1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

BÁO CÁO TIẾP CẬN DỊCH VỤ HỖ TRỢ KINH DOANH đối VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NỮ TẠI VIỆT NAM

67 18 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Báo Cáo Tiếp Cận Dịch Vụ Hỗ Trợ Kinh Doanh Đối Với Các Doanh Nghiệp Nữ Tại Việt Nam
Thể loại báo cáo
Định dạng
Số trang 67
Dung lượng 1,78 MB

Cấu trúc

  • 1. Lời mở đầu (6)
  • 2. Mục tiêu (8)
  • 3. Phương pháp (8)
  • 4. Những giới hạn (8)
  • 5. Bối cảnh (10)
    • 5.1 DNNVV Việt Nam và sự đóng góp cho nền kinh tế (10)
    • 5.2 Thách thức mà khối DNNVV đối mặt (11)
    • 5.3 Quy định của pháp luật về hỗ trợ DNNVV tại Việt Nam (12)
    • 5.4 Dịch vụ hỗ trợ kinh doanh cho các DNNVV (15)
    • 5.5 Phụ nữ và DNNVV (20)
  • 6. Doanh nghiệp nữ tại Việt Nam (21)
    • 6.1 Thông tin chung (21)
    • 6.2 Doanh nghiệp nữ trong điều tra PCI (22)
      • 6.2.1. Tỷ lệ doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ (22)
      • 6.2.2. Tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (28)
      • 6.2.3. Khó khăn của doanh nghiệp (29)
  • 7. Tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh cho doanh nghiệp nữ (32)
    • 7.1 Quy định pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ (32)
    • 7.2 Nhận thức về DVHTKD (35)
    • 7.3 Thực tiễn và thị trường cung cấp DVHTKD cho doanh nghiệp nữ (38)
      • 7.3.1 DVHTKD chủ yếu do khối đơn vị công cung cấp (39)
      • 7.3.2 DVHTKD và hỗ trợ doanh nghiệp do Hội Liên hiệp phụ nữ cung cấp 41 (41)
      • 7.3.3 DVHTKD do các hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp cung cấp (43)
      • 7.3.4 DVHTKD do các Viện, tổ chức phi Chính phủ, các dự án cung cấp . 45 (45)
    • 7.4 Chất lượng của các DVHTKD (46)
      • 7.4.1 Chất lượng của dịch vụ do khối công lập cung cấp (46)
      • 7.4.2 Chất lượng của dịch vụ do khối tư nhân cung cấp (50)
    • 7.5 Thực tiễn tốt về cung cấp DVHTKD cho các doanh nghiệp nữ (51)
      • 7.5.2 Sự vào cuộc của các tổ chức trong xã hội (Thực tiễn tốt ở Western (53)
      • 7.5.3 Doanh nghiệp xã hội hoạt động vì doanh nghiệp nữ (thực tiễn tốt ở (54)
      • 7.5.5 Mô hình "tổ chức một cửa"/vườn ươm kinh doanh (55)
      • 7.5.6 Xây dựng mạng lưới (57)
      • 7.5.7 Ứng dụng công nghệ thông tin trong đào tạo, tập huấn nội dung đa dạng (58)
  • 8. Kết luận và kiến nghị (60)
    • 8.1 Tăng cường nhận thức về tầm quan trọng của doanh nghiệp nữ và (61)
    • 8.2 Hoàn thiện hệ thống pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp nữ (61)
    • 8.3 Xây dựng các mô hình đào tạo, phương thức hỗ trợ thích hợp (0)
    • 8.4 Tăng cường đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng hệ thống tài nguyên trực tuyến (0)
    • 8.5 Xã hội hóa các đơn vị cung cấp DVHTKD, tăng cường phối hợp giữa các đơn vị, tổ chức cung cấp DVHTKD (0)
    • 8.6 Đẩy mạnh công khai, minh bạch thông tin về hỗ trợ doanh nghiệp (0)
    • 8.7 Nâng cao năng lực cho các tổ chức đại diện doanh nghiệp, đặc biệt là (0)
    • 8.8 Xây dựng mạng lưới (0)
    • 8.9 Thành lập Trung tâm hỗ trợ phụ nữ trong kinh doanh/ Vườn ươm doanh nghiệp nữ (0)
    • 8.10 Cần có dữ liệu thống kê phân tách giới (0)

Nội dung

Mục tiêu

Mục tiêu chính của Báo cáo này là cải thiện chất lượng và hiệu quả các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh cho doanh nghiệp nữ, nhằm thúc đẩy sự phát triển của họ và đạt được bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế tại Việt Nam.

Mục tiêu cụ thể, gồm:

- Nhận diện thực trạng cung cấp các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh hiện nay tại các tỉnh, thành phố của Việt Nam;

- Tìm hiểu một số vai trò của các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh đối với hoạt động của doanh nghiệp;

- Xác định các giải pháp để thúc đẩy phát triển thị trường cung cấp dịch vụ hỗ trợ kinh doanh tại Việt Nam;

Phương pháp

Báo cáo này sử dụng phương pháp định lượng và định tính

Báo cáo từ Dự án Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) thực hiện, dựa trên khảo sát hơn 10.000 doanh nghiệp, nhằm phân tích tình hình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nữ và khả năng tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp.

Nhóm nghiên cứu của VCCI không chỉ xử lý số liệu từ Điều tra PCI mà còn thực hiện phỏng vấn sâu tại một số tỉnh, thành phố ở Việt Nam để tìm hiểu thực tiễn cung ứng dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp nữ tại các địa phương.

Nhóm nghiên cứu đã thực hiện phỏng vấn sâu với đại diện từ 20 sở ban ngành, doanh nghiệp và hiệp hội/hội/câu lạc bộ doanh nghiệp tại các tỉnh/thành phố như Hà Nội, Bắc Ninh, Tuyên Quang, Tp Hồ Chí Minh, Long An, Bình Dương, Quảng Nam và Huế để khảo sát thực trạng hoạt động dịch vụ hỗ trợ kinh doanh dành cho doanh nghiệp nữ.

Các cuộc phỏng vấn sâu nhằm khám phá nhu cầu sử dụng dịch vụ hỗ trợ kinh doanh của các doanh nghiệp nữ và tìm kiếm giải pháp cải thiện chất lượng cung ứng dịch vụ này, đáp ứng nhu cầu phát triển của doanh nghiệp.

Những giới hạn

Do tính kế thừa trong điều tra PCI, Dịch vụ hỗ trợ kinh doanh được đánh giá chỉ tập trung vào một số dịch vụ cơ bản trong nhiều năm qua.

- Dịch vụ tuyển dụng và giới thiệu việc làm

- Hỗ trợ tìm kiếm đối tác kinh doanh

- Xúc tiến thương mại và triển lãm thương mại

- Công nghệ và chương trình đào tạo liên quan đến công nghệ

- Đào tạo về kế toán và tài chính

- Đào tạo về quản trị kinh doanh

Báo cáo này chỉ cung cấp đánh giá sơ bộ về thị trường cung ứng một số dịch vụ hỗ trợ kinh doanh cơ bản do giới hạn phạm vi Điều tra PCI phản ánh cảm nhận của doanh nghiệp về chất lượng điều hành của chính quyền địa phương, nhưng không đánh giá các tổ chức ngoài nhà nước Mặc dù điều tra PCI áp dụng cho doanh nghiệp dân doanh trên toàn quốc và có thể phân tách dữ liệu theo giới tính của chủ doanh nghiệp, nhưng không có câu hỏi riêng cho nữ chủ doanh nghiệp Để có cái nhìn toàn diện và chi tiết hơn, cần thực hiện các nghiên cứu chuyên sâu về chủ đề này.

Luật Hỗ trợ DNNVV, có hiệu lực từ 01/01/2018, vẫn chưa có đầy đủ các Nghị định hướng dẫn, điều này khiến việc đánh giá hiệu quả thực thi của Luật trong thực tế trở nên khó khăn trong khoảng thời gian thực hiện Báo cáo này.

Bối cảnh

DNNVV Việt Nam và sự đóng góp cho nền kinh tế

Doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, là nguồn chính tạo ra GDP cho đất nước Theo số liệu từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến ngày 01/7/2018, cả nước có 702.710 doanh nghiệp đang hoạt động và thuộc diện quản lý thuế của Tổng cục Thuế Trong số này, có 674.759 doanh nghiệp có báo cáo tài chính hoặc không có báo cáo nhưng vẫn được Tổng cục Thống kê khảo sát; còn lại 27.951 doanh nghiệp nằm trong danh sách quản lý thuế nhưng không có báo cáo tài chính và không được xác minh bởi Tổng cục Thống kê.

Trong tổng số 674.759 doanh nghiệp, hiện có 560.417 doanh nghiệp đang hoạt động hiệu quả với kết quả sản xuất kinh doanh hoặc có chi phí cho hoạt động này Đồng thời, có 80.948 doanh nghiệp tồn tại nhưng không đạt kết quả sản xuất kinh doanh, và 33.394 doanh nghiệp đã ngừng hoạt động, chờ giải thể.

Tại Việt Nam, 98,1% doanh nghiệp là nhỏ và vừa (DNNVV), với 24,1% là doanh nghiệp nhỏ và 74% là doanh nghiệp siêu nhỏ, chủ yếu thuộc khu vực ngoài nhà nước (doanh nghiệp nhà nước chỉ chiếm 0,5%) DNNVV đóng vai trò quan trọng trong đổi mới và tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và đóng góp vào GDP cũng như ngân sách nhà nước, đặc biệt tại các quốc gia có thu nhập trung bình và thấp Ngoài ra, DNNVV còn giúp giải quyết các vấn đề xã hội như giảm nghèo và bất bình đẳng, góp phần vào mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia.

Các doanh nghiệp trong danh sách quản lý của Tổng cục Thuế bao gồm những doanh nghiệp có mã số thuế, loại trừ các doanh nghiệp đã giải thể, doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ giải thể, nhà thầu phụ và chi nhánh.

2 Kết quả Tổng điều tra kinh tế năm 2017 (Tổng cục Thống kê công bố ngày 19/9/2018)

Hình 1: Đóng góp của DNNVV vào tăng trưởng kinh tế

Thách thức mà khối DNNVV đối mặt

Dù có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế và xã hội, các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) hiện đang gặp nhiều khó khăn và thách thức, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập toàn cầu và sự phát triển nhanh chóng của công nghệ.

Khó khăn trong tiếp cận vốn là mối quan ngại lớn nhất của doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) Thêm vào đó, DNNVV thường có trình độ công nghệ thấp, gây trở ngại cho hoạt động kinh doanh Việc thiếu kỹ năng kỹ thuật, quản trị, thông tin thị trường và kỹ năng tiếp thị cũng là những rào cản lớn đối với sự phát triển bền vững của DNNVV.

Nhiều chính sách và pháp luật của Nhà nước đang trở thành rào cản cho sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) Các điều kiện và thủ tục kinh doanh phức tạp, cùng với những yêu cầu không hợp lý, đã khiến cho nhiều tiểu thương và hộ kinh doanh tại Việt Nam cảm thấy khó khăn và không muốn mở rộng quy mô hoạt động.

Các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) cần sự hỗ trợ mạnh mẽ từ Nhà nước và xã hội để mở rộng quy mô, thúc đẩy đổi mới công nghệ và nâng cao năng suất, từ đó đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế-xã hội.

Từ tháng 4/2016, Chính phủ Việt Nam đã cam kết xây dựng một chính phủ kiến tạo, liêm chính và hành động quyết liệt nhằm phục vụ doanh nghiệp và người dân Mục tiêu là tạo ra môi trường thuận lợi để khuyến khích đầu tư, với hy vọng đến năm 2020 sẽ có 1 triệu doanh nghiệp hoạt động Mặc dù đã thực hiện nhiều cải cách như sửa đổi Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, và cắt giảm giấy phép con, số lượng doanh nghiệp tạm ngưng, giải thể và phá sản vẫn gia tăng, cho thấy cần có những giải pháp hiệu quả hơn để phát triển kinh tế bền vững.

Theo thống kê của Cục Đăng ký và Quản lý Kinh doanh - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong 9 tháng đầu năm 2018, cả nước có 23.053 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 24,6% so với cùng kỳ năm 2017 Bên cạnh đó, có 50.050 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động mà không đăng ký hoặc đang chờ giải thể, tăng 62,3% so với năm trước Số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể trong cùng thời gian là 11.536, tăng 32,1% so với cùng kỳ năm 2017.

Cục Đăng ký và Quản lý kinh doanh thông báo rằng trong 9 tháng đầu năm 2018, tất cả 17 ngành nghề kinh doanh chính đều gặp phải tình trạng gia tăng số lượng doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tạm ngừng hoạt động không đăng ký, hoặc đang chờ giải thể và hoàn tất thủ tục giải thể.

Để giải quyết thực trạng hiện tại, cần thiết phải có sự hỗ trợ bổ sung cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) từ các đối tác khác Đặc biệt, việc tăng cường năng lực cho các doanh nghiệp thông qua dịch vụ hỗ trợ kinh doanh (DVHTKD) là rất quan trọng, bên cạnh các hình thức hỗ trợ tài chính và tín dụng.

Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) không chỉ tạo động lực cho nền kinh tế mà còn giúp Việt Nam đạt mục tiêu một triệu doanh nghiệp vào năm 2020, theo Nghị quyết 35 của Chính phủ.

Quy định của pháp luật về hỗ trợ DNNVV tại Việt Nam

Trước khi Luật Hỗ trợ DNNVV 2017 ra đời, hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp đối được quy định tại Nghị định 56/2009/NĐ-CP Khoản 1 Điều 5 Nghị định quy định:

Chương trình trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa của Nhà nước là một chương trình mục tiêu nhằm hỗ trợ sự phát triển kinh tế - xã hội, tập trung vào các doanh nghiệp nhỏ và vừa Chương trình được xây dựng dựa trên định hướng phát triển ngành và địa bàn, được bố trí trong kế hoạch hàng năm và 5 năm Đặc biệt, ưu tiên hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa do phụ nữ làm chủ cũng như những doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ.

Các chương trình trợ giúp của Nhà nước theo Nghị định này bao gồm:

Để hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), cần thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng, khuyến khích các dự án hỗ trợ kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực cho các tổ chức tài chính Điều này giúp mở rộng khả năng cấp tín dụng cho DNNVV Bên cạnh đó, việc đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ, cung cấp tư vấn tài chính, quản lý đầu tư và các dịch vụ hỗ trợ khác là rất quan trọng Cuối cùng, cần tổ chức đào tạo để nâng cao năng lực lập dự án và phương án kinh doanh cho các DNNVV khi vay vốn.

Chính quyền hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa bằng cách dành quỹ đất và khuyến khích xây dựng các khu, cụm công nghiệp, giúp họ có mặt bằng sản xuất và kinh doanh Đồng thời, việc di dời các doanh nghiệp ra khỏi nội thành cũng được thực hiện nhằm bảo đảm cảnh quan môi trường.

Đổi mới và nâng cao năng lực công nghệ là yếu tố then chốt để phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) Điều này bao gồm việc cải tiến công nghệ và thiết bị kỹ thuật, nghiên cứu và phát triển công nghệ sản xuất sản phẩm mới, cũng như chuyển giao công nghệ và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật Bên cạnh đó, việc giới thiệu và cung cấp thông tin về công nghệ, thiết bị cho DNNVV, hỗ trợ đánh giá và lựa chọn công nghệ, cũng như hỗ trợ kinh phí cho đổi mới công nghệ là rất cần thiết để nâng cao hiệu quả sản xuất và cạnh tranh trên thị trường.

- Xúc tiến mở rộng thị trường (hỗ trợ kinh phí thực hiện);

Tham gia kế hoạch mua sắm và cung ứng dịch vụ công, cần dành một tỷ lệ nhất định cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) để thực hiện các hợp đồng hoặc đơn đặt hàng cung cấp một số hàng hóa và dịch vụ công.

Chúng tôi cung cấp dịch vụ tư vấn và hỗ trợ thông tin liên quan đến các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động doanh nghiệp, các chính sách và chương trình phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, cùng với những thông tin hữu ích khác nhằm hỗ trợ hoạt động kinh doanh hiệu quả.

- Trợ giúp phát triển nguồn nhân lực (hướng dẫn xây dựng kế hoạch trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực);

Vườn ươm doanh nghiệp cung cấp hỗ trợ có thời hạn cho các doanh nghiệp khởi nghiệp thông qua quy trình hệ thống Nơi đây cung cấp không gian làm việc, dịch vụ hỗ trợ kinh doanh và các nguồn lực cần thiết, giúp doanh nghiệp hiện thực hóa và thương mại hóa ý tưởng kinh doanh cũng như công nghệ của họ.

Luật Hỗ trợ DNNVV 2017 ra đời (có hiệu lực từ 01/01/2018) quy định nhiều hình thức hỗ trợ doanh nghiệp:

- Hỗ trợ tiếp cận tín dụng (Điều 8)

- Hỗ trợ thuế, kế toán (Điều 10)

- Hỗ trợ mặt bằng sản xuất (Điều 11)

- Hỗ trợ công nghệ; hỗ trợ cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật, khu làm việc chung (Điều 12)

- Hỗ trợ mở rộng thị trường (Điều 13)

- Hỗ trợ thông tin, tư vấn và pháp lý (Điều 14)

- Hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực (Điều 15)

- Hỗ trợ chuyển đổi thành mô hình doanh nghiệp từ hộ kinh doanh (Điều 16)

- Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo (Điều 17)

- Đầu tư cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo (Điều 18)

- Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị (Điều 19)

Hộ kinh doanh chuyển sang DNNVV được hỗ trợ:

- Tư vấn, hướng dẫn miễn phí về hồ sơ, thủ tục thành lập doanh nghiệp;

Miễn lệ phí đăng ký doanh nghiệp và phí cung cấp thông tin doanh nghiệp lần đầu; miễn phí thẩm định, phí cấp phép kinh doanh lần đầu đối với ngành nghề kinh doanh có điều kiện; và miễn lệ phí môn bài trong 03 năm kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu.

Chúng tôi cung cấp tư vấn và hướng dẫn miễn phí về các thủ tục hành chính thuế cũng như chế độ kế toán trong vòng 03 năm kể từ ngày doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận đăng ký lần đầu.

- Miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp có thời hạn theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp;

- Miễn, giảm tiền sử dụng đất có thời hạn theo quy định của pháp luật đất đai

Tuy nhiên, để được hưởng các ưu đãi nêu trên, hộ kinh doanh phải đáp ứng

- Trước khi thành lập doanh nghiệp, hộ kinh doanh đã đăng ký và hoạt động theo quy định của pháp luật;

Hộ kinh doanh phải có hoạt động sản xuất và kinh doanh liên tục ít nhất một năm trước khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu.

Mặc dù Luật đã quy định rõ ràng, nhưng việc triển khai vẫn cần các Nghị định hướng dẫn cụ thể Hiện tại, các Nghị định thi hành Luật như Nghị định về Quỹ hỗ trợ DNNVV và Nghị định về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp vẫn chưa được ban hành đầy đủ.

Hệ thống thể chế hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) tại Việt Nam được hình thành dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng, bắt đầu từ Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 Sau đó, hệ thống này đã được cập nhật và thay thế bởi Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30 tháng 6 năm 2009, nhằm thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong cả nước.

Hình 2: Hệ thống thể chế hỗ trợ DNNVV tại Việt Nam

Hội đồng khuyến khích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa được thành lập theo Quyết định số 1918/QĐ-TTg ngày 20 tháng 10 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ Hội đồng này có vai trò cố vấn cho Thủ tướng trong việc phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, đồng thời chịu trách nhiệm về các chính sách và giải pháp hỗ trợ cho DNNVV.

1 Định hướng chiến lược về kế hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa phù hợp với định hướng, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;

2 Đề xuất sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa;

3 Các biện pháp, giải pháp và chương trình trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm tăng cường năng lực và nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa;

Dịch vụ hỗ trợ kinh doanh cho các DNNVV

Nhiều nghiên cứu và đánh giá thực tiễn trên thế giới đã chỉ ra rằng chỉ cung cấp dịch vụ tài chính không đủ để thúc đẩy tăng trưởng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) Để hỗ trợ sự phát triển của các doanh nghiệp này, cần thiết phải có các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh (DVHTKD) đi kèm.

5.4.1 DVHTKD kinh doanh là gì

DVHTKD kinh doanh cung cấp các dịch vụ phi tài chính quan trọng, hỗ trợ sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân Những dịch vụ này giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) tăng trưởng bền vững và có lợi nhuận, góp phần biến khu vực doanh nghiệp tư nhân thành động lực phát triển xã hội toàn diện.

DVHTKD là dịch vụ giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động, tiếp cận thị trường và cải thiện năng lực cạnh tranh trong hoạt động hàng ngày cũng như ở cấp độ chiến lược Định nghĩa này được UNDP nhắc lại vào năm 2004.

- Hỗ trợ thị trường (tập trung vào bán hàng)

- Phát triển và chuyển giao công nghệ

- Thúc đẩy liên kết kinh doanh

Các dạng hỗ trợ DNNVV 4 :

- Thông tin và quảng bá: bao bì đóng gói, biển chỉ dẫn

- Dịch vụ thông tin chuyên ngành (pháp luật, thị trường, nguồn tài chính, hỗ trợ kỹ thuật)

Chúng tôi cung cấp dịch vụ tư vấn toàn diện, bao gồm lập kế hoạch kinh doanh và thực hiện các chức năng kinh doanh cơ bản như bán hàng, tiếp thị, tài chính kế toán, dịch vụ khách hàng, quản lý nhân lực, nghiên cứu và phát triển, sản xuất và phân phối Đội ngũ chuyên gia của chúng tôi sẵn sàng hỗ trợ bạn trong việc tìm kiếm đối tác và phát triển chiến lược kinh doanh hiệu quả.

- Đào tạo khởi sự, điều hành và tăng trưởng doanh nghiệp

- Cơ sở kinh doanh: vườn ươm, công viên công nghệ, các trung tâm doanh nghiệp

- Mạng lưới: cụm, chuỗi cung ứng, hội chợ

- Nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp cụ thể, việc tiếp cận thị trường và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đó

Tăng lợi nhuận và thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp không chỉ mang lại sự tăng trưởng kinh tế mà còn tạo ra nhiều việc làm, nâng cao thu nhập và phúc lợi, từ đó cải thiện chất lượng cuộc sống cho cộng đồng.

- Tăng thêm giá trị cho hàng hóa và dịch vụ

Theo Ủy ban Châu Âu (2002), dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật và kinh doanh (DVHTKD) đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, tạo ra việc làm và thu nhập, đồng thời góp phần vào sự phát triển kinh tế Việc tạo ra việc làm và thu nhập đặc biệt quan trọng đối với các khu vực nông thôn nghèo, cộng đồng và nhóm dễ bị tổn thương Do đó, cung cấp DVHTKD chất lượng là một phương thức thiết yếu để đạt được các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs).

5.4.2 DVHTKD được cung cấp bởi ai

DVHTKD được cung cấp bởi cả khối tư nhân và công cộng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh cho các DNNVV Trên toàn cầu, các dịch vụ hỗ trợ này thường được cung cấp bởi nhiều tổ chức khác nhau.

- Các cơ quan nhà nước

- Các hiệp hội doanh nghiệp và ngành nghề (bao gồm các hội/hiệp hội doanh nghiệp nữ)

- Các tổ chức phi chính phủ

- Các nhà tài trợ (thông qua các dự án)

- Các trường đại học/cơ sở đào tạo

- Các chuyên gia độc lập

Những dịch vụ này được thực hiện thông qua:

- Các “điểm xuất phát” cho doanh nghiệp mới thành lập

- Cổng thông tin trực tuyến về kinh doanh

- Các trung tâm doanh nghiệp/khởi nghiệp

- Các trung tâm hỗ trợ DNNVV

- Các vườn ươm doanh nghiệp, công viên công nghệ, trung tâm sáng tạo, trung tâm công nghệ thông tin và truyền thông (ICT)

- Các chương trình đào tạo được chuẩn hóa

- Các giải pháp tập trung vào khách hàng (cá nhân hoặc nhóm)

DVHTKD đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển tổng thể của DNNVV, đáp ứng đa dạng nhu cầu ở các giai đoạn khác nhau Những dịch vụ này hỗ trợ DNNVV vượt qua các rào cản chủ quan và khách quan, thúc đẩy sự phát triển bền vững.

Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ tư vấn chuyên sâu phát triển nhanh hơn và tạo ra nhiều việc làm hơn so với những doanh nghiệp khác Cụ thể, tỷ lệ thành công của các doanh nghiệp khởi nghiệp có thể tăng gấp ba lần nếu có sự hỗ trợ từ các cố vấn, cùng với các hỗ trợ phi tài chính, giúp nâng cao hiệu quả kinh doanh.

Theo khảo sát năm 2017 của Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) do VCCI và USAID thực hiện, các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ hỗ trợ kinh doanh (DVHTKD) có hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn so với nhóm không sử dụng dịch vụ này.

Các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ hỗ trợ kinh doanh (DVHTKD) có tỷ lệ lợi nhuận cao hơn so với những doanh nghiệp không có nhu cầu hoặc có nhu cầu nhưng không sử dụng dịch vụ này.

Hình 3: Tỷ lệ doanh nghiệp làm ăn có lãi so sánh theo có sử dụng DVHTKD

Các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ hỗ trợ kinh doanh (DVHTKD) tỏ ra lạc quan hơn so với những doanh nghiệp không sử dụng dịch vụ này Cụ thể, 54% doanh nghiệp sử dụng dịch vụ từ khu vực công và 62% doanh nghiệp sử dụng dịch vụ tư nhân dự kiến sẽ mở rộng sản xuất trong 2 năm tới Trong khi đó, tỷ lệ mở rộng sản xuất của các doanh nghiệp không có nhu cầu sử dụng dịch vụ hoặc có nhu cầu nhưng không sử dụng chỉ đạt 42% và 52%.

Hình 4: Tỷ lệ doanh nghiệp sẽ mở rộng quy mô SXKD so sánh theo có sử dụng DVHTKD

5.4.4 Nhu cầu về DVHTKD ở Việt Nam

Khảo sát PCI 2017 cho thấy doanh nghiệp đặc biệt cần các dịch vụ như tư vấn pháp luật, thông tin thị trường và tìm kiếm đối tác kinh doanh Tuy nhiên, tỷ lệ sử dụng các dịch vụ này vẫn thấp, có thể do doanh nghiệp gặp khó khăn tài chính và tự xử lý để tiết kiệm chi phí, hoặc chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng và lợi ích của những dịch vụ này.

Hình 5: Nhu cầu sử dụng DVHTKD của doanh nghiệp

Theo khảo sát của MarketIntello Vietnam vào cuối năm 2015, doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) tại Việt Nam đánh giá cao các dịch vụ hỗ trợ, trong đó quản lý tài chính được xem là nhu cầu quan trọng nhất Tiếp theo là các dịch vụ nghiên cứu thị trường, quảng cáo/khuyến mại và tư vấn pháp lý.

Có khoảng 33% số doanh nghiệp được hỏi có sử dụng DVHTKD trong thời gian 2013-2014 và 52% cho rằng các dịch vụ đó là hữu ích Tuy nhiên, có tới 26,28%

Trong một khảo sát, có đến 27,7% doanh nghiệp cho rằng họ có thể tự phát triển mà không cần sự hỗ trợ từ bên ngoài Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp vẫn chưa nhận thức được sự tồn tại của các dịch vụ hỗ trợ phát triển kinh doanh (DVHTKD) Điều này cho thấy sự cần thiết phải nâng cao nhận thức về các dịch vụ này để giúp doanh nghiệp tối ưu hóa khả năng phát triển.

Phụ nữ và DNNVV

Phụ nữ hiện nay đảm nhận ba vai trò quan trọng: làm mẹ, làm vợ và người lao động Mặc dù phải gánh vác nhiều trách nhiệm, ngày càng nhiều phụ nữ khát khao khởi nghiệp Tỷ lệ phụ nữ làm chủ doanh nghiệp là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá thành tựu bình đẳng giới của một quốc gia.

Phụ nữ trong kinh doanh đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự ổn định và thúc đẩy bình đẳng giới Theo Viện Quốc tế McKinsey, nếu phụ nữ được tham gia bình đẳng trong nền kinh tế toàn cầu, GDP có thể tăng thêm 28 nghìn tỷ đô la Mỹ vào năm 2025.

Phụ nữ gặp nhiều khó khăn khi khởi nghiệp và vận hành doanh nghiệp, chủ yếu do thiếu sự ủng hộ xã hội trong việc sắp xếp công việc gia đình Họ thường bị coi là người làm việc gia đình hơn là doanh nhân, dẫn đến việc ít nhận được sự tin tưởng và khó khăn trong việc tiếp cận vốn cũng như đầu tư Thiếu thông tin và mạng lưới kết nối càng làm tăng thêm thách thức cho phụ nữ Bên cạnh đó, định kiến xã hội về vai trò của phụ nữ trong gia đình cũng ảnh hưởng đến khả năng tham gia các khóa đào tạo, khiến họ không có đủ thời gian để phát triển kỹ năng cần thiết cho kinh doanh.

Tỷ lệ doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ vẫn thấp hơn so với nam giới, với phần lớn là các doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ, trong đó chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ.

Tỷ lệ doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ thấp hơn so với doanh nghiệp nam làm chủ

Theo Báo cáo Chỉ số nữ doanh nhân của Mastercard 2018, Ghana dẫn đầu về tỷ lệ phụ nữ làm chủ doanh nghiệp với 46,4%, tiếp theo là Nga với 34,6% và Uganda với 33,8% Ngược lại, Saudi Arabia chỉ có 1,4%, Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất 2,8% và Ai Cập 3,3%, cho thấy tỷ lệ phụ nữ khởi nghiệp ở nhiều quốc gia vẫn còn rất thấp.

Trong bối cảnh các doanh nghiệp nữ đang trở thành "động lực mới cho tăng trưởng" và là "những ngôi sao đang lên" trong nền kinh tế các nước đang phát triển, việc khai thác nguồn lực từ các doanh nghiệp này là cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.

Hỗ trợ nâng cao năng lực cho doanh nghiệp là rất cần thiết, và dịch vụ hỗ trợ phát triển kinh doanh (DVHTKD) chính là giải pháp hiệu quả nhất để thúc đẩy sự phát triển này.

Doanh nghiệp nữ tại Việt Nam

Thông tin chung

Việt Nam đang nỗ lực đạt được các mục tiêu phát triển bền vững, đặc biệt là bình đẳng giới Theo Báo cáo Rà soát quốc gia tự nguyện năm 2018, lao động nữ chiếm 48,3% tổng lực lượng lao động Nếu phụ nữ được trả công cho công việc chăm sóc không lương, họ có thể đóng góp hơn 20% GDP của đất nước Trong lĩnh vực doanh nghiệp, 98% doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ là nhỏ và siêu nhỏ, với 71% trong số đó là doanh nghiệp siêu nhỏ.

Theo báo cáo "Doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ tại Việt Nam: Nhận thức và tiềm năng", nữ doanh nhân tạo ra lợi nhuận hàng năm tương đương với nam giới và doanh nghiệp của họ đang tăng trưởng trên 20% Tuy nhiên, phụ nữ thường gặp khó khăn hơn trong việc tiếp cận vốn vay so với nam giới.

Mặc dù môi trường đầu tư trong nước hỗ trợ phụ nữ, nhiều ngân hàng vẫn không xem xét việc áp dụng chiến lược riêng cho nữ doanh nhân, cho rằng phân khúc này kém lợi nhuận, rủi ro cao và thiếu kỹ năng quản lý tài chính.

Tỷ lệ doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ trong tổng số doanh nghiệp còn thấp, có nhiều số liệu thống kê khác nhau nhưng chỉ khoảng 31% trở xuống

Theo Điều tra Lao động việc làm năm Quý IV 2017, tỷ lệ nữ làm chủ cơ sở trên toàn quốc đạt 27,8%, tuy nhiên vẫn tồn tại khoảng cách đáng kể giữa các vùng miền.

8 The Impact of Women Entrepreneurs towards National Development: Selected Study on Taraba State,

2016, https://www.iiste.org/Journals/index.php/IKM/article/viewFile/31034/31867

9 IFC, 2017 tỷ lệ này tại khu vực thành thị và nông thôn (33,2% tại thành thị và 20,1% tại nông thôn)

Báo cáo cho thấy, trong hai năm qua, chỉ có 37% doanh nghiệp nhỏ và vừa do phụ nữ làm chủ tiếp cận được vốn vay ngân hàng, so với 47% doanh nghiệp do nam giới sở hữu Mặc dù môi trường đầu tư trong nước hỗ trợ phụ nữ, nhiều ngân hàng vẫn không coi trọng việc phát triển các chương trình riêng cho nữ doanh nhân, mà cho rằng họ ít lợi nhuận, nhiều rủi ro và thiếu kỹ năng quản lý tài chính.

Tỷ lệ phụ nữ khởi nghiệp và điều hành doanh nghiệp thấp, phản ánh những rào cản và khó khăn mà họ phải đối mặt, không chỉ ở Việt Nam mà còn trên toàn cầu Theo Báo cáo khoảng cách giới toàn cầu 2017, phụ nữ có nguy cơ mất việc cao hơn nam giới, trong khi thu nhập toàn cầu tăng nhưng nam giới vẫn có mức tăng nhanh hơn Hơn nữa, phụ nữ chỉ chiếm 22% vị trí lãnh đạo trong các công ty và tổ chức Việt Nam hiện đứng thứ 69 trong số 144 quốc gia được khảo sát, giảm 5 bậc so với năm trước.

Doanh nghiệp nữ trong điều tra PCI

6.2.1 Tỷ lệ doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ

Theo điều tra PCI năm 2017, tỷ lệ doanh nghiệp nữ làm chủ là 22%

Hình 6: Tỷ lệ doanh nghiệp theo giới trong điều tra PCI 2017

Trong số các doanh nghiệp do nữ làm chủ, lĩnh vực thương mại và dịch vụ chiếm tỷ lệ cao nhất với 73%, tiếp theo là xây dựng (14%), công nghiệp (7%), và nông nghiệp/lâm nghiệp/thủy sản (6%) So với doanh nghiệp do nam giới làm chủ, lĩnh vực xây dựng có sự chênh lệch lớn nhất, với 28% doanh nghiệp do nam giới quản lý so với 14% của nữ giới Ngược lại, trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ, tỷ lệ doanh nghiệp do nữ giới làm chủ cao hơn đáng kể, đạt 73% so với 55% của nam giới.

Hình 7: Phân loại lĩnh vực hoạt động theo giới của chủ doanh nghiệp

Tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ trong các lĩnh vực hiện nay còn rất khiêm tốn Cụ thể, lĩnh vực thương mại và dịch vụ có tỷ lệ cao nhất với chỉ 28%, trong khi lĩnh vực xây dựng và công nghiệp lần lượt chỉ đạt 13% và 16%.

Hình 8: Phân bố giới của chủ doanh nghiệp theo lĩnh vực hoạt động Ở các địa phương, tỷ lệ lớn nhất là 36% (Cao Bằng), Trà Vinh (32%), Kiên

Tỷ lệ dân số tại các tỉnh thành Việt Nam có sự chênh lệch rõ rệt, với Giang cao nhất đạt 30%, trong khi Bắc Kạn chỉ có 9% Lai Châu và Thái Bình đồng mức 13% Tại năm thành phố lớn nhất, Hà Nội và Đà Nẵng có tỷ lệ 23%, Hải Phòng 24%, Tp Hồ Chí Minh 25%, và Cần Thơ cao nhất với 27%.

Hình 9: Phân bố giới của chủ doanh nghiệp theo vùng

Tỷ lệ giữa các vùng không có sự chênh lệch lớn, nhưng các khu vực kinh tế phát triển hơn thường có tỷ lệ trung bình cao hơn Ngược lại, khi so sánh giữa các tỉnh/thành phố trong cùng một vùng, mức chênh lệch lại khá đáng kể.

Hình 10: Tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ theo tỉnh trong vùng Miền núi phía Bắc

Hình 11: Tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ theo tỉnh trong vùng Đồng bằng Sông Hồng

Hình 12: Tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ theo tỉnh trong vùng Duyên hải miền Trung

Hình 13: Tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ theo tỉnh trong vùng Tây Nguyên

Hình 14: Tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ theo tỉnh trong vùng Đông Nam Bộ

Hình 15: Tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ theo tỉnh trong vùng Đồng bằng Sông Cửu

Xét theo lĩnh vực hoạt động Điều tra PCI phân lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp thành 04 nhóm chính:

Trong số các doanh nghiệp do nữ làm chủ, lĩnh vực thương mại và dịch vụ chiếm ưu thế với 73%, trong khi đó lĩnh vực xây dựng chỉ chiếm 14%.

Trong lĩnh vực công nghiệp, tỷ lệ doanh nghiệp do nữ giới làm chủ chỉ đạt 7%, trong khi lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản là 6% So với doanh nghiệp do nam giới sở hữu, sự chênh lệch rõ rệt nhất xuất hiện trong ngành xây dựng, với tỷ lệ doanh nghiệp do nam giới làm chủ cao hơn nhiều (28% so với 14% của nữ giới) Ngược lại, trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ, tỷ lệ doanh nghiệp do nữ giới chiếm ưu thế (73% so với 55% của nam giới).

Hình 16: Phân loại lĩnh vực hoạt động theo giới của chủ doanh nghiệp

Tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ trong các lĩnh vực vẫn còn rất khiêm tốn, với lĩnh vực thương mại/dịch vụ có tỷ lệ cao nhất chỉ đạt 28%, trong khi lĩnh vực xây dựng và công nghiệp lần lượt chỉ chiếm 13% và 16%.

Hình 17: Phân bố giới của chủ doanh nghiệp theo lĩnh vực hoạt động

Theo Điều tra PCI 2017, định nghĩa về doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) được xác định theo Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 56/2009/NĐ-CP, do thời điểm khảo sát diễn ra trước khi Luật Hỗ trợ DNNVV có hiệu lực.

Doanh nghiệp siêu nhỏ Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa

Số lao động Tổng nguồn vốn

Tổng nguồn vốn Số lao động

I Nông, lâm nghiệp và thủy sản

10 người trở xuống 20 tỷ đồng trở xuống từ trên 10 người đến

200 người từ trên 20 tỷ đồng đến 100 tỷ đồng từ trên 200 người đến

II Công nghiệp và xây dựng 10 người trở xuống 20 tỷ đồng trở xuống từ trên 10 người đến

200 người từ trên 20 tỷ đồng đến 100 tỷ đồng từ trên 200 người đến

III Thương mại và dịch vụ 10 người trở xuống 10 tỷ đồng trở xuống từ trên 10 người đến

50 người từ trên 10 tỷ đồng đến 50 tỷ đồng từ trên 50 người đến

Hình 18: Phân loại quy mô doanh nghiệp theo giới của chủ doanh nghiệp

Có tới 58% doanh nghiệp nữ làm chủ có quy mô siêu nhỏ, 35% là doanh nghiệp nhỏ, chỉ có 5% là doanh nghiệp vừa và 2% là doanh nghiệp lớn

Tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ luôn thấp hơn so với nam giới ở mọi cấp độ quy mô, và đặc biệt, khi quy mô doanh nghiệp tăng lên, tỷ lệ này càng giảm mạnh.

Hình 19: Phân bố giới của chủ doanh nghiệp theo quy mô doanh nghiệp

6.2.2 Tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

PCI đã tiến hành khảo sát tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đánh giá theo các mức độ lãi khác nhau Kết quả cho thấy, cả doanh nghiệp nam và nữ đều gặp khó khăn, với phần lớn chỉ đạt lãi ít, trong khi chỉ có khoảng 7-8% doanh nghiệp lãi nhiều Bảng số liệu minh chứng rằng tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nữ không hề kém cạnh so với doanh nghiệp nam, khẳng định năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nữ là tương đương.

Trong hai năm tới, chỉ có 8,6% doanh nghiệp do nữ làm chủ dự định giảm quy mô hoặc đóng cửa, cho thấy sự lạc quan và nỗ lực không ngừng của các nữ doanh nhân trong hoạt động kinh doanh của họ.

Hình 21: Triển vọng kinh doanh trong 2 năm tới theo giới của chủ doanh nghiệp

6.2.3 Khó khăn của doanh nghiệp

Doanh nghiệp do nữ lãnh đạo sở hữu nhiều điểm mạnh như sự bền bỉ trước khó khăn và sự quan tâm đến phúc lợi cho người lao động, đồng thời đóng góp tích cực cho xã hội Mặc dù có những nỗ lực nhằm tăng cường quyền lực cho phụ nữ trong nền kinh tế, nhưng các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) do nữ làm chủ vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức, bao gồm quy mô nhỏ và sức cạnh tranh thấp Hơn nữa, năng lực quản trị và khả năng tiếp cận thông tin, công nghệ của họ còn hạn chế, trong khi nữ doanh nhân thường phải gánh vác trách nhiệm kép Định kiến xã hội và những quan niệm sai lầm về vai trò của phụ nữ trong kinh doanh vẫn còn tồn tại, tạo ra rào cản cho sự phát triển của họ.

Theo điều tra PCI, doanh nghiệp do nữ làm chủ đang đối mặt với nhiều thách thức, trong đó khó khăn lớn nhất là tìm kiếm khách hàng, chiếm 62% ý kiến phản hồi Ngoài ra, họ cũng gặp khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn vốn và ứng phó với biến động thị trường.

Hình 22: Những khó khăn của doanh nghiệp do nữ làm chủ

Xét theo quy mô doanh nghiệp, cho dù doanh nghiệp ở quy mô nào (siêu nhỏ, nhỏ, vừa hoặc lớn) thì đều có ba khó khăn lớn nhất như trên

Hình 23: Khó khăn của doanh nghiệp do nữ làm chủ theo quy mô doanh nghiệp

Theo một nghiên cứu khác của VCCI 10 , các doanh nghiệp nữ gặp khó khăn ở các vấn đề sau:

- Chi phí, dịch vụ đầu vào cao (49%)

- Lao động chất lượng cao không có sẵn (49%)

- Thiếu chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phù hợp (47%)

- Tiếp cận thị trường, bán hàng (43%)

- Tiếp cận các dịch vụ tài chính (42%)

- Thủ tục hành chính, pháp lý (32%)

- Cung ứng nguyên vật liệu (28%)

- Thiếu thông tin, kiến thức, kỹ năng (25%)

- Cơ sở hạ tầng địa phương chưa đồng bộ (23%)

- Năng lực quản trị doanh nghiệp (21%)

- Cân bằng công việc kinh doanh và gia đình (17%)

Bài báo cáo "Đánh giá nhu cầu hỗ trợ của doanh nghiệp nhỏ và vừa do phụ nữ làm chủ ở Việt Nam" được thực hiện vào tháng 4 năm 2018 bởi VCCI, Quỹ Châu Á (TAF) và Sáng kiến Hỗ trợ khu vực tư nhân vùng Mekong (MBI) Nghiên cứu này tập trung vào việc xác định các nhu cầu hỗ trợ của các doanh nghiệp do phụ nữ lãnh đạo, nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững và nâng cao khả năng cạnh tranh trong bối cảnh kinh tế hiện nay.

Mặc dù phải đối mặt với nhiều thách thức, tình hình sản xuất kinh doanh của cả doanh nghiệp nữ và nam vẫn tương đồng, cho thấy năng lực quản lý và điều hành của doanh nghiệp nữ không thua kém so với doanh nghiệp nam.

Tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh cho doanh nghiệp nữ

Quy định pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ

Nghị định 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 về hỗ trợ DNNVV (hết hiệu lực ngày 11/3/2018)

Trước khi Luật Hỗ trợ DNNVV 2017 ra đời, dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp đối với doanh nghiệp do nữ làm chủ được quy định tại Nghị định 56/2009/NĐ-

CP, khoản 1 Điều 5 quy định:

Chương trình trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa của Nhà nước nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội, tập trung vào các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt ưu tiên cho những doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ và sử dụng nhiều lao động nữ Chương trình này được xây dựng trong kế hoạch hàng năm và 5 năm, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của các doanh nghiệp trong các ngành và địa bàn khác nhau.

Các chương trình trợ giúp của Nhà nước theo Nghị định này bao gồm:

Để hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), cần thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng và khuyến khích các dự án hỗ trợ kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực cho các tổ chức tài chính Điều này sẽ giúp mở rộng tín dụng cho DNNVV thông qua việc đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ, cung cấp tư vấn tài chính, quản lý đầu tư và các dịch vụ hỗ trợ khác Bên cạnh đó, việc đào tạo và nâng cao năng lực lập dự án, cũng như phương án kinh doanh khi vay vốn là rất quan trọng để đảm bảo sự phát triển bền vững cho DNNVV.

Chính quyền hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa bằng cách dành quỹ đất và khuyến khích xây dựng các khu, cụm công nghiệp Điều này giúp họ có mặt bằng sản xuất, kinh doanh thuận lợi, đồng thời tạo điều kiện di dời ra khỏi nội thành, nội thị nhằm bảo vệ cảnh quan môi trường.

Đổi mới và nâng cao năng lực công nghệ là yếu tố then chốt trong việc cải thiện trình độ kỹ thuật Điều này bao gồm việc đổi mới công nghệ và thiết bị kỹ thuật, nghiên cứu và phát triển công nghệ sản xuất sản phẩm mới, cũng như chuyển giao công nghệ và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật Hơn nữa, việc giới thiệu và cung cấp thông tin về công nghệ, thiết bị cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) là rất quan trọng, cùng với việc hỗ trợ đánh giá và lựa chọn công nghệ phù hợp Ngoài ra, hỗ trợ kinh phí cho việc đổi mới công nghệ cũng góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững.

- Xúc tiến mở rộng thị trường (hỗ trợ kinh phí thực hiện);

Tham gia kế hoạch mua sắm và cung ứng dịch vụ công là cơ hội quan trọng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), trong đó có một tỉ lệ nhất định được dành cho họ thực hiện các hợp đồng hoặc đơn đặt hàng cung cấp hàng hóa và dịch vụ công.

Chúng tôi cung cấp dịch vụ tư vấn và thông tin hữu ích về các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động doanh nghiệp, các chính sách và chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa Ngoài ra, chúng tôi cũng cung cấp thông tin khác nhằm hỗ trợ hiệu quả cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

- Trợ giúp phát triển nguồn nhân lực (hướng dẫn xây dựng kế hoạch trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực);

Vườn ươm doanh nghiệp là nơi hỗ trợ có thời hạn cho các doanh nghiệp trong giai đoạn khởi sự, cung cấp không gian và dịch vụ hỗ trợ kinh doanh Qua đó, vườn ươm giúp các doanh nghiệp hiện thực hóa và thương mại hóa ý tưởng kinh doanh cũng như công nghệ bằng cách cung cấp các nguồn lực cần thiết.

Nghị định hiện hành đề cập đến việc hỗ trợ doanh nghiệp do nữ làm chủ, nhưng chỉ dừng lại ở những quy định chung chung mà thiếu hướng dẫn cụ thể Điều này dẫn đến việc phần lớn doanh nghiệp không nắm rõ các quy định hỗ trợ dành cho họ, cũng như không biết cách thức để tiếp cận và hưởng lợi từ các chương trình hỗ trợ này.

Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 2017

Luật Hỗ trợ DNNVV 2017 quy định rõ nguyên tắc hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) do phụ nữ làm chủ Cụ thể, nếu một DNNVV đáp ứng nhiều điều kiện hỗ trợ khác nhau, doanh nghiệp có quyền chọn mức hỗ trợ có lợi nhất Đồng thời, trong trường hợp có nhiều DNNVV đủ điều kiện, ưu tiên sẽ được dành cho các doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ và những doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ hơn.

Các hình thức hỗ trợ áp dụng với doanh nghiệp nữ làm chủ thực hiện tương tự như các DNNVV khác, bao gồm:

- Hỗ trợ tiếp cận tín dụng

- Hỗ trợ thuế, kế toán

- Hỗ trợ mặt bằng sản xuất

- Hỗ trợ công nghệ; hỗ trợ cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật, khu làm việc chung

- Hỗ trợ mở rộng thị trường

- Hỗ trợ thông tin, tư vấn và pháp lý

- Hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực

- Hỗ trợ chuyển đổi thành mô hình doanh nghiệp từ hộ kinh doanh

- Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo

- Đầu tư cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo

- Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị

- Thành lập Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa

Các quy định hiện tại chủ yếu mang tính chất chung chung, với phạm vi áp dụng rộng rãi cho hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) Tuy nhiên, chưa có sự định hướng rõ ràng dành riêng cho các nhóm đối tượng đặc thù, đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp.

Nghị định 39/2018/NĐ-CP quy định nguyên tắc hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), trong đó ưu tiên doanh nghiệp do nữ làm chủ và doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ Các doanh nghiệp này sẽ được xem xét và nộp hồ sơ hỗ trợ trước khi các doanh nghiệp khác.

Quyết định 939/QĐ-TTg ngày 30/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017-2025"

Nhằm nâng cao nhận thức của phụ nữ về chính sách khởi nghiệp của Đảng và Nhà nước, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 939/QĐ-TTg Quyết định này nhằm xây dựng chương trình hỗ trợ phụ nữ trong việc đổi mới sáng tạo và phát triển kinh doanh, thúc đẩy hiện thực hóa các ý tưởng khởi nghiệp.

- Tổ chức Ngày Phụ nữ Khởi nghiệp tại các cấp Hội Phụ nữ

- Lựa chọn các ý tưởng, mô hình khởi nghiệp, khởi sự kinh doanh khả thi để hỗ trợ thực hiện, nhân rộng

- Nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp nữ mới thành lập

- Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ Hội thông qua thiết lập cơ sở hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp của các cấp Hội

Phấn đấu đến năm 2025 đạt được các mục tiêu:

90% cán bộ Hội chuyên trách các cấp đã nâng cao nhận thức và phương pháp hỗ trợ phụ nữ trong khởi nghiệp và phát triển kinh doanh thông qua việc tham gia triển khai Đề án.

- 70% hội viên phụ nữ được tuyên truyền, nâng cao nhận thức về việc làm, khởi nghiệp

- Hỗ trợ 20.000 phụ nữ khởi sự kinh doanh và khởi nghiệp

- Phối hợp, hỗ trợ thành lập 1.200 tổ hợp tác/hợp tác xã do phụ nữ quản lý

- 100.000 doanh nghiệp của phụ nữ mới thành lập được tư vấn, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp.

Nhận thức về DVHTKD

Khoảng 68 đến 72% doanh nghiệp nữ trên toàn quốc nhận biết về các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp địa phương, với tỷ lệ này tương đối đồng đều giữa các vùng.

Hình 26: Tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ nhận biết về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tại địa phương

Doanh nghiệp nhỏ thường có mức độ nhận thức thấp hơn về dịch vụ hỗ trợ khởi nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ, nơi có tới 73% doanh nghiệp nữ hoạt động.

Hình 27: Tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ nhận biết về các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tại địa phương (theo quy mô doanh nghiệp)

Tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ nhận thức về các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tại địa phương được phân tích theo từng lĩnh vực hoạt động Sự hiểu biết này đóng vai trò quan trọng trong việc tận dụng các cơ hội hỗ trợ từ chính quyền, giúp nâng cao hiệu quả hoạt động và phát triển bền vững cho các doanh nghiệp do nữ lãnh đạo.

Kết quả khảo sát cho thấy, mặc dù doanh nghiệp nhận thức được chính sách hỗ trợ tại địa phương, nhưng phần lớn vẫn thiếu thông tin cụ thể về các nhà cung cấp dịch vụ hỗ trợ kinh doanh (DVHTKD), đặc biệt là trong các lĩnh vực tài chính, kế toán, thuế, kiểm toán, tư vấn pháp lý và công nghệ Điều này khiến doanh nghiệp, dù có nhu cầu, khó tìm được nhà cung cấp phù hợp Đối với các doanh nghiệp siêu nhỏ, tâm lý ngại ngùng của chủ doanh nghiệp lớn tuổi, cùng với rào cản về khả năng ngoại ngữ và kỹ năng công nghệ thông tin, đã hạn chế khả năng tiếp cận thông tin và kiến thức kinh doanh trong và ngoài nước.

Tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ cho thấy hầu hết đều đủ điều kiện hưởng các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tại 6 vùng trên cả nước Kết quả này không chỉ đúng với các doanh nghiệp nữ mà còn tương tự khi tính theo lĩnh vực hoạt động hoặc quy mô doanh nghiệp.

Tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ đủ điều kiện nhận hỗ trợ từ các chính sách doanh nghiệp phụ thuộc vào lĩnh vực hoạt động của họ.

Tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ đủ điều kiện nhận hỗ trợ theo các chính sách doanh nghiệp phụ thuộc vào quy mô của doanh nghiệp.

Mặc dù nhiều doanh nghiệp tin rằng họ đủ điều kiện để nhận hỗ trợ từ chính sách địa phương, quan điểm của các cơ quan nhà nước lại khác Hầu hết các cơ quan phỏng vấn khẳng định họ thực hiện đúng quy định pháp luật và không cung cấp dịch vụ hỗ trợ kinh doanh riêng cho doanh nghiệp nữ Nhiều cơ quan thiếu thông tin về số lượng doanh nghiệp do nữ làm chủ và lao động nữ trong khu vực Dù có một số cơ quan phối hợp với Hội Liên hiệp phụ nữ tổ chức đào tạo cho doanh nghiệp nữ, nhưng thông tin về số khóa học và doanh nghiệp nữ tham gia vẫn chưa được thống kê rõ ràng.

“Hội Liên hiệp phụ nữ làm đầu mối nên Hội mới nắm rõ”

Tuy Luật Hỗ trợ DNNVV quy định ưu tiên hỗ trợ doanh nghiệp nữ, nhưng Nghị định 39/2018/NĐ-CP lại chỉ rõ rằng “Doanh nghiệp nhỏ và vừa do nữ làm chủ, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ hơn nộp hồ sơ đáp ứng đủ điều kiện được hỗ trợ trước” Điều này cho thấy các cơ quan không chủ động cung cấp hỗ trợ cho doanh nghiệp nữ, mà họ phải chờ đợi các doanh nghiệp do nữ làm chủ tự tìm đến để được hỗ trợ khi đáp ứng đủ điều kiện.

Mặc dù nhiều doanh nghiệp đủ điều kiện và nắm rõ chính sách hỗ trợ, tỷ lệ thực tế nhận được hỗ trợ vẫn rất thấp Cụ thể, tỷ lệ cao nhất ghi nhận ở vùng Miền núi phía Bắc với 46%, tiếp theo là Đồng bằng Sông Cửu Long 44%, Tây Nguyên 39%, Duyên hải Miền Trung và Đông Nam Bộ cùng 35%, trong khi Đồng bằng Sông Hồng có tỷ lệ thấp nhất là 30%.

11 quy định chi tiết một số điều của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (ban hành ngày 11/3/2018)

Hình 32: Tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ đang được hưởng một trong các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp (theo lĩnh vực hoạt động doanh nghiệp)

Tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ đang được hưởng các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, tuy nhiên, lĩnh vực thương mại/dịch vụ với quy mô nhỏ lại nhận được sự hỗ trợ hạn chế nhất Điều này phản ánh sự ưu ái của các cơ quan nhà nước đối với các doanh nghiệp lớn, ngay cả trong quá trình tham vấn các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp.

Quá trình phỏng vấn sâu cho thấy rằng, trong các hiệp hội doanh nghiệp, ngoại trừ các hiệp hội dành riêng cho doanh nhân nữ, không có tổ chức nào cung cấp hỗ trợ đặc biệt cho hội viên là doanh nghiệp nữ Họ xem đây là vấn đề thuộc về Hội liên hiệp Phụ nữ và các tổ chức riêng biệt của doanh nhân nữ.

Mặc dù nhóm doanh nghiệp do nữ làm chủ được coi là một đối tượng quan trọng, nhưng hiện tại chưa có cơ quan nhà nước hay hiệp hội nào (ngoại trừ hiệp hội doanh nhân nữ) thực hiện các hoạt động hỗ trợ cụ thể cho doanh nghiệp với mục tiêu về giới.

Thực tiễn và thị trường cung cấp DVHTKD cho doanh nghiệp nữ

Các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh đang được cung cấp rộng rãi bởi nhiều tổ chức, bao gồm cơ quan nhà nước, VCCI, hiệp hội doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ, viện nghiên cứu, trường đại học, cũng như doanh nghiệp nhà nước và tư nhân Đặc biệt, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã thành lập các câu lạc bộ doanh nhân nữ, tổ chức các hoạt động đào tạo về kiến thức tài chính và quản lý cơ bản.

7.3.1 DVHTKD chủ yếu do khối đơn vị công cung cấp

Tại Việt Nam, ngoài 5 thành phố trực thuộc trung ương, hầu hết các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp tại các tỉnh vẫn được cung cấp theo cách truyền thống, chủ yếu thông qua các tổ chức khu vực công Các hoạt động như tổ chức đoàn xúc tiến thương mại và kết nối kinh doanh chủ yếu do các Trung tâm xúc tiến đầu tư và Sở thực hiện.

Các sở, ngành của tỉnh/thành phố, như Kế hoạch và Đầu tư, Sở Công Thương, đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp thông qua các trung tâm đào tạo lao động, tư vấn pháp lý và cung cấp thông tin Nhiều tỉnh/thành phố có Trung tâm hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp, giúp hướng dẫn doanh nghiệp tiếp cận các chính sách hỗ trợ từ Trung ương và địa phương Những hoạt động này bao gồm kích cầu, đầu tư, xúc tiến thương mại, đào tạo nguồn nhân lực, và kết nối doanh nghiệp thông qua tổ chức hội nghị, triển lãm, và quảng bá thương hiệu Thêm vào đó, việc liên kết các doanh nghiệp trong sản xuất, cung ứng sản phẩm và phát triển nguồn nhân lực cũng được chú trọng nhằm tạo ra các chuỗi giá trị bền vững.

Tại các sở ngành của tỉnh, có bộ phận và cán bộ chuyên cung cấp dịch vụ tư vấn hỗ trợ doanh nghiệp theo chuyên môn Những bộ phận này có thể hoạt động chuyên trách hoặc kiêm nhiệm Hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp của chính quyền địa phương và các sở ngành hiện nay chủ yếu tập trung vào những vấn đề quan trọng.

- Hỗ trợ, hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện các thủ tục hành chính;

Chúng tôi cam kết tập trung vào việc giải quyết các vướng mắc và khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải trong quá trình sản xuất kinh doanh Điều này được thực hiện thông qua các hội nghị đối thoại giữa chính quyền và các sở ngành với doanh nghiệp, cũng như việc tiếp nhận và xử lý các vấn đề qua các bộ phận một cửa tại các sở ngành của tỉnh.

Cung cấp thông tin cho doanh nghiệp qua các khóa đào tạo và tập huấn là rất quan trọng, bao gồm chương trình hỗ trợ pháp lý, kiến thức về marketing, thương mại điện tử, thương mại quốc tế, ứng dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo và quản trị tài chính Những hoạt động này thường được tổ chức dưới hình thức hội nghị và lớp bồi dưỡng về pháp luật trong sản xuất kinh doanh, giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực và phát triển bền vững.

Tỉnh đã triển khai nhiều chương trình xúc tiến thương mại, bao gồm tổ chức hội chợ trong và ngoài tỉnh, nhằm tạo cơ hội cho các doanh nghiệp địa phương tham gia Trong các chương trình này, tỉnh hỗ trợ doanh nghiệp chi phí thuê gian hàng để giới thiệu sản phẩm, và đôi khi còn hỗ trợ cả chi phí vận chuyển.

Tỉnh cung cấp chương trình đào tạo lao động tại các doanh nghiệp, hỗ trợ cung ứng nguồn nhân lực cho doanh nghiệp và triển khai chương trình thông tin giới thiệu việc làm cho người lao động.

Theo kết quả điều tra PCI 2017, có đến 51% doanh nghiệp siêu nhỏ, 50% doanh nghiệp nhỏ và 53% doanh nghiệp vừa cho rằng thủ tục và hồ sơ để nhận các chính sách hỗ trợ không hề đơn giản.

Doanh nghiệp do nữ làm chủ gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận thủ tục và hồ sơ nhận chính sách hỗ trợ Nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước, như Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành (chương trình 585), rất hạn chế tại một số cơ quan như Sở Tư pháp Thêm vào đó, nguồn nhân lực ngành luật tại nhiều địa phương cũng khiêm tốn, không đủ đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp.

Nhiều tỉnh có tiềm năng du lịch tổ chức các hoạt động xúc tiến du lịch với kết quả khác nhau Một số địa phương đầu tư lớn vào xúc tiến nhưng không đạt hiệu quả như mong đợi, phần lớn do tiềm năng du lịch chưa đủ sức hấp dẫn du khách.

Nhiều doanh nghiệp du lịch tham gia khảo sát cho rằng hoạt động xúc tiến du lịch tại địa phương chưa hiệu quả Họ chỉ ra rằng nguyên nhân chính là do trình độ quản lý yếu kém, dẫn đến các hoạt động xúc tiến trở nên cũ kỹ và thiếu sức hấp dẫn, không thu hút được du khách.

7.3.2 DVHTKD và hỗ trợ doanh nghiệp do Hội Liên hiệp phụ nữ cung cấp

Trong khuôn khổ Đề án “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017 - 2025”, các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ đã triển khai nhiều hoạt động hỗ trợ tại các địa phương, nhận được sự phối hợp và hỗ trợ kịp thời từ các ngành, đơn vị Đề án cũng nhận được sự hưởng ứng tích cực từ chị em phụ nữ trong tỉnh Tuy nhiên, phần lớn các kế hoạch mới chỉ được thực hiện từ năm 2018.

Ngày hội Phụ nữ khởi nghiệp đầu tiên được tổ chức ở cấp quốc gia từ 12-15/10/2018 tại Trung tâm Phụ nữ và Phát triển, nhân dịp kỷ niệm 88 năm thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10.

Đến nay, 60/63 tỉnh/thành phố đã được Ủy ban Nhân dân phê duyệt Đề án khởi nghiệp với tổng kinh phí hoạt động năm 2018 gần 56 tỷ đồng Các cấp Hội đang tích cực truyền thông về khởi nghiệp thông qua nhiều mô hình đa dạng và chuỗi hoạt động hỗ trợ thiết thực cho từng đề án Trong đó, Ngày Phụ nữ khởi nghiệp được tổ chức, giúp lựa chọn, hướng dẫn và hỗ trợ 8.651 phụ nữ khởi sự kinh doanh Tuy nhiên, con số này vẫn còn khiêm tốn cả về ngân sách và số lượng phụ nữ được hỗ trợ, đồng thời hoạt động của các Hội liên hiệp phụ nữ chưa thực sự chuyên nghiệp do trước đây chủ yếu tập trung vào công tác từ thiện và phong trào.

Chất lượng của các DVHTKD

7.4.1 Chất lượng của dịch vụ do khối công lập cung cấp

Nghiên cứu PCI chỉ ra rằng sự phát triển của các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp (DVHTKD) tại Việt Nam còn hạn chế, đặc biệt ở các tỉnh, thành phố ngoài 5 thành phố trực thuộc trung ương, với chất lượng dịch vụ thường thấp Điều này góp phần vào sự gia tăng số lượng doanh nghiệp tạm ngưng hoạt động, giải thể và phá sản, do họ không thể tiếp cận các dịch vụ tư vấn và hỗ trợ cần thiết cho quá trình tái cơ cấu và duy trì hoạt động.

Hình 35: Đánh giá của doanh nghiệp do nữ làm chủ theo quy mô doanh nghiệp về chất lượng hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp ở địa phương

Hình 36: Đánh giá của doanh nghiệp do nữ làm chủ trong các lĩnh vực về chất lượng hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp ở địa phương

Mặc dù các doanh nghiệp được đánh giá theo quy mô và lĩnh vực hoạt động, điểm số hỗ trợ doanh nghiệp theo tỉnh chỉ đạt mức trên trung bình, dao động từ 6,0 đến 6,2 điểm trên thang 10, và chưa đạt mức trung bình khá.

Chỉ có hai thành phố, Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh, đạt điểm đánh giá trên 7/10 về hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp, trong khi các tỉnh/thành phố còn lại chỉ đạt từ 4,5 đến 6,9 Điều này cho thấy chất lượng dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp ở hầu hết các địa phương là hạn chế.

Hầu hết các tỉnh đều có trung tâm xúc tiến thương mại và tổ chức các chương trình hội chợ, triển lãm thương mại, với trung bình khoảng 10 hội chợ mỗi năm, dao động từ 4 đến 20 cuộc tùy tỉnh Theo khảo sát PCI năm 2017, 59% doanh nghiệp đã sử dụng dịch vụ xúc tiến thương mại, chủ yếu từ cơ quan nhà nước Tuy nhiên, chỉ 60% doanh nghiệp cho biết họ sẽ tiếp tục sử dụng dịch vụ này, thấp hơn so với các dịch vụ khác như thông tin thị trường, tư vấn pháp luật, tìm kiếm đối tác kinh doanh, đào tạo công nghệ, kế toán tài chính và quản trị doanh nghiệp.

Các cơ quan nhà nước đang tích cực phổ biến kiến thức và chính sách mới cho doanh nghiệp, đặc biệt trong các lĩnh vực như thuế, hải quan và lao động Doanh nghiệp tham gia các hoạt động tập huấn đều hài lòng về chất lượng, và nhiều doanh nghiệp cho biết họ đã được chọn tham gia các dự án hỗ trợ nâng cao năng lực sản xuất từ chính quyền, mang lại sự hài lòng cao.

Chất lượng hoạt động tư vấn và đào tạo của các doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào giảng viên được thuê Nếu giảng viên có trình độ tốt, khóa tập huấn sẽ đạt hiệu quả cao hơn.

Mặc dù hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp đã được tăng cường và nhận được sự quan tâm từ lãnh đạo chính quyền và các sở ngành địa phương, nhiều địa phương vẫn gặp phải một số hạn chế trong quá trình triển khai.

- Nhiều địa phương chưa có chương trình phát triển các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp một cách tổng thể Nhận định từ một cán bộ tỉnh cho thấy:

Tỉnh hiện chưa có một chương trình hoạt động cụ thể và hiệu quả để hỗ trợ doanh nghiệp phát triển Các đề án hỗ trợ doanh nghiệp vẫn thiếu một ban chỉ đạo chung và kế hoạch tổng thể, dẫn đến hoạt động chủ yếu mang tính cảm tính.

Các kế hoạch chương trình hỗ trợ doanh nghiệp thường bị chia nhỏ theo từng năm và giới hạn trong nội bộ từng sở, ngành, dẫn đến hiệu quả hoạt động thấp và không có tác động rõ rệt Điều này không chỉ gây lãng phí kinh tế mà còn làm giảm hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước Việc triển khai thực hiện phụ thuộc vào hành động của từng sở, dẫn đến tình trạng có những sở chủ động và tích cực trong việc thực hiện các đề án hỗ trợ doanh nghiệp, trong khi một số sở khác lại thiếu chủ động và không tích cực tiến hành hoạt động này.

Tình trạng thiếu kinh phí và nguồn lực trong việc triển khai các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp đang diễn ra phổ biến Nhiều chương trình và đề án hỗ trợ doanh nghiệp chỉ dừng lại ở việc xây dựng kế hoạch mà chưa thể thực hiện do thiếu nguồn tài chính.

Chất lượng công tác đào tạo và tập huấn hiện nay còn thấp, mặc dù có nhiều chương trình và khóa học được tổ chức, nhưng chủ yếu tập trung vào số lượng mà không chú trọng đến chất lượng Nội dung các khóa học thường không thực tế và không phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp Một doanh nghiệp tại Bắc Ninh đã phản ánh rằng: “tỉnh đã tổ chức khá nhiều khóa đào tạo nhưng không phải là những nội dung doanh nghiệp cần và quan tâm; tỉnh chỉ cung cấp cái tỉnh có mà chưa nắm bắt cái doanh nghiệp cần.”

Hầu hết các tỉnh chưa thực hiện khảo sát đánh giá chất lượng dịch vụ cung ứng, dẫn đến thiếu cơ sở dữ liệu cho việc cải thiện chất lượng và hiệu quả hoạt động.

Nhiều địa phương vẫn chưa minh bạch trong việc triển khai các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp, khiến nhiều doanh nghiệp không nhận được thông tin kịp thời về các chính sách ưu đãi Một lãnh đạo Hiệp hội doanh nghiệp cho biết các thủ tục vay vốn tín dụng rất phức tạp, làm giảm khả năng tiếp cận Tình trạng tương tự cũng xảy ra với các chương trình hỗ trợ đổi mới công nghệ, khi việc lựa chọn doanh nghiệp hỗ trợ chỉ diễn ra nội bộ mà không có sự công khai, minh bạch Hệ quả là chỉ những doanh nghiệp lớn mới có thể tiếp cận thông tin và tận dụng các chương trình hỗ trợ, trong khi các doanh nghiệp nhỏ, đối tượng cần được quan tâm, lại không biết và gặp khó khăn trong việc tiếp cận.

- Thiếu vắng hoạt động dịch vụ tư vấn về tài chính, kế toán, thuế, kiểm toán, tư vấn pháp lý doanh nghiệp…

Hoạt động xúc tiến đầu tư hiện nay còn yếu kém, thiếu hụt các kênh thông tin về thị trường và kết nối với đối tác, bạn hàng, nhà cung cấp Ngoài ra, cũng thiếu các kênh tư vấn về nhãn hàng, xây dựng thương hiệu, sản phẩm, cũng như tư vấn về chính sách kinh tế và quy hoạch phát triển.

Cơ chế phối hợp giữa các sở ngành trong việc tháo gỡ khó khăn và hỗ trợ doanh nghiệp hiện vẫn còn nhiều hạn chế và kém hiệu quả Trong nhiều trường hợp, sự tham gia miễn phí hoặc sâu rộng của cơ quan nhà nước và các tổ chức có ngân sách nhà nước vào cung cấp dịch vụ hỗ trợ kinh doanh (DVHTKD) có thể dẫn đến sự méo mó trong thị trường.

7.4.2 Chất lượng của dịch vụ do khối tư nhân cung cấp

Thực tiễn tốt về cung cấp DVHTKD cho các doanh nghiệp nữ

Mặc dù nam và nữ đều phải thực hiện các bước tương tự để thành lập doanh nghiệp, phụ nữ thường gặp nhiều khó khăn hơn trong quá trình này Những thách thức này xuất phát từ sự chênh lệch về kinh nghiệm nghề nghiệp, trình độ học vấn và khả năng tiếp cận các nguồn hỗ trợ cần thiết Thêm vào đó, môi trường pháp lý cũng tạo ra rào cản, khi nhiều phụ nữ chưa có quyền sở hữu tài sản, điều này hạn chế khả năng sử dụng tài sản làm thế chấp để vay vốn ngân hàng.

Các chính sách và chương trình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) hiện tại thường không thu hút được nhiều phụ nữ tham gia Để khuyến khích sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực kinh tế, cần thiết phải xây dựng các chính sách và chương trình hỗ trợ riêng biệt dành cho họ.

Các chương trình đào tạo và hỗ trợ kỹ thuật dành riêng cho phụ nữ là cần thiết và đã chứng minh hiệu quả trong việc phát triển mạng lưới kinh doanh Những chương trình này đáp ứng tốt các yêu cầu cụ thể của doanh nghiệp nữ, với thông tin được truyền tải phù hợp Tuy nhiên, cần thường xuyên theo dõi và đánh giá kết quả hoạt động để nâng cao hiệu quả của các chương trình hỗ trợ này.

Việc ban hành chính sách mới hay triển khai chương trình hỗ trợ cho doanh nhân nữ là cần thiết, nhưng chưa đủ để đảm bảo sự hỗ trợ kịp thời và thường xuyên Để thành công, các chương trình này cần sự tham gia của nhiều thành phần trong xã hội, từ đó xây dựng và phát triển các tổ chức hội cũng như mạng lưới doanh nhân nữ Sự tham gia này không chỉ giúp nâng cao hiệu quả của các chương trình hỗ trợ mà còn giảm bớt gánh nặng về ngân sách và quản lý cho các cơ quan nhà nước.

7.5.1 Xây dựng khung chiến lược về phát triển doanh nghiệp nữ (kinh nghiệm của nước Anh)

According to data from the Global Entrepreneurship Monitor, the percentage of female-owned businesses in the UK is significantly lower compared to male-owned enterprises, highlighting a notable gender disparity in entrepreneurship.

Mỹ, Canada và Pháp đã cung cấp bằng chứng cho một nghiên cứu cho thấy Chính phủ Anh cần hỗ trợ nhiều hơn cho doanh nghiệp nữ Vào tháng 5 năm 2003, Bộ Thương mại và Công nghiệp Anh (DTI) đã ban hành khung chiến lược phát triển doanh nghiệp nữ, trong đó tổ chức Prowess đóng vai trò quan trọng trong việc thiết kế.

Khung Chiến lược được chia thành ba nhóm chính sách quan trọng, liên quan chặt chẽ đến hoạt động của AWE, bao gồm trách nhiệm chăm sóc con cái và gia đình, các quy định hỗ trợ kinh doanh, và tài chính.

Khung chiến lược nhấn mạnh tầm quan trọng của việc khuyến khích phụ nữ tham gia vào việc thành lập và phát triển doanh nghiệp, qua đó góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế quốc gia Một trong những mục tiêu chính là cung cấp hỗ trợ cần thiết cho các doanh nghiệp nữ, đặc biệt là những phụ nữ mong muốn mở rộng hoặc khởi nghiệp Đồng thời, khung chiến lược cũng thừa nhận sự thiếu hụt của một chiến lược dài hạn cho phát triển doanh nghiệp nữ và nhấn mạnh sự cần thiết phải áp dụng các phương pháp tiếp cận đa dạng trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn để gia tăng số lượng doanh nghiệp nữ tại Anh.

Mục tiêu ngắn hạn và trung hạn của khung chiến lược là phát triển thị trường dịch vụ hỗ trợ kinh doanh và nâng cao chất lượng dịch vụ với khách hàng làm trung tâm Đồng thời, sẽ chú trọng phát triển các dịch vụ đáp ứng nhu cầu riêng biệt của khách hàng nữ Trong dài hạn, khung chiến lược hướng tới thay đổi nhận thức xã hội về phụ nữ làm chủ doanh nghiệp và điều chỉnh dịch vụ công để phục vụ tốt hơn cho khách hàng nữ Để đạt được mục tiêu này, khung chiến lược đặt ra chỉ tiêu cụ thể, với mục tiêu đến năm 2006, tỷ lệ doanh nghiệp nữ đạt từ 18-20%, tăng từ 12-14% năm 2003 Khung chiến lược cũng đề ra chương trình hành động cụ thể và giao trách nhiệm hỗ trợ doanh nghiệp nữ cho các cơ quan ở cấp vùng và địa phương.

Bộ Thương mại và Công nghiệp Anh có bộ phận Dịch vụ doanh nghiệp nhỏ, chịu trách nhiệm chính trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) tại Anh.

14 UK Department of Trade and Industry Strategic Framework for Women’s Enterprise

15 https://www.prowess.org.uk/ phương Tính đến cuối năm 2005 doanh nghiệp nữ đã chiếm 18-19% trên tổng số doanh nghiệp đăng ký ở Anh

Nghiên cứu của AWE (Accelerating Women's Enterprise) đã chỉ ra rằng việc thiết lập một Khung chiến lược bao gồm nhiều hoạt động quan trọng là rất cần thiết Các hoạt động này đã được kiểm nghiệm và phát triển thành các chính sách bao trùm, nhắm tới các đối tượng cụ thể, đầu ra và biện pháp thực hiện rộng rãi hơn Điển hình, Bộ Thương mại và Công nghiệp Anh đã sử dụng dữ liệu phân tách theo giới để xác định các mục tiêu và xây dựng chính sách giám sát và đánh giá hiệu quả.

7.5.2 Sự vào cuộc của các tổ chức trong xã hội (Thực tiễn tốt ở Western Cape

Tổ chức cung cấp dịch vụ do nhà nước bảo trợ ở Western Cape đã nhận thấy rằng phụ nữ là một trong những khách hàng tốt nhất của họ, với sự sáng tạo và khả năng tìm kiếm những cách thức kinh doanh mới mẻ Tầm quan trọng của doanh nghiệp nữ tại Western Cape ngày càng được công nhận, nhờ vào các chương trình mua sắm nhắm đến nhóm đối tượng này Mạng lưới phụ nữ trong khu vực cũng rất mạnh mẽ, mang lại lợi ích cho các doanh nhân nữ Mặc dù cơ quan này không muốn phân biệt giới tính, họ đã triển khai một chiến dịch nhằm tăng cường lượng khách hàng nữ, hiện chiếm khoảng 35% tổng số khách hàng thường xuyên.

Các nhà tài trợ, tổ chức công quốc tế, chính quyền, tổ chức phi chính phủ, doanh nghiệp tư nhân, viện nghiên cứu và hiệp hội doanh nghiệp đang tích cực triển khai các chương trình và chính sách nhằm khuyến khích tinh thần kinh doanh của phụ nữ Họ tổ chức các khóa đào tạo kỹ năng, tăng cường mạng lưới phụ nữ, cung cấp tài chính và hỗ trợ khởi nghiệp, với niềm tin rằng doanh nghiệp do nữ lãnh đạo là yếu tố then chốt cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế Nhiều ý kiến còn cho rằng đóng góp của nữ doanh nhân có xu hướng vượt trội hơn so với nam giới.

Trong những năm gần đây, sự quan tâm đối với phụ nữ và doanh nhân nữ tại các quốc gia đang phát triển đã gia tăng đáng kể, thể hiện một xu hướng tích cực trong việc nâng cao vai trò của họ trong nền kinh tế và xã hội.

Những nguồn lực chưa được khai thác để phát triển ngày càng trở nên cần thiết cho các nhà hoạch định chính sách và những người hoạt động trong lĩnh vực phát triển Mặc dù có nhiều sáng kiến hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp ở các nước đang phát triển, họ vẫn chiếm tỷ lệ thấp trong việc sở hữu và điều hành doanh nghiệp, thu nhập thấp hơn và thường gặp khó khăn trong việc duy trì hoạt động kinh doanh Công việc của phụ nữ vẫn thường bị xem là "vô hình" và không được công nhận, nhưng họ đang nỗ lực thách thức hiện trạng này Các cơ chế điều chỉnh những "sai lầm văn hóa" đang dần được hình thành, và tiếng nói của phụ nữ đang được lắng nghe trong việc cải thiện tình trạng kinh tế xã hội và công nhận đóng góp của họ cho sự phát triển đất nước.

7.5.3 Doanh nghiệp xã hội hoạt động vì doanh nghiệp nữ (thực tiễn tốt ở Hoa Kỳ)

Ngày đăng: 22/09/2021, 19:17

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình 1: Đóng góp của DNNVV vào tăng trưởng kinh tế - BÁO CÁO TIẾP CẬN DỊCH VỤ HỖ TRỢ KINH DOANH đối VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NỮ TẠI VIỆT NAM
Hình 1 Đóng góp của DNNVV vào tăng trưởng kinh tế (Trang 11)
Hình 2: Hệ thống thể chế hỗ trợ DNNVV tại Việt Nam - BÁO CÁO TIẾP CẬN DỊCH VỤ HỖ TRỢ KINH DOANH đối VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NỮ TẠI VIỆT NAM
Hình 2 Hệ thống thể chế hỗ trợ DNNVV tại Việt Nam (Trang 15)
Hình 3: Tỷ lệ doanh nghiệp làm ăn có lãi so sánh theo có sử dụng DVHTKD - BÁO CÁO TIẾP CẬN DỊCH VỤ HỖ TRỢ KINH DOANH đối VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NỮ TẠI VIỆT NAM
Hình 3 Tỷ lệ doanh nghiệp làm ăn có lãi so sánh theo có sử dụng DVHTKD (Trang 18)
Hình 4: Tỷ lệ doanh nghiệp sẽ mở rộng quy mô SXKD so sánh theo có sử dụng DVHTKD - BÁO CÁO TIẾP CẬN DỊCH VỤ HỖ TRỢ KINH DOANH đối VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NỮ TẠI VIỆT NAM
Hình 4 Tỷ lệ doanh nghiệp sẽ mở rộng quy mô SXKD so sánh theo có sử dụng DVHTKD (Trang 19)
Hình 6: Tỷ lệ doanh nghiệp theo giới trong điều tra PCI 2017 - BÁO CÁO TIẾP CẬN DỊCH VỤ HỖ TRỢ KINH DOANH đối VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NỮ TẠI VIỆT NAM
Hình 6 Tỷ lệ doanh nghiệp theo giới trong điều tra PCI 2017 (Trang 22)
Hình 7: Phân loại lĩnh vực hoạt động theo giới của chủ doanh nghiệp - BÁO CÁO TIẾP CẬN DỊCH VỤ HỖ TRỢ KINH DOANH đối VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NỮ TẠI VIỆT NAM
Hình 7 Phân loại lĩnh vực hoạt động theo giới của chủ doanh nghiệp (Trang 23)
Hình 8: Phân bố giới của chủ doanh nghiệp theo lĩnh vực hoạt động - BÁO CÁO TIẾP CẬN DỊCH VỤ HỖ TRỢ KINH DOANH đối VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NỮ TẠI VIỆT NAM
Hình 8 Phân bố giới của chủ doanh nghiệp theo lĩnh vực hoạt động (Trang 23)
Hình 11: Tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ theo tỉnh trong vùng Đồng bằng Sông Hồng  - BÁO CÁO TIẾP CẬN DỊCH VỤ HỖ TRỢ KINH DOANH đối VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NỮ TẠI VIỆT NAM
Hình 11 Tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ theo tỉnh trong vùng Đồng bằng Sông Hồng (Trang 24)
Hình 9: Phân bố giới của chủ doanh nghiệp theo vùng - BÁO CÁO TIẾP CẬN DỊCH VỤ HỖ TRỢ KINH DOANH đối VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NỮ TẠI VIỆT NAM
Hình 9 Phân bố giới của chủ doanh nghiệp theo vùng (Trang 24)
Hình 10: Tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ theo tỉnh trong vùng Miền núi phía Bắc  - BÁO CÁO TIẾP CẬN DỊCH VỤ HỖ TRỢ KINH DOANH đối VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NỮ TẠI VIỆT NAM
Hình 10 Tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ theo tỉnh trong vùng Miền núi phía Bắc (Trang 24)
Hình 14: Tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ theo tỉnh trong vùng Đông Nam Bộ  - BÁO CÁO TIẾP CẬN DỊCH VỤ HỖ TRỢ KINH DOANH đối VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NỮ TẠI VIỆT NAM
Hình 14 Tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ theo tỉnh trong vùng Đông Nam Bộ (Trang 25)
Hình 12: Tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ theo tỉnh trong vùng Duyên hải miền Trung  - BÁO CÁO TIẾP CẬN DỊCH VỤ HỖ TRỢ KINH DOANH đối VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NỮ TẠI VIỆT NAM
Hình 12 Tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ theo tỉnh trong vùng Duyên hải miền Trung (Trang 25)
Hình 13: Tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ theo tỉnh trong vùng Tây Nguyên  - BÁO CÁO TIẾP CẬN DỊCH VỤ HỖ TRỢ KINH DOANH đối VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NỮ TẠI VIỆT NAM
Hình 13 Tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ theo tỉnh trong vùng Tây Nguyên (Trang 25)
Hình 16: Phân loại lĩnh vực hoạt động theo giới của chủ doanh nghiệp - BÁO CÁO TIẾP CẬN DỊCH VỤ HỖ TRỢ KINH DOANH đối VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NỮ TẠI VIỆT NAM
Hình 16 Phân loại lĩnh vực hoạt động theo giới của chủ doanh nghiệp (Trang 26)
Hình 17: Phân bố giới của chủ doanh nghiệp theo lĩnh vực hoạt động - BÁO CÁO TIẾP CẬN DỊCH VỤ HỖ TRỢ KINH DOANH đối VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NỮ TẠI VIỆT NAM
Hình 17 Phân bố giới của chủ doanh nghiệp theo lĩnh vực hoạt động (Trang 26)
I. Nông, lâm nghiệp  và  thủy  - BÁO CÁO TIẾP CẬN DỊCH VỤ HỖ TRỢ KINH DOANH đối VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NỮ TẠI VIỆT NAM
ng lâm nghiệp và thủy (Trang 27)
Hình 18: Phân loại quy mô doanh nghiệp theo giới của chủ doanh nghiệp - BÁO CÁO TIẾP CẬN DỊCH VỤ HỖ TRỢ KINH DOANH đối VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NỮ TẠI VIỆT NAM
Hình 18 Phân loại quy mô doanh nghiệp theo giới của chủ doanh nghiệp (Trang 27)
6.2.2. Tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp - BÁO CÁO TIẾP CẬN DỊCH VỤ HỖ TRỢ KINH DOANH đối VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NỮ TẠI VIỆT NAM
6.2.2. Tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (Trang 28)
Hình 19: Phân bố giới của chủ doanh nghiệp theo quy mô doanh nghiệp - BÁO CÁO TIẾP CẬN DỊCH VỤ HỖ TRỢ KINH DOANH đối VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NỮ TẠI VIỆT NAM
Hình 19 Phân bố giới của chủ doanh nghiệp theo quy mô doanh nghiệp (Trang 28)
Hình 21: Triển vọng kinh doanh trong 2 năm tới theo giới của chủ doanh nghiệp - BÁO CÁO TIẾP CẬN DỊCH VỤ HỖ TRỢ KINH DOANH đối VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NỮ TẠI VIỆT NAM
Hình 21 Triển vọng kinh doanh trong 2 năm tới theo giới của chủ doanh nghiệp (Trang 29)
Hình 22: Những khó khăn của doanh nghiệp do nữ làm chủ - BÁO CÁO TIẾP CẬN DỊCH VỤ HỖ TRỢ KINH DOANH đối VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NỮ TẠI VIỆT NAM
Hình 22 Những khó khăn của doanh nghiệp do nữ làm chủ (Trang 30)
Hình 24: Tình hình sản xuất kinh doanh theo giới của chủ doanh nghiệp - BÁO CÁO TIẾP CẬN DỊCH VỤ HỖ TRỢ KINH DOANH đối VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NỮ TẠI VIỆT NAM
Hình 24 Tình hình sản xuất kinh doanh theo giới của chủ doanh nghiệp (Trang 31)
Hình 26: Tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ nhận biết về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tại địa phương - BÁO CÁO TIẾP CẬN DỊCH VỤ HỖ TRỢ KINH DOANH đối VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NỮ TẠI VIỆT NAM
Hình 26 Tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ nhận biết về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tại địa phương (Trang 35)
Hình 27: Tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ nhận biết về các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tại  - BÁO CÁO TIẾP CẬN DỊCH VỤ HỖ TRỢ KINH DOANH đối VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NỮ TẠI VIỆT NAM
Hình 27 Tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ nhận biết về các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tại (Trang 35)
Hình 29: Tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ cho biết có đủ điều kiện được hưởng một trong các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp - BÁO CÁO TIẾP CẬN DỊCH VỤ HỖ TRỢ KINH DOANH đối VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NỮ TẠI VIỆT NAM
Hình 29 Tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ cho biết có đủ điều kiện được hưởng một trong các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp (Trang 36)
Hình 33: Tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ đang được hưởng một trong các chính sách tại  - BÁO CÁO TIẾP CẬN DỊCH VỤ HỖ TRỢ KINH DOANH đối VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NỮ TẠI VIỆT NAM
Hình 33 Tỷ lệ doanh nghiệp do nữ làm chủ đang được hưởng một trong các chính sách tại (Trang 38)
Hình 34: Nhận định của doanh nghiệp do nữ làm chủ về thủ tục, hồ sơ để nhận được các chính sách hỗ trợ  - BÁO CÁO TIẾP CẬN DỊCH VỤ HỖ TRỢ KINH DOANH đối VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NỮ TẠI VIỆT NAM
Hình 34 Nhận định của doanh nghiệp do nữ làm chủ về thủ tục, hồ sơ để nhận được các chính sách hỗ trợ (Trang 40)
Hình 37: Điểm số đánh giá hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp của các tỉnh (phân tách theo giới của chủ doanh nghiệp) - BÁO CÁO TIẾP CẬN DỊCH VỤ HỖ TRỢ KINH DOANH đối VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NỮ TẠI VIỆT NAM
Hình 37 Điểm số đánh giá hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp của các tỉnh (phân tách theo giới của chủ doanh nghiệp) (Trang 48)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w