1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam

200 11 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Tới Kết Quả Nghiên Cứu Khoa Học Của Giảng Viên Các Trường Đại Học Khối Kinh Tế Ở Việt Nam
Tác giả Trần Đại Hải
Người hướng dẫn PGS.TS. Dương Thị Liễu, PGS.TS. Lê Trọng Hùng
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Chuyên ngành Quản Trị Kinh Doanh
Thể loại Luận Án Tiến Sĩ
Năm xuất bản 2021
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 200
Dung lượng 7,21 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU (12)
    • 1.1. Lý do lựa chọn đề tài (12)
    • 1.2. Mục tiêu nghiên cứu (21)
      • 1.2.1. Mục tiêu chung (21)
      • 1.2.2. Mục tiêu cụ thể (21)
    • 1.3. Tổng quan nghiên cứu (22)
      • 1.3.1. Các lý thuyết nền tảng về các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động nghiên cứu (22)
      • 1.3.2. Tổng quan các nghiên cứu của nước ngoài về nghiên cứu khoa học trong trường đại học (27)
      • 1.3.3. Các nghiên cứu tại Việt Nam (35)
    • 1.4. Khoảng trống nghiên cứu (39)
    • 1.5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (40)
    • 1.6. Khái quát về phương pháp nghiên cứu (41)
    • 1.7. Đóng góp mới của luận án (41)
    • 1.8. Kết cấu của luận án (42)
  • CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN (43)
    • 2.1. Nghiên cứu khoa học và kết quả nghiên cứu khoa học (43)
      • 2.1.1. Khái niệm về nghiên cứu khoa học (43)
      • 2.1.2. Vai trò của nghiên cứu khoa học (44)
      • 2.1.3. Phân loại nghiên cứu khoa học (46)
    • 2.2. Kết quả nghiên cứu khoa học (48)
      • 2.2.1. Khái niệm kết quả nghiên cứu khoa học (48)
      • 2.2.2. Đo lường kết quả nghiên cứu khoa học (49)
      • 2.2.3. Các tiêu chí và chỉ tiêu đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học (50)
    • 2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên (53)
      • 2.3.1. Các nhân tố bên ngoài (53)
      • 2.3.2. Các nhân tố bên trong (59)
      • 2.3.3. Các nhân tố rào cản (62)
    • 2.4. Mô hình và các giả thuyết nghiên cứu (63)
  • CHƯƠNG 3. THIẾT KẾ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (67)
    • 3.1. Quy trình nghiên cứu (67)
    • 3.2. Thiết kế nghiên cứu (69)
      • 3.2.1. Lựa chọn các biến cho mô hình nghiên cứu (69)
      • 3.2.2. Phát triển và hiệu chỉnh thang đo (72)
      • 3.2.3. Chọn mẫu và phương pháp thu thập dữ liệu (85)
    • 3.3. Phương pháp phân tích dữ liệu nghiên cứu (87)
      • 3.3.1. Phân tích dữ liệu định tính (87)
      • 3.3.2. Thu thập và phân tích dữ liệu thứ cấp (88)
      • 3.3.3. Phân tích dữ liệu sơ cấp (89)
    • 3.4. Đạo đức nghiên cứu (92)
  • CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (93)
    • 4.1. Khái quát hoạt động nghiên cứu khoa học trong các trường đại học khối (93)
      • 4.1.1. Quy định về hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên (93)
      • 4.1.2. Kết quả hoạt động nghiên cứu khoa học của các giảng viên trường đại học khối kinh tế (95)
      • 4.1.3. Thành công và hạn chế trong hoạt động khoa học và công nghệ của các trường khối kinh tế (104)
    • 4.2. Mô tả mẫu nghiên cứu (108)
    • 4.3. Phân tích khám phá và đánh giá tính tin cậy của các nhân tố trong mô hình 106 1. Phân tích khám phá nhân tố với các biến quan sát thuộc nhân tố động lực bên ngoài (117)
      • 4.3.2. Phân tích khám phá các nhân tố động cơ bên trong (119)
      • 4.3.3. Phân tích khám phá các nhân tố rào cản ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu (122)
      • 4.3.4. Phân tích khẳng định nhân tố (125)
      • 4.3.5. Điều chỉnh mô hình nghiên cứu (128)
    • 4.4. Kết quả phân tích tương quan (130)
    • 4.5. Kiểm định các giả thuyết nghiên cứu (132)
  • CHƯƠNG 5. THẢO LUẬN VÀ HÀM Ý NGHIÊN CỨU (151)
    • 5.1. Thảo luận về kết quả nghiên cứu (151)
      • 5.1.1. Đánh giá chung về đội ngũ giảng viên các trường đại học khối kinh tế (151)
      • 5.1.2. Kết quả phân tích định lượng (154)
    • 5.2. Giải pháp và kiến nghị đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên trong các trường đại học khối kinh tế (164)
      • 5.2.1. Giải pháp đối với đội ngũ giảng viên và các trường đại học (169)
      • 5.2.2. Giải pháp đối với các cơ quan quản lý nhà nước (177)
    • 5.3. Kiến nghị (180)
      • 5.3.1. Đối với Chính phủ (180)
      • 5.3.2. Đối với các bộ, ngành (Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài chính và các tổ chức liên quan) (181)
    • 5.4. Hạn chế của nghiên cứu và hướng nghiên cứu tiếp theo (182)
  • KẾT LUẬN (163)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (187)
  • PHỤ LỤC (193)

Nội dung

Lý do lựa chọn đề tài Trường đại học có vai trò quan trọng đối với quá trình phát triển của xã hội hiện đại. Mặc dù các trường đại học có thể có những thông điệp về sứ mệnh cụ thể của mình khác nhau nhưng theo truyền thống, trường đại học luôn phải đảm bảo 3 sứ mệnh quan trọng là (1) chuyển giao tri thức; (2) kiến tạo hay phát triển tri thức khoa học mới và (3) phụng sự xã hội với vai trò như một trung tâm văn hóa, trung tâm học thuật thực hiện chức năng phản biện các chính sách xã hội, chính sách công của chính phủ. Việc kiến tạo tri thức hay phát triển tri thức mới là nhiệm vụ trọng tâm của trường đại học, nó giúp phân biệt trường đại học và trường đào tạo nghề. Nếu trường đại học chỉ thực hiện chức năng là nơi chuyển giao, phân phối tri thức như các hoạt động giảng dạy đơn thuần thì không được xem là một đại học đúng nghĩa. Ởkhía cạnh chuyển giao, phân phối tri thức, trường đại học là một trung tâm đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động và phát triển của đất nước. Việc chuyển giao tri thức được thực hiện thông qua hoạt động giảng dạy của giảng viên, các kiến thức, kinh nghiệm được truyền thụ cho sinh viên và người học. Ởkhía cạnh kiến tạo tri thức mới, trường đại học phải là nơi tiên phong thực hiện các nghiên cứu khoa học (NCKH) nhằm phát triển tri thức mới đóng góp vào sự hiểu biết của con người về thế giới tự nhiên và xã hội. Việc phát triển tri thức mới không thể tách rời khỏi hoạt động NCKH. Ở vai trò phụng sự xã hội, trường đại học không đơn thuần chỉ là nơi truyền thụ kiến thức và NCKH, các trường đại học hiện đại còn là một trung tâm văn hóa, nơi bảo vệ tự do học thuật thực hiện chức năng phản biện xã hội, phản biện chính sách một cách độc lập để thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Trong thời gian gần đây, các trường đại học Việt Nam cũng chịu sự ảnh hưởng của hệ thống giáo dục đại học của các nước tiên tiến thông qua quá trình toàn cầu hoá (Nguyen, 2015). Đặc biệt, các trường đại học Việt Nam trong nhiều lĩnh vực cũng chịu ảnh hưởng bởi các mô hình đại học nghiên cứu từ các nước phát triển như các mô hình đại học ở Mỹ hay Úc. Theo đó, các trường đại học phải là nơi tạo ra và phổ biến tri thức thông qua các kết quả nghiên cứu (Brew & Lucas, 2009; Faust, 2013). Trường đại học không chỉ cung cấp nguồn lực lao động có trình độ cao cho xã hội, đáp ứng yêu cầu cao của quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà còn phục vụ nhiều vai trò xã hội. Các trường đại học gắn kết chặt chẽ với cộng đồng, với các cơ sở giáo dục đại học trong nước và quốc tế. Vì vậy, các trường đại học đóng vai trò 2 quan trọng trong việc giải quyết những vấn đề cấp bách của quốc gia hay các vấn đề toàn cầu thông qua các hoạt động nghiên cứu và chuyển giao tri thức của mình (Nguyen, 2015). Sự tồn tại của các trường đại học với chất lượng nghiên cứu cao thường được xem là một chỉ số cho thấy quốc gia đó có chất lượng giáo dục cao và thường có vị trí cao trong các đánh giá hệ thống thống giáo dục nói chung và hệ thống giáo dục đại học nói riêng. Nghiên cứu khoa học là sứ mệnh trung tâm của bất kỳ trường đại học nào. Hoạt động NCKH là một trong những yếu tố để phân biệt một đại học đúng nghĩa hay một trường đào tạo nghề. Trường đại học không chỉ đào tạo ra những con người biết làm việc (con người công cụ) mà còn là nơi đào tạo những cá nhân tinh hoa (elite). Do hoạt động NCKH là trọng tâm của tất cả các trường đại học nên trong phần lớn các bảng xếp hạng đại học trên thế giới (THE, QS, Giao thông Thượng Hải…) đều cho điểm trọng số NCKH rất cao trong các chỉ tiêu xếp hạng đại học. Thông thường, trọng số cho nghiên cứu (số lượng và phẩm chất) đóng góp từ 20 đến 60% điểm đánh giá xếp hạng tùy vào từng bảng xếp hạng. Do đó, muốn quá trình quốc tế hóa diễn ra thành công, các trường đại học vươn ra thế giới để tham gia vào hệ thống xếp hạng đại học quốc tế thì các trường đại học bắt buộc phải đầu tư cho hoạt động NCKH. Ởgóc độ cá nhân, với tư cách là thành viên của tổ chức nơi mình làm việc hoặc cộng tác, các giảng viên đại học ngoài việc giảng dạy đương nhiên có trách nhiệm tham gia NCKH. Ngoài ra, cùng với sự hình thành và phát triển của xã hội tri thức, các giảng viên không chỉ bó hẹp hoạt động của mình trong khuôn khổ của trường đại học mà còn phải vươn xa hơn thông qua hoạt động phục vụ xã hội (social service) – một khái niệm được đề cập nhiều trong thời gian gần đây dưới tên gọi có tính tu từ là “sứ mạng thứ ba” (third mission). Trong bài viết của mình đóng góp cho cuốn chuyên khảo “Sự phù hợp của công việc hàn lâm nhìn từ góc độ so sánh” (William K. Cummings và Ulrich Teichler, 2015), giáo sư Soo Jeung Lee từ Đại học quốc gia Xơ-un đã viết: “Chức năng của trường đại học đã thay đổi trong xã hội tri thức hiện nay và đã mở rộng ra ngoài mục tiêu giáo dục ban đầu của nó, các trường đại học ngày nay tập trung nhiều vào hoạt động nghiên cứu và được trông chờ đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế và xã hội. Vai trò của đội ngũ giảng viên cũng trở nên phức hợp hơn do sứ mạng thứ ba của các trường đại học về đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội được nhấn mạnh hơn bao giờ hết…”. Ở Việt Nam, hệ thống văn bản pháp luật đã nêu rõ nhiệm vụ NCKH của cơ sở giáo dục và giảng viên. Luật giáo dục 2019, Điều 19 nêu rõ: “Hoạt động khoa học và công nghệ là một nhiệm vụ của cơ sở giáo dục”, và “Cơ sở giáo dục tự triển khai hoặc phối hợp với tổ chức khoa học và công nghệ, cơ sở 3 sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong việc đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội”. Điều 55, Luật Giáo dục đại học 2012 (sửa đổi năm 2018) có nêu một trong những nhiệm vụ và quyền của giảng viên là “Nghiên cứu, phát triển ứng dụng khoa học và chuyển giao công nghệ, bảo đảm chất lượng đào tạo”. Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục đại học (các nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ, thông tư của Bộ Giáo dục và Đào tạo) về quy định chế độ làm việc đối với giảng viên, giảng viên đã ấn định cụ thể số giờ giảng dạy, giờ NCKH của giảng viên theo các mức độ khác nhau tùy theo ngạch bậc và học hàm, học vị. Chẳng hạn, theo Thông tư số 47/2014/TT-BGDĐT ngày 31/12/2014 và mới đây là Thông tư số 20/2020/TT-BGDĐT ngày 27/7/2020 của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định chế độ làm việc của giảng viên thì giảng viên phải dành ít nhất 1/3 tổng quỹ thời gian làm việc trong năm học để làm nhiệm vụ NCKH. Nhận thức rõ vai trò quan trọng của khoa học và công nghệ trong phát triển kinh tế - xã hội, ngay từ đầu những năm 1980, Đảng và Nhà nước đã xác định phát triển khoa học và công nghệ là quyết sách hàng đầu, khoa học và công nghệ là động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển bền vững đất nước, trong đó các cơ sở giáo dục đại học (cơ sở GDĐH) đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra nguồn tri thức mới cho sự phát triển của xã hội, cũng là nơi tập trung nguồn nhân lực trình độ cao, cung cấp lượng lớn cán bộ nghiên cứu, cán bộ kỹ thuật cho xã hội; từ đó đã có nhiều chính sách nhằm thúc đẩy, khuyến khích phát triển hoạt động khoa học và công nghệ trong cơ sở GDĐH. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII khẳng định, Việt Nam cần “phát huy và tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia, tập trung đầu tư phát triển một số viện khoa học công nghệ, các trường đại học cấp quốc gia”. Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2020 cũng khẳng định, cần “nâng cao năng lực của các trường đại học về nghiên cứu cơ bản”. Đề án Tái cơ cấu ngành khoa học công nghệ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (ban hành theo Quyết định số 2245/QĐ-TTg ngày 11/12/2015 của Thủ tướng Chính phủ) nêu rõ sự cần thiết “Phát triển và phát huy đội ngũ nhân lực khoa học và công nghệ trong cơ sở GDĐH, xây dựng các nhóm nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ mạnh phục vụ giải quyết các vấn đề thực tiễn của nền kinh tế”; “Khuyến khích doanh nghiệp thành lập các phòng thí nghiệm, kết nối với hệ thống phòng thí nghiệm thuộc các viện nghiên cứu, trường đại học”. Nghị định số 99/2014/NĐ-CP ngày 25/10/2014 của Chính phủ đã quy định chi tiết việc đầu tư phát triển tiềm lực và khuyến khích hoạt động khoa học và công nghệ trong cơ sở GDĐH. Bên cạnh các văn bản pháp lý đã nêu 4 trên, Thủ tướng Chính phủ còn ban hành nhiều văn bản khác liên quan đến phát triển khoa học và công nghệ 1. Là văn bản trực tiếp điều chỉnh hoạt động của các cơ sở GDĐH, Luật Giáo dục đại học năm 2018 nêu rõ trách nhiệm của nhà nước về phát triển khoa học và công nghệ, với chủ trương: (i) Nhà nước tập trung đầu tư phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ, tạo cơ chế, chính sách khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ, phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo trong cơ sở GDĐH phục vụ phát triển đất nước; ưu tiên phát triển một số ngành, lĩnh vực đạt trình độ nghiên cứu ngang tầm khu vực và quốc tế; và (ii) Chính phủ quy định về hoạt động khoa học và công nghệ trong cơ sở GDĐH. Hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục đại học 2018, Nghị định số 99/2014/NĐ-CP của Chính phủ đưa ra những chính sách ưu đãi, khuyến khích hoạt động khoa học và công nghệ trong các cơ sở GDĐH như: (i) Khuyến khích giảng viên nghiên cứu khoa học qua ưu đãi về thuế thu nhập cá nhân, tiền thưởng, hỗ trợ quyền tác giả; (ii) Khuyến khích doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển tiềm lực và hoạt động khoa học và công nghệ thông qua các hình thức như ưu đãi, miễn giảm thuế và về bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của đối tượng đầu tư, v.v. Như vậy, hệ thống pháp luật xác lập vai trò, vị trí của hoạt động NCKH trong các cơ sở GDĐH cũng như ban hành các thể chế, chính sách khuyến khích hoạt động này của các cơ sở GDĐH cũng như giảng viên đại học đã khá đầy đủ, đồng bộ, tạo khung khổ pháp lý cho việc tham gia NCKH của cơ sở cũng như việc quản lý nhà nước đối với hoạt động này. Cùng với quá trình mở cửa và hội nhập kinh tế, từ chỗ chủ yếu thực hiện chức năng chuyển giao, phân phối tri thức (hay nói cách khác, tập trung vào việc giảng dạy kiến thức, kỹ năng cho sinh viên, người học mà ít chú trọng đến hai sứ mệnh còn lại là kiến tạo tri thức mới và phụng sự xã hội), đến nay phần lớn các trường đại học tại Việt Nam đã xác định hoạt động NCKH là một nhiệm vụ quan trọng của nhà trường. Mặc dù vậy, hoạt động NCKH ở các trường đại học thuộc khối khoa học xã hội (trong đó 1Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 18/5/2016 phê duyệt Đề án Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025; Quyết định số 1665/QĐ-TTg ngày 30/10/2017 phê duyệt Đề án Hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025; Quyết định số 2469/QĐ-TTg ngày 16/12/2016 phê duyệt Đề án Tăng cường cơ sở vật chất, nâng cao năng lực đội ngũ nhà giáo, cán bộ nghiên cứu và đổi mới hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ trong cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2017-2025; Quyết định số 69/QĐ-TTg ngày 15/1/2019 phê duyệt Đề án Nâng cao chất lượng giáo dục đại học giai đoạn 2019-2025; Quyết định số 89/QĐ-TTg ngày 18/1/2019 phê duyệt Đề án Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019-2030. 5 có ngành kinh tế) còn nhiều hạn chế hơn so với các trường đại học khoa học tự nhiên và kỹ thuật. Bằng chứng là sản phẩm nghiên cứu có thể công bố quốc tế (ISI/Scopus) thuộc khối khoa học xã hội còn thấp hơn nhiều so với ngành khoa học tự nhiên và khoa học công nghệ, kỹ thuật. Trong các kỳ xét duyệt học hàm giáo sư, phó giáo sư nhiều ứng viên thuộc ngành khoa học xã hội như kinh tế chưa có bài nghiên cứu ở đẳng cấp quốc tế, hiểu theo nghĩa là có nghiên cứu đăng trong những tập san quốc tế có bình duyệt trong hệ thống tạp chí uy tín như ISI/Scopus. Trong thực tế, các NCKH của các trường đại học khối kinh tế đã có nhiều đóng góp vào công cuộc đổi mới, phát triển đất nước theo mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thời kỳ đầu đổi mới, bên cạnh việc phổ biến kiến thức, nghiên cứu khoa học kinh tế, các trường đại học đã đóng vai trò nền tảng cho việc hoạch định các chính sách kinh tế lớn của đất nước. Những quyết sách quan trọng, những đổi mới then chốt trong đường lối và phương thức vận hành nền kinh tế của Đảng và Chính phủ đã dựa trên những nghiên cứu về nền kinh tế thị trường, mang đậm dấu ấn của những đề tài, chương trình nghiên cứu lớn được thực hiện bởi các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu kể trên, hiện nay hoạt động NCKH trong các trường đại học khối khoa học xã hội nói chung và khối kinh tế nói riêng còn những hạn chế nhất định, đặc biệt là khả năng thực hiện các nghiên cứu của giảng viên. Thực tế cho thấy hoạt động NCKH của giảng viên những năm vừa qua vẫn còn những bất cập, hạn chế phổ biến như: (1) Giảng viên chưa nhận thức được tầm quan trọng của NCKH, hầu hết các giảng viên chưa thực sự chủ động đưa ra các đề xuất đề tài nghiên cứu, nhiều đề tài được nghiên cứu dựa trên các mô hình đã được nghiên cứu từ trước, hoặc chưa xuất phát từ nhu cầu thực tế của chính bản thân giảng viên, hoặc nhu cầu của môn học, ngành học; (2) Khả năng triển khai nghiên cứu của giảng viên còn hạn chế từ việc thiết kế nghiên cứu đến ứng dụng các phương pháp định lượng, sử dụng các phần mềm phân tích - thống kê; (3) Hạn chế về trình độ ngoại ngữ, trong quá trình tham khảo tài liệu để làm đề tài còn quá lệ thuộc vào Internet; các tài liệu giảng viên sử dụng đều bằng tiếng Việt, do các nhà nghiên cứu trong nước biên soạn, hoặc dịch lại từ nguyên bản tiếng Anh, Pháp... vì vậy tính thiết thực của tài liệu sử dụng giảm đi rất nhiều và nội dung của các công trình nghiên cứu còn chưa phong phú. Bên cạnh đó, số lượng công bố khoa học đẳng cấp quốc tế còn khiêm tốn, chất lượng nghiên cứu chưa cao (các tạp chí hạng cao, số trích dẫn, giải thưởng khoa học quốc tế) và cả sự lệ thuộc khoa học quá lớn khi các dự án hợp tác nghiên cứu quốc tế vẫn do người nước ngoài chủ trì hoặc giữ vai trò quan trọng hơn. 6 Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động NCKH của các trường đại học khối kinh tế đã được bàn thảo nhiều tại nhiều hội nghị, hội thảo về hoạt động NCKH của các trường đại học cũng như các báo cáo đánh giá, tổng kết thực thi pháp luật về hoạt động khoa học và công nghệ của các cơ quan quản lý nhà nước, tựu chung lại có thể chia làm hai nhóm nguyên nhân chính là khách quan (trước hết là môi trường thể chế, chính sách) và chủ quan (văn hóa nghiên cứu, quy chế nội bộ của trường đại học, ý thức và động lực NCKH của giảng viên…). Cụ thể: Những nguyên nhân khách quan: (i) đầu tư từ ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ ở các trường đại học rất thấp, bình quân mỗi năm trong giai đoạn 2011-2015, kinh phí đầu tư cho tăng cường năng lực nghiên cứu từ ngân sách sự nghiệp khoa học và công nghệ vào khoảng 30-50 tỷ cho 61 đơn vị trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo (Vũ Văn Tích, 2016). Theo số liệu của World Bank năm 2016, đầu tư tài chính cho hoạt động NCKH trong cả nước bình quân cả giai đoạn 2011-2015 vào khoảng 1,7% NSNN, trong đó kinh phí NSNN đầu tư cho hoạt động NCKH trong ngành giáo dục khá khiêm tốn và chưa hợp lý, cụ thể bằng 35% so với đầu tư cho hoạt động NCKH của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 86% so với với Bộ Công thương, 44,9% so với Viện hàn lâm Khoa học và công nghệ Việt Nam và 18,3% so với Bộ Khoa học và Công nghệ. Bên cạnh đó, “việc phân bổ kinh phí sự nghiệp khoa học và công nghệ chưa hợp lý, chủ yếu dựa vào số cấp ban đầu, không gắn với sản phẩm đầu ra và theo số lượng cán bộ nghiên cứu, do vậy khó có thể dẫn tới đạt được mục tiêu cho chiến lược phát triển tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia, không thu hút được các nhà khoa học đang làm việc ở nước ngoài tham gia vào các hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ tại các cơ sở GDĐH. Cách thức phân bổ kinh phí thể hiện tính bình quân chủ nghĩa, chưa thực sự tính đến các khía cạnh hiệu quả sử dụng kinh phí” (Báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2020); (ii) mặc dù việc khuyến khích doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức đầu tư phát triển tiềm lực khoa học và hoạt động khoa học và công nghệ trong cơ sở GDĐH (tức là chủ trương xã hội hóa hoạt động khoa học và công nghệ) được Chính phủ quy định trong Nghị định số 99/2014/NĐ-CP2 và nhiều văn bản liên quan, song các chính sách này chủ yếu dừng ở việc đề xuất nhiệm vụ và 2Theo Điều 11 Nghị định số 99/2014/NĐ-CP, chủ trương khuyến khích xã hội hóa hoạt động KHCN được thực hiện qua các cách thức: Miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế nhập khẩu khi đầu tư phát triển tiềm lực KHCN bằng lợi nhuận trước thuế hoặc bằng lợi nhuận sau thuế, thu nhập trước thuế hoặc bằng thu nhập sau thuế; nhập khẩu trang thiết bị, máy móc nguyên vật liệu để đầu tư phát triển tiềm lực KHCN; tiến hành hoạt động chuyển giao công nghệ từ cơ sở GDĐH; ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học của CSGDĐH để phát triển và đổi mới công nghệ. Các quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khi đầu tư phát triển tiềm lực và khuyến khích hoạt động KHCN trong cơ sở GDĐH được Nhà nước công nhận và bảo hộ. 7 giải pháp “theo quy định của pháp luật” và còn ở mức định hướng, chưa cụ thể, chưa có những giải pháp cụ thể đối với các vấn đề phát sinh trong thực tế đầu tư vào khoa học và công nghệ của các tổ chức, cá nhân vào các cơ sở GDĐH3; (iii) thủ tục đăng ký đề tài quá phức tạp, thủ tục thanh toán kinh phí NCKH khó khăn, rắc rối và mất nhiều thời gian4; (iv) các vấn đề khác liên quan đến giải pháp nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ cho đội ngũ nhà giáo, cán bộ nghiên cứu trong cơ sở GDĐH (ví dụ thông qua các đề án đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ cho các trường đại học, cao đẳng; đề án đào tạo, bồi dưỡng nhân lực khoa học và công nghệ ở trong nước và nước ngoài bằng ngân sách nhà nước…); định hướng nâng cao năng lực, trình độ, phương pháp nghiên cứu và kỹ năng chuyển giao công nghệ cho đội ngũ nhà giáo, cán bộ nghiên cứu bằng việc mở rộng liên kết, đa dạng hóa các hình thức hợp tác với các đối tác nước ngoài và các tổ chức quốc tế có uy tín về giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp và thực hiện các chính sách khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi cho nhà giáo có công bố, nâng cao năng lực nghiên cứu, hình thành các tập thể nghiên cứu mạnh, v.v. cũng đã được đề cập trong nhiều văn bản khác nhau5 song nhìn chung, các chính sách và giải pháp mới mang tính định hướng chung, chưa phân theo sự khác biệt của các lĩnh vực nghiên cứu, các quy định về tài trợ từ NSNN chủ yếu hướng dẫn về quy định quản lý đề tài mà không có hướng dẫn về nâng cao năng lực nghiên cứu hay hình thành các tập thể nghiên cứu mạnh; (v) các biện pháp khuyến khích, khen thưởng người tham gia hoạt động khoa học và công nghệ còn mờ nhạt và không cụ thể (kể cả trong Nghị định 99 là văn bản quy phạm pháp luật quy định rõ ràng nhất về việc khuyến khích giảng viên NCKH cũng như các văn bản liên quan như Thông tư số 37/2014/TT-BKHCN của Bộ Khoa học và Công nghệ, Thông tư số 22/2011/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo).

GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU

Lý do lựa chọn đề tài

Trường đại học đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội hiện đại, với ba sứ mệnh chính: chuyển giao tri thức, kiến tạo tri thức khoa học mới và phụng sự xã hội Việc phát triển tri thức mới là nhiệm vụ cốt lõi, phân biệt trường đại học với các cơ sở đào tạo nghề Trong vai trò chuyển giao tri thức, trường đại học cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho thị trường lao động thông qua hoạt động giảng dạy Đồng thời, trường đại học cũng phải tiên phong trong nghiên cứu khoa học, đóng góp vào sự hiểu biết về thế giới tự nhiên và xã hội Cuối cùng, trường đại học hiện đại không chỉ là nơi truyền thụ kiến thức mà còn là trung tâm văn hóa, bảo vệ tự do học thuật và thực hiện chức năng phản biện xã hội để thúc đẩy sự phát triển bền vững.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, các trường đại học Việt Nam ngày càng bị ảnh hưởng bởi hệ thống giáo dục đại học tiên tiến từ các nước phát triển như Mỹ và Úc (Nguyen, 2015) Những trường này không chỉ là nơi tạo ra và phổ biến tri thức thông qua nghiên cứu (Brew & Lucas, 2009; Faust, 2013), mà còn cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội, đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Hơn nữa, các trường đại học còn giữ vai trò quan trọng trong việc gắn kết với cộng đồng và các cơ sở giáo dục trong và ngoài nước, từ đó góp phần giải quyết những vấn đề cấp bách của quốc gia và toàn cầu thông qua hoạt động nghiên cứu và chuyển giao tri thức.

Sự hiện diện của các trường đại học có chất lượng nghiên cứu cao là một chỉ số quan trọng phản ánh chất lượng giáo dục của quốc gia Những trường này thường được xếp hạng cao trong các đánh giá về hệ thống giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng.

Nghiên cứu khoa học (NCKH) là sứ mệnh trung tâm của các trường đại học, phân biệt chúng với các cơ sở đào tạo nghề Đại học không chỉ đào tạo con người công cụ mà còn phát triển cá nhân tinh hoa Trong các bảng xếp hạng đại học quốc tế như THE, QS, và Giao thông Thượng Hải, NCKH chiếm từ 20 đến 60% điểm số, do đó, việc đầu tư cho NCKH là cần thiết để các trường đại học vươn ra thế giới Giảng viên đại học không chỉ giảng dạy mà còn có trách nhiệm tham gia NCKH và phục vụ xã hội, được gọi là “sứ mạng thứ ba” Giáo sư Soo Jeung Lee nhấn mạnh rằng vai trò của đại học đã mở rộng ra ngoài giáo dục, tập trung vào NCKH và phát triển kinh tế - xã hội Tại Việt Nam, luật giáo dục đã quy định rõ nhiệm vụ NCKH của cơ sở giáo dục và giảng viên, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phối hợp với các tổ chức khoa học và công nghệ trong việc phát triển kinh tế - xã hội.

Nghiên cứu và phát triển ứng dụng khoa học trong giáo dục đại học là một yếu tố quan trọng để đảm bảo chất lượng đào tạo Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục đại học, bao gồm nghị định của Chính phủ và thông tư của Bộ Giáo dục và Đào tạo, quy định rõ chế độ làm việc của giảng viên Cụ thể, giảng viên phải dành ít nhất 1/3 tổng quỹ thời gian làm việc trong năm học cho nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, theo Thông tư số 47/2014/TT-BGDĐT và Thông tư số 20/2020/TT-BGDĐT.

Nhận thức rõ vai trò của khoa học và công nghệ trong phát triển kinh tế - xã hội, từ những năm 1980, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã xác định phát triển khoa học và công nghệ là quyết sách hàng đầu, coi đây là động lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển bền vững Các cơ sở giáo dục đại học đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra nguồn tri thức mới và cung cấp nhân lực trình độ cao cho xã hội Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII khẳng định cần phát huy tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia, đầu tư phát triển các viện khoa học và trường đại học cấp quốc gia Quyết định số 418/QĐ-TTg đã nhấn mạnh việc nâng cao năng lực nghiên cứu cơ bản của các trường đại học Đề án Tái cơ cấu ngành khoa học công nghệ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 yêu cầu phát triển đội ngũ nhân lực và xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh để giải quyết các vấn đề thực tiễn của nền kinh tế Nghị định số 99/2014/NĐ-CP quy định chi tiết việc đầu tư phát triển tiềm lực và khuyến khích hoạt động khoa học và công nghệ trong cơ sở giáo dục đại học.

Luật Giáo dục đại học năm 2018 quy định trách nhiệm của nhà nước trong việc phát triển khoa học và công nghệ, nhấn mạnh việc đầu tư vào tiềm lực khoa học và công nghệ Nhà nước khuyến khích tổ chức và cá nhân tham gia đầu tư, đồng thời phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo trong các cơ sở giáo dục đại học nhằm phục vụ cho sự phát triển của đất nước Ngoài ra, ưu tiên được đặt vào một số ngành, lĩnh vực có trình độ nghiên cứu đạt chuẩn khu vực và quốc tế, trong khi Chính phủ cũng quy định các hoạt động khoa học và công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học.

Nghị định số 99/2014/NĐ-CP của Chính phủ đã đưa ra các chính sách ưu đãi nhằm khuyến khích hoạt động khoa học và công nghệ tại các cơ sở giáo dục đại học Các chính sách này bao gồm việc khuyến khích giảng viên nghiên cứu qua các ưu đãi về thuế thu nhập cá nhân, tiền thưởng và hỗ trợ quyền tác giả Đồng thời, Nghị định cũng khuyến khích doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân đầu tư vào phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ thông qua các hình thức ưu đãi thuế, bảo hộ quyền sở hữu tài sản và các quyền lợi hợp pháp khác Như vậy, hệ thống pháp luật đã xác lập rõ vai trò của nghiên cứu khoa học trong các cơ sở giáo dục đại học và ban hành các chính sách khuyến khích hoạt động này, tạo ra khung pháp lý vững chắc cho sự tham gia nghiên cứu khoa học và quản lý nhà nước đối với hoạt động này.

Trong bối cảnh mở cửa và hội nhập kinh tế, nhiều trường đại học tại Việt Nam đã chuyển từ việc chỉ tập trung vào giảng dạy kiến thức và kỹ năng sang việc coi hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) là nhiệm vụ quan trọng Tuy nhiên, các trường thuộc khối khoa học xã hội vẫn gặp nhiều thách thức trong việc phát triển hoạt động NCKH, cần chú trọng hơn đến việc kiến tạo tri thức mới và phục vụ xã hội.

Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 18/5/2016 phê duyệt Đề án Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025, cùng với các quyết định khác như 1665/QĐ-TTg, 2469/QĐ-TTg, 69/QĐ-TTg và 89/QĐ-TTg, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và hỗ trợ khởi nghiệp cho học sinh, sinh viên Tuy nhiên, ngành kinh tế vẫn còn nhiều hạn chế so với các trường đại học khoa học tự nhiên và kỹ thuật, thể hiện qua số lượng sản phẩm nghiên cứu có thể công bố quốc tế (ISI/Scopus) thấp hơn Điều này đặc biệt rõ ràng trong các kỳ xét duyệt học hàm giáo sư, phó giáo sư, khi nhiều ứng viên ngành khoa học xã hội như kinh tế chưa có bài nghiên cứu đạt tiêu chuẩn quốc tế.

Các nghiên cứu khoa học (NCKH) tại các trường đại học khối kinh tế đã đóng góp quan trọng vào công cuộc đổi mới và phát triển đất nước, hỗ trợ cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Trong giai đoạn đầu đổi mới, các trường này không chỉ phổ biến kiến thức mà còn là nền tảng cho việc hoạch định các chính sách kinh tế lớn Những quyết sách quan trọng và đổi mới trong đường lối kinh tế của Đảng và Chính phủ đã dựa trên các nghiên cứu về nền kinh tế thị trường, thể hiện rõ nét qua các đề tài nghiên cứu lớn Tuy nhiên, hoạt động NCKH trong các trường đại học khối kinh tế hiện vẫn gặp nhiều hạn chế, đặc biệt là khả năng thực hiện nghiên cứu của giảng viên Nhiều giảng viên chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của NCKH, thiếu chủ động trong việc đề xuất đề tài nghiên cứu và thường dựa vào các mô hình đã có mà không xuất phát từ nhu cầu thực tế Hơn nữa, khả năng triển khai nghiên cứu của giảng viên cũng còn hạn chế, từ việc thiết kế nghiên cứu đến ứng dụng các phương pháp định lượng và sử dụng phần mềm phân tích.

Hạn chế về trình độ ngoại ngữ đã ảnh hưởng đến việc tham khảo tài liệu và làm đề tài nghiên cứu, khi mà các tài liệu chủ yếu là tiếng Việt, được biên soạn hoặc dịch từ tiếng Anh, Pháp Điều này làm giảm tính thiết thực và sự phong phú của nội dung nghiên cứu Thêm vào đó, số lượng công bố khoa học quốc tế còn ít ỏi, chất lượng nghiên cứu chưa đạt yêu cầu cao, thể hiện qua việc ít có bài viết đăng trên các tạp chí uy tín, số lượng trích dẫn hạn chế và thiếu giải thưởng khoa học quốc tế Sự phụ thuộc vào các dự án hợp tác nghiên cứu quốc tế cũng cho thấy vai trò chủ yếu vẫn thuộc về các nhà nghiên cứu nước ngoài.

Các hạn chế trong hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) tại các trường đại học khối kinh tế xuất phát từ hai nhóm nguyên nhân chính Nguyên nhân khách quan bao gồm môi trường thể chế và chính sách chưa phù hợp, trong khi nguyên nhân chủ quan liên quan đến văn hóa nghiên cứu, quy chế nội bộ của trường và ý thức, động lực NCKH của giảng viên Những vấn đề này đã được thảo luận nhiều tại các hội nghị và báo cáo đánh giá về hoạt động khoa học và công nghệ.

Đầu tư từ ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ tại các trường đại học hiện nay đang ở mức rất thấp, với mức trung bình hàng năm trong giai đoạn 2011- không đáp ứng được nhu cầu phát triển.

Năm 2015, ngân sách đầu tư cho tăng cường năng lực nghiên cứu từ ngân sách sự nghiệp khoa học và công nghệ vào khoảng 30-50 tỷ đồng cho 61 đơn vị thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo (Vũ Văn Tích, 2016) Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới năm 2016, đầu tư cho hoạt động NCKH trong giai đoạn 2011-2015 chỉ đạt khoảng 1,7% ngân sách nhà nước, trong đó kinh phí dành cho ngành giáo dục rất khiêm tốn, chỉ bằng 35% so với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 86% so với Bộ Công thương, 44,9% so với Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, và 18,3% so với Bộ Khoa học và Công nghệ Việc phân bổ kinh phí chưa hợp lý, chủ yếu dựa vào số cấp ban đầu, không gắn với sản phẩm đầu ra và số lượng cán bộ nghiên cứu, dẫn đến khó khăn trong việc đạt được mục tiêu chiến lược phát triển tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia và thu hút các nhà khoa học từ nước ngoài Mặc dù Chính phủ đã quy định khuyến khích doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức đầu tư phát triển tiềm lực khoa học trong cơ sở giáo dục đại học, nhưng các chính sách này chủ yếu dừng lại ở việc đề xuất nhiệm vụ mà chưa thực sự đi vào thực tiễn.

Mục tiêu nghiên cứu

Bài viết này tập trung vào việc xây dựng và kiểm chứng mô hình nghiên cứu để đánh giá tác động của các yếu tố đến hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) của giảng viên Qua đó, chúng tôi đề xuất một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động NCKH và cải thiện năng lực nghiên cứu của giảng viên tại các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam.

Hệ thống hoá và phân tích các yếu tố lý thuyết cũng như thực tiễn có tác động đến hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) của giảng viên tại các trường đại học là rất cần thiết Những nhân tố này không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả NCKH mà còn góp phần nâng cao uy tín của nhà trường trong lĩnh vực giáo dục và nghiên cứu Việc hiểu rõ các yếu tố này sẽ giúp các giảng viên tối ưu hóa hoạt động NCKH, từ đó thúc đẩy sự phát triển bền vững của các cơ sở giáo dục đại học.

Mô hình nghiên cứu được thiết lập nhằm đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố động cơ, rào cản nghiên cứu và đặc điểm của nhà khoa học đến kết quả nghiên cứu khoa học (NCKH) của giảng viên tại các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam.

Nghiên cứu này nhằm lượng hoá ảnh hưởng của các nhân tố động cơ, rào cản và đặc điểm giảng viên đến kết quả nghiên cứu khoa học (NCKH) của giảng viên tại các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam Các yếu tố động cơ như niềm đam mê nghiên cứu và sự hỗ trợ từ nhà trường đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt động NCKH Đồng thời, những rào cản như thiếu nguồn lực và thời gian cũng tác động tiêu cực đến kết quả nghiên cứu Đặc điểm giảng viên, bao gồm trình độ chuyên môn và kinh nghiệm, cũng ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả NCKH Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về các yếu tố quyết định, từ đó đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng NCKH trong lĩnh vực giáo dục kinh tế tại Việt Nam.

Để nâng cao hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) và năng lực nghiên cứu của giảng viên tại các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam, cần có một số khuyến nghị quan trọng Trước hết, các trường nên đầu tư vào cơ sở hạ tầng nghiên cứu và tạo điều kiện thuận lợi cho giảng viên tham gia các dự án NCKH Thứ hai, việc tổ chức các khóa đào tạo, hội thảo chuyên đề và chương trình trao đổi kinh nghiệm giữa các giảng viên sẽ giúp nâng cao kỹ năng nghiên cứu Cuối cùng, khuyến khích hợp tác giữa các trường đại học và doanh nghiệp sẽ tạo ra môi trường nghiên cứu thực tiễn, thúc đẩy sự đổi mới và phát triển bền vững trong lĩnh vực kinh tế.

Tổng quan nghiên cứu

Hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) là một yếu tố quan trọng trong các trường đại học trên toàn cầu, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu từ các quốc gia khác nhau Trong luận án này, tác giả tổng hợp các nghiên cứu gần đây liên quan đến hoạt động NCKH của các nhà nghiên cứu cả trong và ngoài nước.

1.3.1 Các lý thuy ế t n ề n t ả ng v ề các nhân t ố ả nh h ưở ng t ớ i ho ạ t độ ng nghiên c ứ u khoa h ọ c và k ế t qu ả nghiên c ứ u khoa h ọ c

1.3.1.1 Lý thuyết về sự hài lòng và ảnh hưởng của các nhân tố tạo ra sự hài lòng tới kết quả nghiên cứu

Sự hài lòng trong công việc là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu suất của tổ chức, đặc biệt trong môi trường đại học, nơi giảng viên đóng vai trò chủ chốt Các khía cạnh như mức lương, cơ hội thăng tiến và môi trường làm việc thú vị đều góp phần tạo ra sự hài lòng và ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu của giảng viên (Nguyen, 2015) Sự hài lòng này xuất phát từ việc đáp ứng kỳ vọng công việc và thành quả đạt được, do đó, các nhân tố tạo ra sự hài lòng được coi là nguồn lực quan trọng thúc đẩy hiệu suất cao trong tổ chức.

Mối liên hệ tích cực giữa sự hài lòng và kết quả công việc đã được nghiên cứu từ những năm 1980, với Creswell J (1986) cho thấy sự tương quan giữa sự hài lòng và hiệu suất công việc của nhân viên Nghiên cứu của Judge và cộng sự (2001) khẳng định rằng mối quan hệ này mạnh hơn ở những công việc phức tạp Trong bối cảnh các trường đại học, D’Angelo và Abramo (2014) chỉ ra rằng các học giả hài lòng nhất là những người có thể tiếp cận các nguồn lực cần thiết và cảm nhận được sự hỗ trợ từ trường Họ cũng dự đoán rằng năng suất nghiên cứu có mối quan hệ thuận chiều với sự hài lòng của giảng viên Tuy nhiên, nghiên cứu này phát hiện mối tương quan nghịch giữa hỗ trợ nghiên cứu và số lượng bài báo xuất bản, cho thấy sự hài lòng có thể bị ảnh hưởng tiêu cực khi có nhiều học giả tham gia vào một dự án Điều này cho thấy sự hài lòng là một khía cạnh phức tạp và có thể thay đổi tùy thuộc vào thời gian và môi trường làm việc, do đó cần xem xét các yếu tố ảnh hưởng để dự đoán năng suất nghiên cứu (Nguyen, 2015).

1.3.1.2 Lý thuyết về cam kết tổ chức và ảnh hưởng của cam kết với tổ chức tới kết quả nghiên cứu

Cam kết với tổ chức là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến thái độ và hành vi của nhân viên, quyết định hiệu quả hoạt động của tổ chức (Perry J & Porter L., 1982) Mối quan hệ giữa cam kết và thái độ của nhân viên cho thấy rằng khi mục tiêu cá nhân phù hợp với mục tiêu tổ chức, cam kết sẽ gia tăng, dẫn đến hiệu suất công việc cao hơn (Meyer & Allen, 1997) Cam kết không chỉ nâng cao tính trung thành của nhân viên mà còn cải thiện hiệu quả tổ chức, vì nhân viên sẽ nỗ lực tối đa để đạt được mục tiêu chung Cam kết với tổ chức được chia thành ba loại: cam kết tình cảm, cam kết tiếp tục và cam kết chuẩn mực Trong đó, cam kết tình cảm (Affective commitment) thể hiện sự gắn bó của nhân viên với tổ chức và sự sẵn sàng đóng góp nguồn lực cá nhân để hỗ trợ tổ chức đạt mục tiêu Đây là dạng cam kết tự nguyện, chỉ xuất hiện ở những nhân viên có tình cảm sâu sắc với tổ chức (Kanter, 1968).

Cam kết tiếp tục (continuance commitment) là nhận thức của nhân viên về chi phí rời bỏ tổ chức, phản ánh trạng thái tâm lý hình thành từ điều kiện làm việc và sống của họ (Meyer & Allen, 1991) Nhân viên có kiểu cam kết này thường tiếp tục làm việc vì lý do tài chính cá nhân, như nhu cầu trang trải cuộc sống; nếu không đạt được kỳ vọng tài chính, họ sẽ chuyển sang tổ chức khác Những người không thể tìm việc mới sẽ ở lại, nhưng có thể rút lui cảm xúc khỏi công việc hàng ngày (Joo, 2010) Cam kết tiếp tục là dạng cam kết không tự nguyện, dựa trên kỳ vọng tài chính, dẫn đến ít động lực cống hiến cho sự phát triển của tổ chức.

Cam kết chuẩn mực (normative commitment) là dạng cam kết thứ ba, thể hiện ý thức về nghĩa vụ của người lao động trong việc duy trì công việc tại tổ chức như một trách nhiệm Những nhân viên có cam kết chuẩn mực cao thường gắn bó với công ty vì lý do đạo đức và tinh thần trách nhiệm.

Nghiên cứu cho thấy hệ thống khen thưởng tại các trường đại học có ảnh hưởng tích cực đến mức độ cam kết của giảng viên và nhà nghiên cứu, từ đó thúc đẩy việc xuất bản ấn phẩm khoa học Các loại cam kết với tổ chức có mối quan hệ chặt chẽ, trong đó cam kết tình cảm đóng vai trò quan trọng nhất đối với hiệu suất làm việc Cam kết với tổ chức được xem là động lực nội tại của giảng viên và nhà khoa học trong nghiên cứu, làm cho lý thuyết cam kết với tổ chức trở thành yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu tại các trường đại học.

1.3.1.3 Lý thuyết động lực của con người: Lý thuyết tự quyết định

Việc theo đuổi nghiên cứu của giảng viên và nhà khoa học có thể được lý giải qua lý thuyết tự quyết định (Self-Determination Theory - STD), như đã được Ryan và Deci (2000) cùng Gagne và Deci (2005) đề cập Lý thuyết này cung cấp cái nhìn sâu sắc về động lực, cũng như mối quan hệ giữa động lực với các giá trị và chuẩn mực xã hội (Lam, 2011; 2014) Hoạt động nghiên cứu chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố tâm lý cá nhân, do đó, lý thuyết tự quyết định có thể được áp dụng để hiểu rõ hơn về cơ chế hình thành động lực nghiên cứu và tác động của nó đến kết quả nghiên cứu của giảng viên tại các trường đại học, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế.

Lý thuyết tự quyết định nhấn mạnh rằng động lực xuất phát từ sự tương tác giữa các yếu tố bên ngoài và nhu cầu tâm lý nội tại, cho phép cá nhân tự chủ và đưa ra quyết định Theo lý thuyết này, con người có xu hướng hành động khi họ tin rằng hành vi của mình sẽ dẫn đến kết quả mong muốn (Ryan & Deci, 2000) Đồng thời, lý thuyết cũng nhấn mạnh vai trò của tự điều chỉnh trong quá trình tạo động lực và hành động, đặc biệt phù hợp để giải thích hành vi của những người yêu thích tự do trong công việc như giảng viên và học giả (Lam, 2014).

Lý thuyết tự quyết định phân biệt ba loại động lực: động lực bên trong, động lực bên ngoài và không có động lực Động lực bên trong là việc theo đuổi đam mê và tìm kiếm sự hài lòng, trong khi động lực bên ngoài liên quan đến việc đạt được kết quả và phần thưởng từ bên ngoài (Ryan & Deci, 2000) Trạng thái không có động lực (amotivation) xảy ra khi cá nhân không có ý định hành động do thiếu quan tâm hoặc không đánh giá được kết quả (Ryan, 1995) Lý thuyết này cho rằng hành vi cá nhân có thể thay đổi tính tự quyết, diễn ra từ không có động lực đến động lực nội tại, phản ánh khả năng tự quyết của cá nhân Động lực bên ngoài có thể được nội tâm hóa, giúp các giá trị trở thành động lực tự thân mà không cần phần thưởng bên ngoài.

Lam (2011) đã phát triển một mô hình dựa trên lý thuyết tự quyết định để giải thích mối quan hệ giữa động lực hành động và thương mại hóa trong nghiên cứu tại Anh Theo tác giả, động lực nghiên cứu không chỉ đơn thuần là động cơ tài chính, mà còn phức tạp hơn với ba nhóm phần thưởng chính: sự vinh danh (ruy băng), lợi ích tài chính (vàng) và thách thức giải quyết vấn đề (giải đố) (Stephan & Levin, 1992) Trong môi trường học thuật, sự vinh danh được coi là phần thưởng quan trọng nhất đối với các nhà khoa học, bởi vì nó không chỉ thúc đẩy họ qua sự công nhận từ đồng nghiệp mà còn liên quan đến tài trợ nghiên cứu và các phần thưởng tài chính từ tổ chức (Stephan, 1996).

Sự vinh danh trong hệ thống khoa bảng có ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động nghiên cứu của các nhà khoa học, mặc dù số lượng giải thưởng danh dự không nhiều Những giải thưởng này gián tiếp tác động đến việc tạo ra quỹ và ngân sách nghiên cứu (Hong & Walsh, 2009) Trong mô hình truyền thống, các ấn bản khoa học được coi là chứng từ trong mối quan hệ với sự vinh danh, và các sản phẩm khoa học có thể kết hợp với hình thức thương mại Nhà khoa học có thể sử dụng bằng sáng chế như một chứng từ để đạt được sự vinh danh và xây dựng uy tín nhằm nhận các phần thưởng truyền thống (Murray, 2006; Owen - Smith, 2003).

Các quá trình điều khiển động lực trong nghiên cứu có thể cùng tồn tại, với sự thúc đẩy từ cả bên trong và bên ngoài đối với các nhà khoa học Trong môi trường đại học, giảng viên có mức độ tự chủ cao và có thể lựa chọn tham gia vào quá trình thương mại hóa Tuy nhiên, xu hướng kinh doanh hóa khoa học đang tạo áp lực buộc họ tham gia vào các hoạt động thương mại, tùy thuộc vào lợi ích tiềm năng mà những hoạt động này mang lại Hình dưới đây minh họa các loại nhà khoa học và các cơ chế động lực ảnh hưởng đến hoạt động thương mại hóa, nghiên cứu và công bố.

Nhà khoa học truyền thống Định hướng giá trị

Hoạt động thương mại hóa/nghiên cứu/công bố

Nhà khoa học doanh nhân

Lợi ích tài chính Động lực

Ruy băng Vàng Giải đố

Không có động lực Động lực bên ngoài Động lực bên trong

Hình 1.1: Các dạng nhà khoa học và các động cơ ảnh hưởng tới các hoạt động thương mại hoá nghiên cứu hay công bố

1.3.2 T ổ ng quan các nghiên c ứ u c ủ a n ướ c ngoài v ề nghiên c ứ u khoa h ọ c trong tr ườ ng đạ i h ọ c

1.3.2.1 Các nghiên cứu về hoạt động nghiên cứu khoa học trong trường đại học

Nghiên cứu là một quá trình liên tục, với kiến thức thu được luôn là mục tiêu của khoa học (Muhammad Zafar Iqbal và cộng sự, 2011) Theo Geiger (1986), giáo dục đại học trong thế kỷ XXI đã có sự chuyển biến lớn so với cuối thế kỷ XIX và XX, khi các trường đại học trở thành trung tâm sản sinh kiến thức khoa học và công nghệ Giảng viên đại học đối mặt với nhiều thách thức trong việc nâng cao trình độ chuyên môn thông qua công việc giảng dạy và nghiên cứu hàng ngày Tham gia vào các hoạt động nghiên cứu không chỉ giúp giảng viên nâng cao kiến thức mà còn làm cho bài giảng trở nên hấp dẫn hơn, kết nối người học với các vấn đề thực tiễn và thu hút sinh viên Hơn nữa, năng lực nghiên cứu của giảng viên, được thể hiện qua các công trình công bố trên tạp chí uy tín, có tác động tích cực đến danh tiếng của trường (Geiger, 1986).

Theo "Tuyên bố về các nguyên tắc" năm 1915, các trường đại học có chức năng thúc đẩy sự tìm hiểu, nâng cao kiến thức nhân loại, hướng dẫn sinh viên và phát triển chuyên gia cho các ngành dịch vụ công Giảng viên đại học thực hiện các vai trò nghiên cứu, giảng dạy và phục vụ, từ đó tạo ra và phổ biến kiến thức cho đồng nghiệp, sinh viên và cộng đồng Tuy nhiên, sự cân bằng giữa giảng dạy, nghiên cứu và dịch vụ khác nhau tùy theo loại hình tổ chức và chế độ bổ nhiệm của giảng viên.

Khoảng trống nghiên cứu

Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước về hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) của giảng viên các trường đại học cho thấy sự đa dạng và sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố đến hoạt động này Tuy nhiên, các nghiên cứu hiện tại vẫn tồn tại những hạn chế và khoảng trống cần được khắc phục.

Các nghiên cứu quốc tế chủ yếu tập trung vào việc thiết lập khung phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH), bao gồm yếu tố cá nhân như giới tính, độ tuổi, trình độ và yếu tố ngoại cảnh như môi trường làm việc, khen thưởng, cũng như phân bố thời gian giảng dạy và nghiên cứu Mặc dù các phương pháp định lượng được áp dụng thành công để xác định các yếu tố này, nhưng các tác giả nước ngoài chưa chú trọng đến sự khác biệt giữa các ngành khoa học và lĩnh vực nghiên cứu Điều này dẫn đến việc không nhận diện được các nhóm yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu và các giải pháp cải thiện năng lực của người nghiên cứu Đặc biệt, trong lĩnh vực kinh tế, vẫn chưa có nghiên cứu quốc tế nào định lượng các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả của các nghiên cứu.

Các nghiên cứu trong nước chủ yếu tập trung vào việc đánh giá tổ chức, quản lý, thể chế chính sách và quản lý tài chính Tuy nhiên, các nghiên cứu này thường chỉ đưa ra vấn đề và phân tích thực trạng một cách định tính, thiếu vắng các nghiên cứu định lượng và mô hình hóa tác động của các yếu tố khác nhau đến kết quả nghiên cứu khoa học (NCKH) của giảng viên Do đó, cần có các giải pháp cụ thể để nâng cao năng lực của người nghiên cứu.

Do đó, các câu hỏi nghiên cứu được đặt ra là:

Một là, các nhân tố nào ảnh hưởng tới hoạt động nghiên cứu khoa học của các giảng viên của các trường đại học khối kinh tế?

Mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên được tổng hợp và phân tích theo từng nhóm, bao gồm điểm đề tài, điểm viết sách, điểm công bố và điểm hướng dẫn Những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả nghiên cứu của giảng viên.

Để thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học và nâng cao năng lực nghiên cứu tại các trường đại học, đặc biệt là khối kinh tế, cần tập trung vào việc cải thiện cơ sở hạ tầng nghiên cứu, khuyến khích giảng viên tham gia vào các dự án nghiên cứu, và tăng cường hợp tác với các tổ chức bên ngoài Việc tạo ra môi trường nghiên cứu tích cực, cung cấp tài chính và nguồn lực cần thiết, cũng như tổ chức các hội thảo và khóa đào tạo sẽ giúp nâng cao chất lượng nghiên cứu và khuyến khích sự sáng tạo trong giảng viên.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án tập trung vào hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên đại học, đặc biệt là các yếu tố tác động đến hoạt động này tại các trường đại học khối kinh tế.

Nghiên cứu này đánh giá hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) của giảng viên tại các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam Khảo sát được tiến hành tại năm trường đại học, trong đó có Trường Đại học Kinh tế Quốc dân và Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

Hồ Chí Minh, Trường Đại học Thương mại, Trường Đại học Tài chính - Kế toán, Trường Đại học Kinh tế - Luật (Đại học Quốc gia Tp HCM).

Phạm vi thời gian của nghiên cứu bao gồm dữ liệu thứ cấp từ năm 2012 đến 2017, cập nhật đến năm 2019, trong khi dữ liệu sơ cấp được thu thập đến năm 2019 Các giải pháp và hàm ý chính sách dự kiến sẽ được áp dụng trong giai đoạn 2021-2025.

Luận án này tập trung vào việc đánh giá và phân tích hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) của giảng viên đại học, đặc biệt trong khối kinh tế, cùng với các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả NCKH Dựa trên việc đánh giá thực trạng và các yếu tố tác động, luận án đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động NCKH và nâng cao năng lực nghiên cứu của giảng viên và các trường đại học khối kinh tế.

Trong luận án này, các trường đại học khối kinh tế được xác định là những cơ sở giáo dục có tên gọi liên quan đến lĩnh vực kinh tế hoặc chuyên đào tạo các ngành học thuộc lĩnh vực kinh tế.

Tác giả lựa chọn các trường đại học khối kinh tế cho nghiên cứu này vì các lý do sau:

Chương trình nghiên cứu tiến sĩ trong lĩnh vực kinh tế phù hợp với các trường kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho nghiên cứu sinh trong quá trình triển khai nghiên cứu của mình.

Trong thời gian qua, hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) tại các trường khối kinh tế chưa phát triển mạnh mẽ như ở các trường khối kỹ thuật - công nghệ Do đó, nghiên cứu này nhằm mục đích thúc đẩy và nâng cao hoạt động NCKH tại các trường khối kinh tế.

Trong giai đoạn 2021-2025 và những năm tiếp theo, nền kinh tế thị trường Việt Nam sẽ tiếp tục được hoàn thiện sau những thành tựu phát triển đáng kể Để đạt được mục tiêu hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc tăng cường nghiên cứu khoa học (NCKH) tại các trường khối kinh tế là rất quan trọng.

Vì hạn chế về thời gian và ngân sách, nghiên cứu sinh đã chọn khảo sát 5 trường đại học khối kinh tế Mặc dù số lượng trường không nhiều, nhưng đây là những trường lớn, có chuyên môn sâu về các ngành kinh tế và đại diện cho nhiều vùng miền.

Khái quát về phương pháp nghiên cứu

Luận án kết hợp nghiên cứu định tính và định lượng để giải quyết vấn đề nghiên cứu Nghiên cứu định tính được thực hiện ở giai đoạn đầu và cuối, nhằm lựa chọn và hiệu chỉnh thang đo trước khi tiến hành nghiên cứu định lượng, cũng như thu thập thông tin bổ sung qua phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm Nghiên cứu định lượng sử dụng các phân tích đa biến như thống kê mô tả, phân tích khám phá nhân tố, kiểm định độ tin cậy thang đo, phân tích tương quan, hồi quy bội và hồi quy logistic, nhằm đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu khoa học và khả năng công bố quốc tế của giảng viên trong các trường đại học khối kinh tế.

Đóng góp mới của luận án

Luận án có những đóng góp về lý luận và thực tiễn như sau:

Luận án đã phân tích hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến hoạt động nghiên cứu khoa học, đồng thời chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu của giảng viên tại các trường đại học khối kinh tế.

Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo tại Hội nghị “Phát triển khoa học công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học giai đoạn 2017-2025”, trong giai đoạn 2011-2015, cả nước đã công bố tổng cộng 10.034 bài báo quốc tế, trong đó các trường kỹ thuật công nghệ lớn chiếm hơn 30% với 1.733 bài Các trường khối nông, lâm, ngư, y đã đăng tải 7.023 bài báo, bao gồm 3.349 bài trên các kỷ yếu hội thảo quốc gia và quốc tế Đối với khối kinh tế, tỷ lệ đề tài trên giảng viên còn thấp, với Trường Đại học Kinh tế thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội có tỷ lệ cao nhất là 0,71, tiếp theo là Trường Đại học Kinh tế Quốc dân 0,47, và các trường khác như Trường Đại học Ngoại thương 0,17, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng 0,19, Trường Đại học Kinh tế Tp HCM 0,28.

Luận án đã phát triển một mô hình và điều chỉnh các thang đo chính để đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố như động cơ bên trong, động cơ bên ngoài, rào cản nghiên cứu và các điều kiện đến kết quả nghiên cứu của giảng viên.

Nghiên cứu đã đề xuất phương pháp đánh giá trọng số cho các thành phần ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu, dựa trên việc điều chỉnh cách tính điểm nghiên cứu khoa học của Hội đồng chức danh giáo sư nhà nước.

Nghiên cứu đã xác định và lượng hóa ảnh hưởng của các yếu tố khác nhau đến kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên tại các trường đại học kinh tế, bao gồm cả kết quả tổng hợp và điểm các thành phần Đồng thời, nghiên cứu cũng đề xuất một mô hình đánh giá tác động của các yếu tố này tới khả năng công bố quốc tế trong danh mục ISI/Scopus của giảng viên trong lĩnh vực kinh tế.

Tác giả đã đưa ra một số nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) của giảng viên tại các trường đại học kinh tế, dựa trên kết quả phân tích của luận án.

Để nâng cao chất lượng nghiên cứu trong các trường đại học, cần thực hiện một số giải pháp quan trọng Đầu tiên, cần đảm bảo tự do học thuật để khuyến khích sáng tạo Tiếp theo, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho hoạt động nghiên cứu là cần thiết Cải thiện cơ chế tài trợ khoa học và xã hội hóa nguồn quỹ tài trợ cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nghiên cứu Hơn nữa, đổi mới mô hình hợp tác nghiên cứu khoa học quốc tế và đẩy mạnh liên kết giữa đại học và doanh nghiệp sẽ góp phần thúc đẩy phát triển Cuối cùng, việc hội nhập và chấp nhận văn hóa khoa học quốc tế là yếu tố quan trọng để nâng cao năng lực nghiên cứu.

Kết cấu của luận án

Luận án được kết cấu thành 5 chương như sau:

Chương 1: Giới thiệu nghiên cứu

Chương 2: Cơ sở lý luận về kết quả nghiên cứu khoa học và các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên

Chương 3: Phương pháp nghiên cứu

Chương 4: Kết quả nghiên cứu

Chương 5: Thảo luận và các hàm ý nghiên cứu.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN

THIẾT KẾ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

THẢO LUẬN VÀ HÀM Ý NGHIÊN CỨU

Ngày đăng: 19/09/2021, 11:59

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Ayman Ahmad Abu Rumman & Ahmad Fathi Alheet (2019), “The Role of Researcher Competencies in Delivering Successful Research”, Information and Knowledge Management, ISSN 2224-896X (Online) DOI: 10.7176/IKM, Vol.9, No.1, 2019 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ayman Ahmad Abu Rumman & Ahmad Fathi Alheet (2019), “The Role ofResearcher Competencies in Delivering Successful Research”, "Information andKnowledge Management
Tác giả: Ayman Ahmad Abu Rumman & Ahmad Fathi Alheet
Năm: 2019
2. A. A. Victor, E. G. Babatunde (2014), ‘Motivation and Effective Performance of Academic Staff in Higher Education (Case Study of Adekunle Ajasin University, Ondo State, Nigeria)’, International Journal of Innovation and Research in Educational Sciences, Vol.1, No.2 Sách, tạp chí
Tiêu đề: A. A. Victor, E. G. Babatunde (2014), ‘Motivation and Effective Performance ofAcademic Staff in Higher Education (Case Study of Adekunle Ajasin University,Ondo State, Nigeria)’, "International Journal of Innovation and Research inEducational Sciences
Tác giả: A. A. Victor, E. G. Babatunde
Năm: 2014
3. Bernadette Conraths and Hanne Smidt (2005), The funding of university based research and innovation in Europe, EUA publications Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bernadette Conraths and Hanne Smidt (2005), "The funding of university based research and innovation in Europe
Tác giả: Bernadette Conraths and Hanne Smidt
Năm: 2005
4. Bộ Giáo dục và đào tạo (2005), 'Đánh giá hoạt động nghiên cứu khoa học 5 năm 2001-2005 và định hướng 2006-2010 trong lĩnh vực khoa học kinh tế của các trường đại học', Kỷ yếu hội thảo Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bộ Giáo dục và đào tạo (2005), 'Đánh giá hoạt động nghiên cứu khoa học 5 năm2001-2005 và định hướng 2006-2010 trong lĩnh vực khoa học kinh tế của cáctrường đại học'
Tác giả: Bộ Giáo dục và đào tạo
Năm: 2005
5. Bộ Giáo dục và đào tạo (2017), Báo cáo tổng hợp tại Hội nghị Khoa học và Công nghệ năm 2017 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bộ Giáo dục và đào tạo (2017)
Tác giả: Bộ Giáo dục và đào tạo
Năm: 2017
7. C. A. D’Angelo và G. Abramo (2014), 'How do you define and measure research productivity? Scientometrics', Scientometrics, 101(2). pp. 1129-1144 Sách, tạp chí
Tiêu đề: C. A. D’Angelo và G. Abramo (2014), 'How do you define and measure research productivity? Scientometrics', "Scientometrics
Tác giả: C. A. D’Angelo và G. Abramo
Năm: 2014
8. Chen, A. (2001), 'A Theoretical Conceptualization for Motivation Research in Physical Education: An Integrated Perspective', Quest, 53(1), pp. 35-58 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chen, A. (2001), 'A Theoretical Conceptualization for Motivation Research in Physical Education: An Integrated Perspective', "Quest
Tác giả: Chen, A
Năm: 2001
9. Chu Phạm Ngọc Sơn (2006), 'Để kết quả nghiên cứu khoa học không còn nằm trong phòng thí nghiệm', Tạp chí Hoạt động khoa học, số tháng 2.2006, tr. 23 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chu Phạm Ngọc Sơn (2006), 'Để kết quả nghiên cứu khoa học không còn nằm trong phòng thí nghiệm'", Tạp chí Hoạt động khoa học
Tác giả: Chu Phạm Ngọc Sơn
Năm: 2006
10. Creswell J., 1986, Measuring faculty research performance, Jossey-Bass Inc., San Francisco Sách, tạp chí
Tiêu đề: Creswell J., 1986, "Measuring faculty research performance
11. Cummings W.K., Finkelstein M.J., The Balance Between Teaching and Research in the Work Life of American Academics, Springer Publishing House, 2014 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cummings W.K., Finkelstein M.J., "The Balance Between Teaching and Research in the Work Life of American Academics
12. Đào Ngọc Tiến, Đoàn Quang Hưng và Nguyễn Sơn Tùng (2015), The Relationship between University GPA and Family Background: Evidence from a University in Vietnam, có tại: https://www.researchgate.net/publication/ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đào Ngọc Tiến, Đoàn Quang Hưng và Nguyễn Sơn Tùng (2015), "The Relationshipbetween University GPA and Family Background: Evidence from a University inVietnam
Tác giả: Đào Ngọc Tiến, Đoàn Quang Hưng và Nguyễn Sơn Tùng
Năm: 2015
13. Đinh Văn Ân (2006), 'Nghiên cứu khoa học phục vụ xây dựng chính sách kinh tế - Những vấn đề đặt ra', Tạp chí Hoạt động khoa học, số tháng 9.2006, tr. 28 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đinh Văn Ân (2006), 'Nghiên cứu khoa học phục vụ xây dựng chính sách kinh tế - Những vấn đề đặt ra', "Tạp chí Hoạt động khoa học
Tác giả: Đinh Văn Ân
Năm: 2006
14. E. Leahey (2006), 'Gender Differences in Productivity: Research Specialization as a Missing Link', Gender & Society, 20(6). pp. 754-780 Sách, tạp chí
Tiêu đề: E. Leahey (2006), 'Gender Differences in Productivity: Research Specialization as a Missing Link', "Gender & Society
Tác giả: E. Leahey
Năm: 2006
15. Edabu P. & Anumaka J.2014), 'Motivation tools as a determinant of effectiveness on academic staff in selected private universities in Central Uganda', International Journal of Research in Business Management, 2(9), pp. 93-106 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Edabu P. & Anumaka J.2014), 'Motivation tools as a determinant of effectivenesson academic staff in selected private universities in Central Uganda', "InternationalJournal of Research in Business Management
16. Erick Buberwa (2015), 'Role of Motivation on Academic Staff Performance in Tanzania Public Universities: Underpinning Intrinsic and Extrinsic Facets', European Journal of Business and Management, 7(36), pp. 219-230 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Erick Buberwa (2015), 'Role of Motivation on Academic Staff Performance inTanzania Public Universities: Underpinning Intrinsic and Extrinsic Facets',"European Journal of Business and Management
Tác giả: Erick Buberwa
Năm: 2015
17. G. Abramo, C. A. D’Angelo và A. Caprasecca (2009), 'Gender differences in research productivity: A bibliometric analysis of the Italian academic system', Scientometrics. 79(3). pp. 517-539 Sách, tạp chí
Tiêu đề: G. Abramo, C. A. D’Angelo và A. Caprasecca (2009), 'Gender differences inresearch productivity: A bibliometric analysis of the Italian academic system',"Scientometrics
Tác giả: G. Abramo, C. A. D’Angelo và A. Caprasecca
Năm: 2009
18. Geiger, R (1986), To advance knowledge: the growth of American research universities: 1900-1940, Oxford University Press, New York Sách, tạp chí
Tiêu đề: Geiger, R (1986), "To advance knowledge: the growth of American researchuniversities: 1900-1940
Tác giả: Geiger, R
Năm: 1986
19. Hồ Thị Hải Yến (2007), Hoàn thiện cơ chế tài chính đối với hoạt động khoa học và công nghệ trong các trường đại học ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hồ Thị Hải Yến (2007), "Hoàn thiện cơ chế tài chính đối với hoạt động khoa họcvà công nghệ trong các trường đại học ở Việt Nam
Tác giả: Hồ Thị Hải Yến
Năm: 2007
20. Hoàng Ngọc Hà (2006), 'Công tác nghiên cứu khoa học trong các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2001-2005 và định hướng 2006-2010', Tạp chí Hoạt động khoa học, số tháng 2.2006, tr. 36 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoàng Ngọc Hà (2006), 'Công tác nghiên cứu khoa học trong các trường đại học,cao đẳng giai đoạn 2001-2005 và định hướng 2006-2010', "Tạp chí Hoạt động khoahọc
Tác giả: Hoàng Ngọc Hà
Năm: 2006
21. Hosoi, M. (2005), “Motivating Employees in Academic Libraries in ToughTimes”, pp. 43-49, https://pdfs.semanticscholar.org/15c6/f62fef0e04c5a326b0fbf0e7ddf587190903.pdf?ga=2.240645379.1610454878.1615883923-1389971911.1615883923 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hosoi, M. (2005), “Motivating Employees in Academic Libraries in ToughTimes
Tác giả: Hosoi, M
Năm: 2005

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 3.2: Thang đo kết quả nghiên cứu khoa học - Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam
Bảng 3.2 Thang đo kết quả nghiên cứu khoa học (Trang 74)
Bảng 3.3: Thang đo nháp các biến quan sát trong các nhân tố của mô hình nghiên cứu - Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam
Bảng 3.3 Thang đo nháp các biến quan sát trong các nhân tố của mô hình nghiên cứu (Trang 76)
Bảng 3.4: Tiêu chuẩn lựa chọn chuyên gia - Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam
Bảng 3.4 Tiêu chuẩn lựa chọn chuyên gia (Trang 78)
Bảng 3.5: Kết quả đánh giá chuyên gia - Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam
Bảng 3.5 Kết quả đánh giá chuyên gia (Trang 80)
Bảng 3.6: Kích cỡ mẫu cho kích thước tổng thể khác nhau - Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam
Bảng 3.6 Kích cỡ mẫu cho kích thước tổng thể khác nhau (Trang 86)
Bảng 4.5: Tỷ lệ đề tài trên giảng viên của một số trường ĐH khối KT năm 2016 - Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam
Bảng 4.5 Tỷ lệ đề tài trên giảng viên của một số trường ĐH khối KT năm 2016 (Trang 99)
Bảng 4.7: Số lượng công bố khoa học của các trường ĐH khối KT đã công bố giai đoạn 2011-2016 - Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam
Bảng 4.7 Số lượng công bố khoa học của các trường ĐH khối KT đã công bố giai đoạn 2011-2016 (Trang 101)
Bảng 4.11: Phân bố mẫu khảo sát về trình độ ngoại ngữ - Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam
Bảng 4.11 Phân bố mẫu khảo sát về trình độ ngoại ngữ (Trang 111)
Bảng 4.12: Phân bố mẫu khảo sát về trình độ tin học - Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam
Bảng 4.12 Phân bố mẫu khảo sát về trình độ tin học (Trang 112)
Bảng 4.19: Quy tắc tính điểm nghiên cứu khoa học cho mỗi giảng viên - Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam
Bảng 4.19 Quy tắc tính điểm nghiên cứu khoa học cho mỗi giảng viên (Trang 115)
Bảng 4.18: Phân bố mẫu khảo sát về hướng dẫn tiến sĩ và thạc sỹ - Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam
Bảng 4.18 Phân bố mẫu khảo sát về hướng dẫn tiến sĩ và thạc sỹ (Trang 115)
Bảng 4.21: Kết quả phân tích khám phá nhân tố với các biến quan sát của biến “động cơ bên ngoài” - Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam
Bảng 4.21 Kết quả phân tích khám phá nhân tố với các biến quan sát của biến “động cơ bên ngoài” (Trang 118)
Bảng 4.24: Kết quả phân tích nhân tố với các động cơ bên trong - Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam
Bảng 4.24 Kết quả phân tích nhân tố với các động cơ bên trong (Trang 120)
Hình 4.2: Kết quả phân tích khẳng định nhân tố với các biến quan sát trong mô hình (chuẩn hóa) - Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam
Hình 4.2 Kết quả phân tích khẳng định nhân tố với các biến quan sát trong mô hình (chuẩn hóa) (Trang 126)
4.3.5. Điều chỉnh mô hình nghiên cứu - Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam
4.3.5. Điều chỉnh mô hình nghiên cứu (Trang 128)
Hình 4.3: Đề xuất mô hình nghiên cứu sửa đổi - Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam
Hình 4.3 Đề xuất mô hình nghiên cứu sửa đổi (Trang 129)
Bảng 4.33: Kết quả phân tích tương quan - Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam
Bảng 4.33 Kết quả phân tích tương quan (Trang 131)
Bảng 4.34: Ký hiệu các biến - Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam
Bảng 4.34 Ký hiệu các biến (Trang 132)
Bảng 4.36: Kết quả phân tích hồi quy các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả công bố trên tạp chí khoa học - Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam
Bảng 4.36 Kết quả phân tích hồi quy các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả công bố trên tạp chí khoa học (Trang 135)
Bảng 4.37: Kết quả phân tích hồi quy các nhân tố ảnh hưởng tới điểm nghiên cứu khoa học công bố trên tạp chí trong danh mục ISI/Scopus - Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam
Bảng 4.37 Kết quả phân tích hồi quy các nhân tố ảnh hưởng tới điểm nghiên cứu khoa học công bố trên tạp chí trong danh mục ISI/Scopus (Trang 137)
Bảng 4.39: Kết quả phân tích hồi quy đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố tới kết quả công bố bài báo ngoài danh mục ISI/Scopus - Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam
Bảng 4.39 Kết quả phân tích hồi quy đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố tới kết quả công bố bài báo ngoài danh mục ISI/Scopus (Trang 139)
Bảng 4.41: Kết quả phân tích hồi quy đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố tới điểm nghiên cứu khoa học từ thực hiện đề tài - Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam
Bảng 4.41 Kết quả phân tích hồi quy đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố tới điểm nghiên cứu khoa học từ thực hiện đề tài (Trang 141)
Bảng 4.42: Kết quả phân tích hồi quy đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố tới điểm nghiên cứu khoa học từ viết sách - Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam
Bảng 4.42 Kết quả phân tích hồi quy đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố tới điểm nghiên cứu khoa học từ viết sách (Trang 142)
Bảng 4.45: Đánh giá của giảng viên về các động cơ bên ngoài ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu khoa học - Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam
Bảng 4.45 Đánh giá của giảng viên về các động cơ bên ngoài ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu khoa học (Trang 146)
Hình 4.5: Ảnh hưởng của động cơ bên trong đến NCKH - Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam
Hình 4.5 Ảnh hưởng của động cơ bên trong đến NCKH (Trang 147)
Bảng 4.46: Đánh giá của giảng viên về các động cơ bên trong ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu khoa học - Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam
Bảng 4.46 Đánh giá của giảng viên về các động cơ bên trong ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu khoa học (Trang 148)
Hình 4.6: Ảnh hưởng của các yếu tố rào cản đến NCKH - Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam
Hình 4.6 Ảnh hưởng của các yếu tố rào cản đến NCKH (Trang 149)
Bảng 4.47: Đánh giá của giảng viên đối với các rào cản ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu của giảng viên - Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam
Bảng 4.47 Đánh giá của giảng viên đối với các rào cản ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu của giảng viên (Trang 150)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w