

Người Chơ Ro đã trải qua nhiều biến động lớn trong lịch sử, khiến họ phải di cư liên tục do khu vực cư trú thường xuyên bị tranh chấp Cuộc sống không ổn định cùng với điều kiện sống khó khăn trong môi trường ẩm ướt đã dẫn đến sự suy giảm dân số đáng kể Từ khi thực dân Pháp xâm lược và lập các đồn điền cao su, người Chơ Ro buộc phải di chuyển vào những vùng núi sâu, hạn chế giao lưu văn hóa với các tộc người khác Kinh tế của họ phụ thuộc nhiều vào nguồn lợi tự nhiên, trong khi điều kiện lao động vất vả, dịch bệnh và thú dữ luôn đe dọa sự tồn tại của cộng đồng.

Từ năm 1954 đến 1975, người Chơ Ro ở các khu vực như Định Quán, Xuân Lộc, Long Khánh phải sống trong ấp chiến lược dưới sự kiểm soát nghiêm ngặt của chính quyền Sài Gòn Thanh niên Chơ Ro trở thành nguồn lao động chính trong gia đình, bị bắt lính và tham gia tải đạn, lương thực Sự thu hẹp địa bàn cư trú đã làm cho cuộc sống của họ trở nên khó khăn hơn, dẫn đến sự suy giảm dân số đáng kể trong giai đoạn này Những làng Chơ Ro không bị dồn vào ấp chiến lược đã tham gia phong trào kháng chiến, rút vào rừng sâu để bảo vệ cuộc sống và văn hóa của mình.

Sau năm 1975, người Chơ Ro được chú trọng trong chính sách phát triển của chính quyền cách mạng Đặc biệt, vào những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, một số làng cư trú mới của người Chơ Ro đã được thành lập nhằm thực hiện chính sách định canh, định cư.

So với phân bố truyền thống, địa bàn cư trú của người Chơ Ro đã có sự thay đổi đáng kể Các làng Chơ Ro đã di chuyển nhiều lần và trải qua nhiều biến động xã hội Hiện nay, người Chơ Ro không còn sống biệt lập mà đã hòa nhập với nhiều dân tộc khác, chủ yếu là người Việt.

Người Chơ Ro, mặc dù đã trải qua nhiều thăng trầm trong lịch sử, vẫn duy trì sức sống mạnh mẽ của tộc người và liên tục sáng tạo ra các giá trị văn hóa vật thể cũng như phi vật thể.

Chuyển biến về văn học nghệ thuật của người Chơ Ro ở Đồng Nai

Nghệ thuật dân ca, múa, nhạc khí cụ

3.3.3 Loại hình nhạc khí cụ

3.4 Nghệ thuật tạo hình, trang trí

3.4.2 Trên thổ cẩm, vật dụng

B NỘI DUNG CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ DÂN TỘC CHƠ RO

1.1 Dân số và phân bố dân cƣ

Theo thống kê năm 2019, cộng đồng Chơ Ro có hơn 47 nghìn người, chủ yếu sinh sống tại Tây Nam và Đông Nam tỉnh Đồng Nai (15.145 người), Bà Rịa – Vũng Tàu (8.793 người) và Bình Thuận (23.716 người), chiếm 50% dân số Chơ Ro Tại Đồng Nai, người Chơ Ro cư trú chủ yếu tại các huyện Long Khánh (các xã Xuân Vinh, Xuân Bình, Bàu Trâm, Hàng Gòn), Xuân Lộc (Xuân Trường, Xuân Phú, Xuân Thọ), Định Quán (Túc Trưng), Vĩnh Cửu (Phú Lý), Long Thành (Phước Bình) và Thống Nhất (Bình Lộc, Xuân Thiện) Tại thành phố Biên Hòa, số lượng người Chơ Ro hiện nay chủ yếu là thanh thiếu niên, tập trung vào việc học tập hoặc làm việc tại các khu công nghiệp.

Người Chơ Ro sinh sống tại 7/8 đơn vị hành chính của Bà Rịa – Vũng Tàu, với số lượng đông đảo nhất ở huyện Châu Đức (4.764 người), tiếp theo là huyện Xuyên Mộc (2.131 người), huyện Tân Thành (1.433 người), huyện Đất Đỏ (853 người), thị xã Bà Rịa (596 người), huyện Long Điền (82 người) và thành phố Vũng Tàu (09 người).

Người Chơ Ro là một trong những cư dân cổ xưa tại miền núi Nam Đông Dương, thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me Trước khi định cư ở các khu vực hiện nay, họ chủ yếu sống ở vùng đồi núi thấp phía Đông Nam tỉnh Đồng Nai Các nghiên cứu khảo cổ học tại Đông Nam Bộ cho thấy tộc người Chơ Ro, cùng với một số tộc người khác như Mạ và Xtiêng, là hậu duệ của cư dân cổ Môn Khơ Me và là những người bản địa lâu đời ở khu vực này Cuộc sống của họ có sự liên kết chặt chẽ, giúp quản lý hiệu quả khu vực sinh sống rộng lớn của mình.

Người Chơ Ro tại Đồng Nai chủ yếu sinh sống ở năm huyện và thị xã, bao gồm Long Khánh (đặc biệt là các xã Xuân Vinh, Xuân Bình), Xuân Lộc (xã Xuân Trường, xã Xuân Phú, xã Xuân Thọ), Định Quán (xã Túc Trưng), Vĩnh Cửu (xã Phú Lý) và Long Thành (xã Phước Thái) Với dân số khoảng 15.145 người, người Chơ Ro đứng thứ ba về số lượng dân tộc tại đây, sau người Kinh và người Hoa.

1.2 Tộc danh và lịch sử tộc người

Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó người Chơ Ro được công nhận là một tộc người riêng biệt, xếp thứ 32 về số lượng dân cư Các tiêu chí xác định thành phần dân tộc bao gồm cộng đồng ngôn ngữ, đặc điểm văn hóa và ý thức tự giác tộc người.

Về đặc điểm ngôn ngữ, người Chơ Ro thuộc hệ ngôn ngữ Nam Á, nhóm Môn –

Nhóm ngôn ngữ Môn – Khmer bao gồm 21 dân tộc, trong đó có các dân tộc như Ba – na, Brâu, Bru – Vân kiều, Chơ ro, Co, Cơ – ho, Cơ – tu, Gié – triêng, Hrê, Kháng, Khmer, Khơ mú, Mạ, Mảng, M’Nông, Ơ – đu, Rơ – măm, Tà – ôi, Xinh – mun và Xơ – đăng.

Ngôn ngữ Xtiêng được phân chia thành 5 tiểu nhóm, bao gồm Khmer, Khơ mú, Cơ tu, Ba na và Mnông Trong tiểu nhóm Mnông, người Chơ ro được xếp cùng với các dân tộc khác như Mnông, Cơ – ho và Xtiêng, Mạ.

Dân tộc tự gọi mình là Chrau – Jro, trong đó "Chrau" có nghĩa là người hay nhóm người, còn "Jro" là danh từ riêng chỉ cộng đồng của họ Họ còn được biết đến với các tên gọi tương tự như Chơ ro, Jơ ro, Dơ ro, hoặc bằng thuật ngữ phiếm chỉ là người Thượng Trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, họ thường bị gọi là người Mọi Từ năm 1975 trở đi, tộc danh Chơ ro đã được sử dụng chính thức trong các tài liệu và sách báo.

Người Chơ Ro là một nhóm cư dân lâu đời sống tại miền núi Nam Đông Dương, thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khmer Tiếng Chơ Ro có nhiều điểm tương đồng với tiếng của các dân tộc Mạ, Cơ Ho, Xtiêng, và Co, nhưng cũng chứa nhiều từ vựng Khơ me Trước khi định cư ở các khu vực hiện tại, người Chơ Ro chủ yếu sinh sống ở vùng đồi núi thấp phía Đông Nam tỉnh Đồng Nai và một phần tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Tộc người Chơ Ro, cùng với các tộc người Mạ và Xtiêng, là hậu duệ của cư dân cổ Môn – Khmer, và họ là những người bản địa lâu đời tại Đông Nam Bộ Cuộc sống của các tộc người này gắn bó chặt chẽ, tạo thành một hệ thống quản lý hiệu quả cho khu vực sinh sống rộng lớn của họ.

Người Chơ Ro đã trải qua nhiều biến động lớn, buộc phải di cư liên tục do khu vực cư trú thường xuyên xảy ra tranh chấp với các tộc người láng giềng, dẫn đến cuộc sống không ổn định Sống trong môi trường rừng núi ẩm ướt, thiếu thốn phương tiện y tế và phương pháp chữa bệnh lạc hậu đã làm giảm đáng kể dân số của họ Từ khi thực dân Pháp xâm lược và lập các đồn điền cao su, người Chơ Ro phải di chuyển vào những vùng núi sâu, tách biệt khỏi giao lưu văn hóa với các tộc khác Đời sống kinh tế của họ phụ thuộc nhiều vào nguồn lợi tự nhiên, trong khi điều kiện lao động khó khăn và sự đe dọa từ dịch bệnh, thú dữ luôn rình rập, khiến sự tồn tại của cộng đồng trở nên mong manh.

Từ năm 1954 đến 1975, người Chơ Ro ở các khu vực như Định Quán, Xuân Lộc, Long Khánh bị dồn vào ấp chiến lược dưới sự kiểm soát của chính quyền Sài Gòn, dẫn đến việc thanh niên Chơ Ro trở thành nguồn lao động chính cho quân đội, phải tham gia vào việc tải đạn và lương thực Sự thu hẹp địa bàn cư trú đã khiến cuộc sống của họ trở nên khó khăn và dân số giảm sút đáng kể Những làng không bị dồn vào ấp chiến lược đã tham gia phong trào kháng chiến, tìm về rừng sâu để bảo vệ bản thân và quê hương.

Sau năm 1975, người Chơ Ro được chú trọng trong chính sách ổn định và phát triển của chính quyền cách mạng Đặc biệt, vào những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, một số làng cư trú mới của người Chơ Ro đã được thành lập nhằm thực hiện chính sách định canh, định cư.

So với phân bố truyền thống, địa bàn cư trú của người Chơ Ro đã trải qua nhiều thay đổi lớn Các làng Chơ Ro đã di chuyển nhiều lần, chịu ảnh hưởng từ các biến động xã hội Hiện nay, người Chơ Ro không còn sống biệt lập mà đã hòa nhập với nhiều dân tộc khác, chủ yếu là người Việt.

Người Chơ Ro, dù trải qua nhiều thăng trầm lịch sử, vẫn duy trì sức sống mạnh mẽ của tộc người và tiếp tục sáng tạo những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể độc đáo.

Nghệ thuật tạo hình, trang trí

Nghệ thuật tạo hình của người Chơ Ro đã có những thay đổi đáng kể trong kiến trúc nhà sàn hiện nay Theo tài liệu nghiên cứu, nhà sàn từng là kiến trúc chung của cộng đồng và dòng tộc, với hình thức chữ nhật và mái gập Tuy nhiên, kiến trúc nhà sàn hiện tại đã tiếp thu nhiều yếu tố mới, phản ánh sự ảnh hưởng từ lối kiến trúc của người Kinh do những biến động lịch sử và xã hội trong quá trình chung sống.

Ngôi nhà của già làng người Chơ Ro ở ấp Lý Lịch, xã Phú Lý, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai, được xây dựng sau năm 1975, là mẫu hình nhà sàn truyền thống của làng Chơ Ro Mặc dù sử dụng một số nguyên vật liệu hiện đại như ngói lớp, nhưng cấu trúc chính của ngôi nhà vẫn được làm bằng gỗ và có hình dạng chữ nhật.

3.5.2 Trên thổ cẩm, vật dụng

Sản phẩm thổ cẩm của người Chơ Ro, như váy, mền, khố, túi, thường mang những mô típ hoa văn đặc trưng, bao gồm hình người, chày cối, con bướm và các hình học liên kết Hình người biểu trưng cho sức mạnh và quyền lực, trong khi con mắt thể hiện sự sáng suốt và khả năng chiêm ngưỡng vẻ đẹp tự nhiên Con bướm là biểu tượng cầu nguyện đến thần linh, và cái cối phản ánh đức tính siêng năng của phụ nữ Cây đèn tượng trưng cho niềm vui trong các lễ hội Mỗi hoa văn đều mang ý nghĩa riêng, phản ánh quan niệm của người Chơ Ro về thế giới tự nhiên và xã hội.

Khảo sát cho thấy, người Chơ Ro hiện không còn dệt thổ cẩm mà chỉ mua sản phẩm từ người Mạ, mặc dù thổ cẩm được đặt hàng có đặc trưng theo yêu cầu của người Chơ Ro Điều này cho thấy sự sáng tạo trong ý tưởng trang trí thổ cẩm thuộc về người Chơ Ro, trong khi việc thể hiện trên trang phục lại là của người Mạ Người Mạ có nghề dệt thổ cẩm lâu đời và vẫn còn nhiều hộ duy trì nghề thủ công truyền thống này.

Trang phục thổ cẩm của người Chơ Ro hiện nay ít được sử dụng trong cộng đồng, với xu hướng chuyển sang các loại trang phục đa dạng và tiện lợi hơn từ người Việt Chỉ có một số ít phụ nữ vẫn còn mặc váy trong cuộc sống hằng ngày, trong khi áo thổ cẩm chủ yếu được sử dụng trong các lễ hội lớn Màu sắc chủ đạo của trang phục là nâu xám, với váy và khố được dệt trang trí các hoa văn như chà gạc (tong yih), đường viền (tong tech), và hoa văn móng tay (Kinhiah) Mép váy thường được khâu viền với dải hoa văn khung quay sợi (khiya), trong khi chăn thường có hoa văn cổ chim cu (ncogatop), mắt cú mèo (mat cau) và một số hoa văn bắt chước từ người Mạ (dicanh).

Ngày đăng: 04/10/2021, 19:55

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Bùi Xuân Đính, Các tộc người ở Việt Nam, nxb thời đại, 2012 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các tộc người ở Việt Nam
Nhà XB: nxb thời đại
2. GS.TS Hoàng Nam, Đặc trưng văn hóa truyền thống 54 dân tộc Việt Nam, nxb Khoa học xã hội, 2013 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đặc trưng văn hóa truyền thống 54 dân tộc Việt Nam
Nhà XB: nxb Khoa học xã hội
3. Huỳnh Văn Tới – Lâm Nhân – Phan Đình Dũng, Văn hóa người Chơ Ro, nxb văn hóa thông tin, 2013 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hóa người Chơ Ro
Nhà XB: nxb văn hóa thông tin
4. Việt Nam sắc màu văn hóa 54 dân tộc anh em, nxb Đồng Nai, 2013 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Việt Nam sắc màu văn hóa 54 dân tộc anh em
Nhà XB: nxb Đồng Nai
5. Đặng Văn Hường, Tìm hiểu một số phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo các dân tộc vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long, nxb Quân đội nhân dân, 2013 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tìm hiểu một số phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo các dân tộc vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long
Nhà XB: nxb Quân đội nhân dân

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

PHỤ LỤC HÌNH ẢNH - Chuyển biến đời sống văn hóa tinh thần của người chơ ro ở đồng nai (1986   2016)
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH (Trang 29)
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH - Chuyển biến đời sống văn hóa tinh thần của người chơ ro ở đồng nai (1986   2016)
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH (Trang 29)
Hình ảnh nghệ nhân dạy múa cho các em học sinh trường Phổ thông Nguồn:   - Chuyển biến đời sống văn hóa tinh thần của người chơ ro ở đồng nai (1986   2016)
nh ảnh nghệ nhân dạy múa cho các em học sinh trường Phổ thông Nguồn: (Trang 32)
Hình ảnh dạy còng chiêng cho thế hệ trẻ của người Chơ ro (Nguồn)  - Chuyển biến đời sống văn hóa tinh thần của người chơ ro ở đồng nai (1986   2016)
nh ảnh dạy còng chiêng cho thế hệ trẻ của người Chơ ro (Nguồn) (Trang 34)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN