CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
MỘT SỐ KHÁI NIỆM NGHIÊN CỨU
2.1.1 Khái niệm về ý định Ý định là một yếu tố dùng để đánh giá khả năng thực hiện hành vi trong tương lai Ý định thực hiện hành vi là mức độ dự định thực hiện hành vi của mỗi người (Fishbien và Ajzen, 1975), là dấu hiệu sẵn sàng của mỗi người để thực hiện một hành vi cho trước và nó được xem như là tiền đề trực tiếp để dẫn đến hành vi (Ajzen,1991).
2.1.2 Khái niệm về phân loại rác thải tại nguồn
Phân loại rác tại nguồn là quá trình tách riêng chất thải rắn sinh hoạt thành các thành phần khác nhau ngay tại nơi phát sinh Việc này giúp lưu giữ chất thải một cách riêng biệt trước khi thu gom và trong suốt quá trình vận chuyển đến nơi xử lý.
2.1.3 Khái niệm về người dân
"Công dân" là một khái niệm khoa học lâu đời, được nghiên cứu bởi nhiều ngành khoa học khác nhau Khái niệm này, còn được biết đến với tên gọi "người dân", đã trải qua nhiều biến đổi qua các giai đoạn lịch sử của nhân loại.
Trong triết học Hy Lạp cổ đại, "công dân" được định nghĩa là một người đàn ông tự do, là thành viên của một chế độ chính trị với các phẩm chất cần thiết Đến thời kỳ Trung cổ, khái niệm này mở rộng để chỉ những người sống trong pháo đài và thành thị, tham gia vào các hoạt động sản xuất thủ công và buôn bán trong các phường hội.
Theo khoản 1, điều 17, Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2013, “Công dân nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam.”
Người Việt Nam là công dân của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sinh sống và làm việc tại đây, hoặc tham gia vào các mối quan hệ xã hội Cụ thể hơn, người dân Thành phố Hồ Chí Minh cũng là công dân của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đang sinh sống và làm việc tại thành phố này.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.2.1 Lý thuyết hành vi hợp lý TRA
Mô hình thuyết hành động hợp lý (TRA) do Ajzen và Fishbein đề xuất vào năm 1975, cho rằng ý định hành vi là yếu tố quyết định hành vi của cá nhân, được hình thành từ thái độ cá nhân và chuẩn chủ quan TRA nhằm tìm hiểu hành vi tự nguyện bằng cách khám phá động lực tiềm ẩn của cá nhân trong việc thực hiện hành động Ý định hành vi đo lường khả năng chủ quan của một người thực hiện hành động, phản ánh niềm tin dựa trên thái độ và chuẩn chủ quan Thái độ liên quan đến cảm giác tích cực hoặc tiêu cực về kết quả hành động, trong khi chuẩn chủ quan là nhận thức về quan điểm của người khác đối với hành vi đó Mối quan hệ giữa thái độ và hành vi càng mạnh mẽ khi thái độ tích cực và chuẩn chủ quan rõ ràng, tuy nhiên, tác động của chúng đến ý định hành vi có thể khác nhau tùy thuộc vào từng cá nhân và tình huống.
Sơ đồ 2-1: Mô hình lý thuyết hành vi hợp lý của Fishbein và Ajzen
Thuyết hành động hợp lý (TRA) đã chỉ ra mối quan hệ giữa thái độ và chuẩn chủ quan, cho thấy ảnh hưởng của chúng đến ý định hành vi và việc thực hiện hành động.
Thuyết TRA mô tả 14 hành vi của con người và có ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực Tuy nhiên, thuyết này cũng tồn tại những hạn chế cần được điều chỉnh và cải tiến liên tục Đặc biệt, theo Ajzen, việc thực hiện hành vi dựa trên ý định không phải lúc nào cũng chắc chắn.
Mô hình hành vi hợp lý TRA gặp phải hạn chế lớn khi chỉ tập trung vào những hành vi có thể kiểm soát được bằng lý trí, bỏ qua các yếu tố xã hội quan trọng ảnh hưởng đến hành vi cá nhân (Werner, 2004) Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng các yếu tố không kiểm soát được cũng có tác động lớn đến ý định hành vi và hành động thực tế (Hansen và cộng sự, 2004) Hơn nữa, hành vi không luôn xuất phát từ một ý định đã có trước, và mối liên hệ giữa thái độ, hành vi và ý định không phải lúc nào cũng rõ ràng, đặc biệt là với những hành vi không yêu cầu nỗ lực nhận thức cao Do đó, thuyết TRA chủ yếu áp dụng cho những hành vi có ý định trước đó, trong khi các hành động theo thói quen hoặc không ý thức lại không được giải thích đầy đủ.
… không thể được giải thích bởi thuyết này
2.2.2 Lý thuyết hành vi hoạch định TPB
Sơ đồ 2-2: Mô hình lý thuyết hành vi hoạch định
Khái niệm Thuyết hành vi hoạch định (TPB) được Icek Ajzen khởi xướng vào năm 1991, là một lý thuyết mở rộng từ mô hình TRA nhằm bổ sung yếu tố kiểm soát hành vi mà cá nhân không thể điều khiển TPB cung cấp nhiều ưu điểm trong việc dự đoán và giải thích hành vi của cá nhân, được xem là mô hình hoàn thiện của TRA Lý thuyết này là một trong những lý thuyết hành vi được áp dụng và trích dẫn rộng rãi nhất (Cooke & Sheeran, 2004), với việc bổ sung yếu tố nhận thức kiểm soát hành vi tương tự như TRA.
Thuyết lý thuyết hành vi có kế hoạch (TPB) nêu ra ba yếu tố chính ảnh hưởng đến ý định hành vi: thái độ đối với hành vi, chuẩn chủ quan và nhận thức về kiểm soát hành vi Thái độ đối với hành vi phản ánh mức độ đánh giá tích cực hay tiêu cực của cá nhân về hành vi đó Chuẩn chủ quan liên quan đến nhận thức của cá nhân về những người quan trọng xung quanh mình, liệu họ có ủng hộ hay phản đối hành vi đó Cuối cùng, nhận thức về kiểm soát hành vi đề cập đến cảm giác của cá nhân về khả năng thực hiện hành vi trong một bối cảnh cụ thể Khi ý định hành vi càng mạnh mẽ, khả năng thực hiện hành vi đó sẽ càng cao.
Mô hình Thuyết Hành vi Lập kế hoạch (TPB) được coi là ưu việt hơn Thuyết Tình huống (TRA) trong việc dự đoán và giải thích hành vi tiêu dùng trong cùng một bối cảnh nghiên cứu Tuy nhiên, TPB cũng có những hạn chế trong khả năng dự đoán hành vi Đầu tiên, yếu tố quyết định ý chí không chỉ phụ thuộc vào thái độ, chuẩn chủ quan và kiểm soát hành vi cảm nhận Thứ hai, có thể tồn tại khoảng cách thời gian đáng kể giữa ý định hành vi và hành vi thực tế Cuối cùng, TPB dự đoán hành động của cá nhân dựa trên các tiêu chí nhất định.
CÁC NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
2.3.1 Các đề tài nghiên cứu nước ngoài
2.3.1.1 Đề tài nghiên của Jody M Hines , Harold R Hungerford & Audrey N
Sơ đồ 2-3: Mô hình nghiên cứu của Hines và cộng sự
Nguồn: Jody M Hines, Harold R Hungerford Và Audrey N Tomera (1987)
In 1987, researchers Jody M Hines, Harold R Hungerford, and Audrey N Tomera conducted a meta-analysis titled "Analysis and Synthesis of Research on Responsible Pro-Environmental Behavior," which focused on understanding and synthesizing various studies related to environmentally responsible behavior.
Trong bài viết "16 trách nhiệm đối với môi trường: một phân tích tổng hợp", tác giả nhấn mạnh mối liên hệ giữa các yếu tố nhân cách, kiến thức về chiến lược hành động và kỹ năng hành động đối với ý định hành vi Những yếu tố này không chỉ ảnh hưởng đến ý định hành vi mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hành vi bảo vệ môi trường.
2.3.1.2 Đề tài nghiên cứu của Siti Nur Diyana Mahmud và Osman (2010)
Vào năm 2010, Siti Nur Diyana Mahmud Và Kamisah Osman thực hiện đề tài
Nghiên cứu "Yếu tố quyết định ý định tái chế của học sinh Malaysia: một ứng dụng của lý thuyết về hành vi hoạch định" đã áp dụng mô hình lý thuyết hành vi có hoạch định (TPB) để phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến ý định phân loại chất thải rắn sinh hoạt của 400 học sinh cấp 2 tại Malaysia Kết quả cho thấy ba yếu tố chính tác động đến ý định này bao gồm: (1) Thái độ tích cực đối với việc tái chế, (2) Nhận thức chủ quan về sự ủng hộ từ bạn bè và gia đình, và (3) Nhận thức kiểm soát hành vi, tức là khả năng thực hiện hành động phân loại chất thải.
Sơ đồ 2-4: Mô hình nghiên cứu của Mahmud và Osman
Nghiên cứu cho thấy rằng yếu tố nhận thức về kiểm soát hành vi có tác động mạnh nhất đến ý định phân loại rác thải, với hệ số 0,687 Tiếp theo là chuẩn chủ quan với hệ số 0,593 Đặc biệt, không có mối tương quan nào giữa thái độ và ý định phân loại chất thải.
2.3.1.3 Đề tài nghiên cứu của Thanos Ioannou và cộng sự (2013)
Năm 2013, Thanos Ioannou, Leonidas A Zampetakis và Katia Lasaridi đã tiến hành nghiên cứu về "Các yếu tố tâm lý quyết định đến ý định tái chế của hộ gia đình" dựa trên lý thuyết hành vi có kế hoạch Nghiên cứu nhằm làm rõ tác động tổng hợp của các yếu tố như thái độ, chuẩn chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi lên ý định tái chế, thông qua việc sử dụng mô hình phân tích đường dẫn để tính toán và tiêu chuẩn hóa hệ số đường.
17 dẫn cho mỗi biến Ba thành phần này giải thích chung 45,9% phương sai trong ý định tái chế, với thái độ (b = 0,51, p