THỰC TRẠNG NGHÈO ĐÓI Ở TỈNH NGHỆ AN
Một số vấn đề về thực trạng nghèo đói ở Nghệ An
2.3.1 Nghèo đói qua một số chỉ tiêu
2.3.2 Nghèo đói và bất bình đẳng
Chương 3: Vấn đề xóa đói giảm nghèo
3.1 Thực hiện các chương trình, dự án trong công tác xóa đói giảm nghèo của tỉnh giai đoạn 2006- 2010
3.2 Các mô hình kinh tế xóa đói giảm nghèo của tỉnh trong những năm qua 3.3 Một số giải pháp góp phần xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Nghệ An
- Phần 3: Kết luận và kiến nghị
Phần 2: NỘI DUNG Chương 1: MỘT SỐ CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ NGHÈO ĐÓI VÀ XÓA ĐÓI
GIẢM NGHÈO 1.1 Vấn đề nghèo đói
1.1.1 Khái niệm về nghèo đói
1.1.1.1 Theo quan niệm của quốc tế
Trong cuộc sống hàng ngày và trong nghiên cứu khoa học, các khái niệm như nghèo đói, phân hóa giàu nghèo, xóa đói giảm nghèo và phân tầng xã hội thường xuất hiện Mỗi quốc gia và dân tộc đều có những quan niệm riêng về vấn đề nghèo đói, phản ánh sự đa dạng trong cách hiểu và giải quyết vấn đề này.
Trong "Báo cáo phát triển thế giới năm 1990", Ngân hàng Thế giới (WB) định nghĩa nghèo khổ là tình trạng khó đạt được mức sống tối thiểu Nghèo khổ biểu hiện qua việc một bộ phận dân cư không có khả năng đáp ứng các nhu cầu cơ bản như ăn, ở, mặc, vệ sinh và y tế Những người có thu nhập dưới 1/3 mức trung bình của xã hội cũng được xem là nghèo khổ.
Tại Hội nghị chống đói nghèo do Ủy ban Kinh tế - Xã hội Châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP) tổ chức ở Băng Cốc, Thái Lan vào tháng 9/1993, các quốc gia trong khu vực đã đạt được sự đồng thuận cao về tầm quan trọng của việc hợp tác để giảm thiểu đói nghèo.
Nghèo đói là tình trạng mà một bộ phận dân cư không đủ khả năng đáp ứng các nhu cầu cơ bản của con người Những nhu cầu này phụ thuộc vào mức độ phát triển kinh tế xã hội và các phong tục tập quán đặc trưng của từng vùng, những yếu tố này được xã hội công nhận.
Khái niệm nghèo đói có thể chia theo 2 cách khác nhau: Nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối
Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng những nhu cầu cơ bản tối thiểu để duy trì cuộc sống
Nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức trung bình của cộng đồng
Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau về nghèo đói, nhưng nhìn chung, các quan niệm này đều tập trung vào ba khía cạnh chính của người nghèo.
- Không được hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành cho con người
- Có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư
Nghèo đói là một khái niệm động, thay đổi theo thời gian và không gian, không có định nghĩa chung cho tất cả các quốc gia hay khu vực Thiếu cơ hội tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng nghèo đói.
1.1.1.2 Theo quan niệm của Việt Nam
Theo PGS.TS Lê Trọng, đói nghèo là tình trạng mà một bộ phận dân cư không được hưởng hoặc chỉ được hưởng rất ít tài nguyên, trong khi nghèo là khi họ không thể thỏa mãn những nhu cầu cơ bản được xã hội công nhận Tình trạng này phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của các dân tộc tại địa phương.
Theo Bộ Lao động và Thương binh Xã hội nghèo đói được hiểu như sau:
Nghèo được định nghĩa là tình trạng mà một bộ phận dân cư chỉ đáp ứng được một phần các nhu cầu tối thiểu cơ bản cho cuộc sống, được gọi là nghèo tuyệt đối Ngoài ra, nghèo còn được hiểu là mức sống thấp hơn mức trung bình của cộng đồng trong một khía cạnh nào đó, được gọi là nghèo tương đối.
Nhu cầu tối thiểu bao gồm những yêu cầu cơ bản về ăn uống, mặc đồ, chỗ ở, cũng như các nhu cầu sinh hoạt hàng ngày như văn hóa, y tế, giáo dục, đi lại và giao tiếp.
Đói là tình trạng mà một bộ phận dân cư nghèo sống dưới mức tối thiểu, không đủ thu nhập để đáp ứng nhu cầu vật chất cần thiết cho cuộc sống Những người này thường xuyên thiếu ăn, có thể trải qua tình trạng đứt bữa từ 1-2 tháng mỗi năm, thường phải vay nợ từ cộng đồng và gặp khó khăn trong việc chi trả các nhu cầu cơ bản.
1.1.1.3 Một số khái niệm liên quan
- Hộ nghèo: là những hộ có thu nhập bình quân đầu người trong hộ dưới ngưỡng đói nghèo
Theo quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ngày 30/1/2011 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015 được xác định dựa trên mức thu nhập bình quân đầu người trong hộ, cụ thể là vùng nông thôn có mức thu nhập dưới 4.000.000 đồng/người/tháng.
+ Vùng thành thị : < 500.000 đồng/ người/ tháng/
Những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người dưới mức quy định nêu trên được xác định là hộ nghèo
Chuẩn nghèo không phải là cố định mà sẽ thay đổi theo thời gian, dựa vào sự phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương Những địa phương đáp ứng đủ điều kiện có thể nâng chuẩn nghèo lên để phù hợp với thực tế địa phương đó.
Thu nhập bình quân đầu người tại đây vượt trội so với mức trung bình của cả nước, trong khi tỷ lệ hộ nghèo lại thấp hơn mức trung bình quốc gia Đặc biệt, địa phương này có khả năng tự cân đối ngân sách và chủ động thực hiện các chính sách giảm nghèo theo tiêu chuẩn nâng cao.
Theo Quyết định số 587/2002/QĐ-LĐTBXH ngày 22/05/2002 của Bộ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, xã nghèo được định nghĩa là những xã có tiêu chí cụ thể trong giai đoạn 2001-2005 Quy định này nhằm xác định và hỗ trợ phát triển cho các xã gặp khó khăn về kinh tế.
+ Tỉ lệ hộ nghèo từ 25% trở lên
+ Chưa đủ 3 trong 6 hạng mục cơ sở hạ tầng thiết yếu (Bao gồm đường giao thông, trường học, trạm y tế, điện sinh hoạt, nước sạch, chợ) Cụ thể là:
Dưới 30% số hộ sử dụng nước sạch
Dưới 50% số hộ sử dụng điện sinh hoạt
Chưa có đường ô tô đến trung tâm xã hoặc ô tô không đi lại được cả năm
Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, số phòng học hiện tại chỉ đáp ứng dưới 70% nhu cầu của học sinh, dẫn đến tình trạng thiếu thốn và sử dụng phòng học tạm bợ làm từ tranh, tre, nứa, lá.
Chưa có trạm y tế xã hoặc có nhưng chỉ là nhà tạm
Chưa có chợ hoặc chợ tạm bợ