1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Góp phần tìm hiểu một số di tích lịch sử văn hóa ở huyện hương sơn hà tĩnh

68 43 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 68
Dung lượng 1,43 MB

Cấu trúc

  • A. MỞ ĐẦU (8)
    • 1. Lý do chọn đề tài (8)
    • 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề (8)
    • 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu (9)
    • 4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu (9)
    • 5. Bố cục của đề tài (9)
  • B. NỘI DUNG (10)
  • Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HUYỆN HƯƠNG SƠN, TỈNH HÀ TĨNH (10)
    • 1.1. Điều kiện tự nhiên (10)
    • 1.2. Đặc điểm lịch sử, xã hội và dân cư (12)
    • 1.3. Các di tích lịch sử ở huyện Hương Sơn - Hà Tĩnh (16)
  • Chương 2. MỘT SỐ DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HOÁ TIÊU BIỂU (18)
    • 2.1. Đền Bạch Vân và chùa Thịnh Xá (18)
      • 2.1.1. Đền Bạch Vân (18)
      • 2.1.2. Chùa Thịnh Xá (26)
      • 2.1.3. Hiện trạng và các phương án sử dụng, bảo về di tích (27)
    • 2.2. Nhà thờ Nguyễn Lỗi (28)
      • 2.2.1. Lịch sử dòng họ Nguyễn ở xã Sơn Bình, huyện Hương Sơn và nhân vật thờ tự ở nhà thờ Nguyễn Lỗi (28)
      • 2.2.2. Đặc điểm nhà thờ Nguyễn Lỗi (35)
      • 2.2.3. Hiện trạng và các phương án sử dụng, bảo vệ di tích (40)
    • 2.3. Nhà thờ Tống Tất Thắng (41)
      • 2.3.1. Vài nét về lịch sử dòng họ Tống Trần ở xã Sơn Hòa và nhân vật được thờ tự ở nhà thờ Tống Tất Thắng (41)
      • 2.3.2. Đặc điểm nhà thờ Tống Tất Thắng (46)
      • 2.3.3. Bài trí nội thất (51)
      • 2.3.3. Hiện trạng và các phương án sử dụng, bảo vệ di tích (52)
  • Chương 3. CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HOÁ Ở HUYỆN HƯƠNG SƠN TRONG ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NHÂN DÂN ĐỊA PHƯƠNG (54)
    • 3.1. Đền, chùa, nhà thờ họ trong đời sống tâm linh (54)
    • 3.2. Nhà thờ họ và văn hóa dòng họ (55)
    • 3.3. Ý nghĩa (59)
    • C. KẾT LUẬN (61)
    • D. TÀI LIỆU THAM KHẢO (63)
    • E. PHỤ LỤC (65)

Nội dung

NỘI DUNG

Hương Sơn là huyện miền núi nằm ở phía Tây Bắc của Hà Tĩnh, cách trung tâm tỉnh lỵ 70km Huyện này giáp ranh với Đức Thọ ở phía đông, Vũ Quang ở phía nam, Thanh Chương (Nghệ An) ở phía bắc, và có đường biên giới dài 56km với Lào ở phía tây Quốc lộ 8A kết nối Hương Sơn với các nước trong khu vực qua cửa khẩu quốc tế Cầu Treo, cùng với đường mòn Hồ Chí Minh chạy qua trung tâm huyện, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế và giao lưu văn hóa với các tỉnh lân cận và các nước Đông Nam Á.

Huyện có 32 đơn vị hành chính, bao gồm 30 xã và 2 thị trấn: thị trấn Phố Châu và thị trấn Tây Sơn Trong đó, thị trấn Phố Châu đóng vai trò là trung tâm văn hóa, chính trị của huyện, đồng thời là đầu mối lưu thông hàng hóa từ cửa khẩu Cầu Treo đến các khu vực khác trong cả nước.

Diện tích tự nhiên của Hương Sơn là 110.414 ha, trong đó chỉ có 10% là đất canh tác, còn lại chủ yếu là đất lâm nghiệp Địa hình đồi núi rộng lớn và khí hậu khắc nghiệt đã ảnh hưởng đến đời sống người dân Với 8.385.257 ha rừng núi, chiếm khoảng 80% tổng diện tích, khu vực này có rừng rậm đại ngàn và rừng thưa liên kết tạo thành cánh cung Tây Nam Hương Sơn có 165 ngọn núi, 160 con khe, và 128 đồi, tạo nên cảnh quan đa dạng Điều kiện thiên nhiên và phong thổ thuận lợi cho nền nông nghiệp nương rẫy và lúa nước tại các thung lũng lòng chảo và ven các bờ, khe suối quanh sông Ngàn Phố.

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HUYỆN HƯƠNG SƠN, TỈNH HÀ TĨNH

Điều kiện tự nhiên

Hương Sơn là huyện miền núi nằm ở phía Tây Bắc Hà Tĩnh, cách trung tâm tỉnh lỵ 70km Huyện này giáp với Đức Thọ ở phía đông, Vũ Quang ở phía nam, Thanh Chương (Nghệ An) ở phía bắc, và nước Lào ở phía tây với đường biên giới dài 56km Quốc lộ 8A kết nối Hương Sơn với các nước trong khu vực qua cửa khẩu quốc tế Cầu Treo, cùng với đường mòn Hồ Chí Minh chạy qua trung tâm huyện, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế và giao lưu văn hóa với các tỉnh và quốc gia Đông Nam Á.

Huyện có tổng cộng 32 đơn vị hành chính, bao gồm 30 xã và 2 thị trấn: thị trấn Phố Châu và thị trấn Tây Sơn Trong đó, thị trấn Phố Châu đóng vai trò là trung tâm văn hóa và chính trị của huyện, đồng thời là điểm giao thương quan trọng từ cửa khẩu Cầu Treo đến các khu vực khác trong cả nước.

Diện tích tự nhiên của Hương Sơn là 110.414ha, trong đó chỉ 10% là đất canh tác, còn lại chủ yếu là đất lâm nghiệp Với địa hình đồi núi và khí hậu khắc nghiệt, nơi đây có 8.385.257 ha rừng, chiếm khoảng 80% tổng diện tích, tạo thành cánh cung Tây Nam Hương Sơn có 165 ngọn núi, 160 con khe và 128 đồi, tạo nên những thung lũng giống như lòng chảo khổng lồ Điều kiện tự nhiên thuận lợi cho nền nông nghiệp nương rẫy và lúa nước, đặc biệt là ở các thung lũng và ven sông Ngàn Phố, nơi có nhiều đồi thoai thoải thích hợp cho trồng chè, cây ăn quả và lúa Kinh tế vườn ở Hương Sơn phát triển mạnh mẽ với các loại trái cây như cam, quýt, bưởi, mít, dứa, góp phần quan trọng vào thu nhập và ổn định đời sống của người dân nơi đây.

Hương Sơn sở hữu tài nguyên thiên nhiên phong phú, đặc biệt là đất và rừng Đất ở huyện có 6 nhóm và 14 loại khác nhau, bao gồm đất phù sa, đất xám bạc màu, đất đỏ vàng, và nhiều loại khác Rừng Hương Sơn nổi bật với nhiều loại gỗ quý hiếm như cẩm lai, lát hoa, và trầm hương, cùng với 465 loài thực vật bậc cao, trong đó có nhiều loại quý hiếm Ngoài ra, khu vực này còn có 70 loài thú, bao gồm nhiều loài quý hiếm như sao la, hổ và voi, khẳng định sự phong phú và đa dạng của hệ sinh thái rừng Hương Sơn.

Sông Ngàn Phố chia huyện Hương Sơn thành hai phần: tả ngạn và hữu ngạn, với vùng thượng lưu và hạ lưu Khu vực hạ lưu nổi bật với hai cánh đồng rộng và phẳng là Địa Vì và Đấu Lường, nơi có điều kiện đất đai màu mỡ Các cánh đồng này phát triển tốt nhờ nguồn nước phong phú từ hệ thống sông suối, kênh mương dày đặc và các hồ đập lớn, đặc biệt là sự đóng góp của sông Ngàn Phố.

Hương Sơn có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhưng bị ảnh hưởng bởi địa hình sườn Đông Trường Sơn, dẫn đến sự phân hóa rõ rệt với mùa đông lạnh ẩm và mùa hè khô nóng Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 23,4°C, với tổng lượng mưa từ 2000 - 2100 mm, phân bố không đều Số giờ nắng hàng năm khoảng 1463 giờ, mùa hè nắng gay gắt ảnh hưởng xấu đến sản xuất nông nghiệp Huyện chịu tác động của gió mùa Đông Bắc vào mùa đông, làm giảm nhiệt độ và gây hại cho nông nghiệp, trong khi gió mùa Tây Nam vào mùa hè gây hạn hán và nguy cơ cháy rừng Hằng năm, Hương Sơn còn phải đối mặt với 1-2 cơn bão và áp thấp nhiệt đới.

Điều kiện tự nhiên của huyện mang lại nhiều lợi thế cho sự phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội, nhưng cũng đặt ra những thách thức cần có chính sách phù hợp để giải quyết.

Đặc điểm lịch sử, xã hội và dân cư

Hương Sơn, trong lịch sử, đã trải qua nhiều tên gọi khác nhau Theo tài liệu “Đại Nam nhất thống chí” của Quốc sử quán triều Nguyễn, vùng đất Hương Sơn xưa thuộc châu Phúc Lộc, nằm trong khu vực Hoan Châu vào thời kỳ nhà Đinh và Tiền Lê.

Lý thuộc châu Nghệ An, thời Trần gọi là Đỗ Gia, thời thuộc Minh (1407 -

Năm 1427, vùng đất này được tách thành hai huyện Cổ Đỗ và Thổ Hoàng thuộc Nghệ An phủ Tuy nhiên, vào đầu thời kỳ Hậu Lê, hai huyện này lại được nhập lại và mang tên Đỗ Gia Đến năm Quang Thuận thứ 10 (1469), triều đình Hậu Lê đã đổi tên thành huyện Hương Sơn, bao gồm 10 tổng.

57 xã, thôn, thuộc phủ Đức Quang xứ Nghệ An Tên huyện Hương Sơn ra đời từ đây

Năm 1867, nhà Nguyễn đã tách 5 tổng phía nam của huyện Hương Sơn, bao gồm Quỳ Hợp, Chu Lễ, Phương Điền, Phú Lộc, và Hương Khê, để thành lập huyện Hương Khê Sau khi tách, huyện Hương Sơn còn lại 5 tổng phía Bắc là Đỗ Xá, An Ấp, Hữu Bằng, Dị Ốc, và Thổ Hoàng thuộc phủ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.

Từ năm 1831 đến 1919, huyện Hương Sơn thuộc phủ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh Năm 1931, chính quyền thực dân phong kiến đã bãi bỏ đơn vị hành chính cấp phủ, khiến huyện Hương Sơn trực thuộc tỉnh Hà Tĩnh.

Năm 1976, xã Ân Phú thuộc huyện Hương Sơn được chuyển sang huyện Đức Thọ và đổi tên thành Đức Ân Từ năm 1976 đến 1991, khu vực này thuộc huyện Hương Sơn, tỉnh Nghệ Tĩnh Đến năm 1991, xã lại trở về thuộc huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.

Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, Hương Sơn có 5 tổng và 48 xã thôn Sau Cách mạng tháng Tám, chính quyền mới đã bỏ cấp tổng và hợp nhất các thôn xã cũ thành 22 xã mới Từ năm 1948 đến 1950, 22 xã này tiếp tục được hợp nhất thành 15 xã.

Từ năm 1953 đến 1954, Hương Sơn đã tách 15 xã, nâng tổng số xã lên 29 Năm 1991, xã Sơn Phố được chuyển đổi thành thị trấn Phố Châu Đến năm 1999, thị trấn Tây Sơn được thành lập từ việc tách hai xã Sơn Tây và Sơn Kim Năm 2006, xã Sơn Kim lại được chia thành Sơn Kim 1 và Sơn Kim 2 Hiện tại, Hương Sơn có 32 đơn vị hành chính, bao gồm 2 thị trấn: Phố Châu và Tây Sơn.

Bài viết liệt kê 30 xã thuộc các huyện khác nhau, bao gồm: Sơn Mỹ, Sơn Tây, Sơn Long, Sơn Trà, Sơn Hà, Sơn Bình, Sơn Kim 1, Sơn Kim 2, Sơn Lĩnh, Sơn Diệm, Sơn Quang, Sơn Lâm, Sơn Hàm, Sơn Trung, Sơn Phú, Sơn Trường, Sơn Mai, Sơn Thủy, Sơn Bằng, Sơn Ninh, Sơn Thịnh, Sơn Hòa, Sơn An, Sơn Lễ, Sơn Tiến, và Sơn Châu.

Theo Địa chí Hương Sơn của Sở Văn hóa Hà Tĩnh, vùng đất Hương Sơn xưa kia chủ yếu là nơi cư trú của người Thái, còn được gọi là châu Ngọc Ma dưới sự lãnh đạo của tù trưởng Cầm Quý Điều này cho thấy lưu vực sông Ngàn Phố đã hình thành một tiểu vùng văn hóa độc đáo, mang đặc trưng của nền văn hóa nương rẫy Ban đầu, văn hóa này do người Thái phát triển, sau đó có sự gia nhập của người Kinh, dẫn đến việc người Kinh dần dần lấn át người Thái trong khu vực.

Người Kinh ngày càng gia tăng, mang theo nền văn minh nông nghiệp lúa nước và kỹ thuật sản xuất vào Ngọc Ma Sự phát triển của văn minh lúa nước đã làm thay đổi rõ rệt diện mạo văn hóa tại Ngọc.

Sự đan xen giữa văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần đã tạo ra những tác động mạnh mẽ giữa hai nền văn hóa lúa nước và nương rẫy Tuy nhiên, điều này không làm mất đi giá trị của văn hóa nương rẫy; ngược lại, tùy thuộc vào đặc điểm địa hình của từng tiểu vùng, cả hai yếu tố văn hóa này hỗ trợ và bổ sung cho nhau, cùng phát triển Đặc biệt, yếu tố vườn và sườn đồi đang ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn trong bối cảnh này.

Từ thời Lý đã có sự chuyển cư của người Kinh từ vùng đồng bằng Bắc

Bộ vào trấn Nghệ An, nơi có sự kết hợp giữa miền ven biển và núi non, đã thu hút nhiều dân cư từ các nơi khác đến lập nghiệp Vùng núi Châu Ngọc Ma hiện nay đã có sự gia tăng đáng kể về dân số, với nhiều người dân mới đến sinh sống.

Kinh đến sinh sống tại vùng đất này, nơi có những làng cổ như Kẻ Mui, Kẻ Ác, Kẻ Mơ Từ "Kẻ" là đơn vị hành chính đã xuất hiện từ sớm trong hệ thống hành chính của người Việt cổ.

Theo thống kê quý 4/2011 của Trung tâm dân số huyện Hương Sơn, tổng dân số huyện đạt 116.029 người, với 33.870 hộ gia đình Trong đó, có 13.062 người sinh sống tại khu vực đô thị và 102.967 người cư trú ở khu vực nông thôn.

Con người Hương Sơn luôn gắn bó với thiên nhiên, đồng thời phải đối mặt với những thử thách khắc nghiệt và gánh nặng từ các cuộc chiến tranh Điều này đã tạo nên một vùng đất mới với những con người cần cù, sáng tạo và dũng cảm Trên mảnh đất Hương Sơn, các anh hùng và hào kiệt luôn xuất hiện qua các thời kỳ.

Các di tích lịch sử ở huyện Hương Sơn - Hà Tĩnh

Hương Sơn là một vùng quê với truyền thống lịch sử văn hóa lâu dài, nơi con người đã không ngừng sáng tạo và chinh phục thiên nhiên Trong suốt quá trình lịch sử, họ đã đấu tranh chống lại kẻ thù xâm lược, từ đó để lại nhiều di sản văn hóa quý giá cho dân tộc.

Nhờ vào sự lao động chăm chỉ và tình yêu con người cũng như thiên nhiên, người dân nơi đây đã sáng tạo ra nhiều câu tục ngữ, ca dao và dân ca mang đậm giá trị nhân văn Họ cũng đã tạo ra nhiều giá trị văn hóa vật thể phong phú và đa dạng, bao gồm các kiến trúc tôn giáo như đền, đình, chùa, am, quán, và nhà thờ họ Bên cạnh đó, các khu tưởng niệm anh hùng lịch sử và danh nhân văn hóa, cùng với các di tích lịch sử và cách mạng, đã được xây dựng qua nhiều thời kỳ khác nhau.

Di tích Đền Cả, tọa lạc tại xã Sơn Trà, được xây dựng vào thời nhà Lý để thờ Lý Nhật Quang Đền còn được biết đến với các mỹ tự như Kệ Quan Sơn đại Vương và Hồng Tự Thượng Thượng Đẳng thần, thể hiện giá trị văn hóa và lịch sử của địa phương.

Vào thế kỷ XV, các di tích ghi dấu cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược vẫn còn hiện hữu, thể hiện rõ nét trong lịch sử dân tộc, tiêu biểu như Động Tiên Hoa ở xã Sơn Phúc và Thành Lục Niên thuộc dãy Thiên Nhẫn.

Lê Lợi và bộ chỉ huy quân Lam Sơn đã thực hiện nhiều trận đánh táo bạo, góp phần quan trọng vào việc đẩy lùi cuộc xâm lược của giặc Minh Hiện nay, nhiều di tích lịch sử ghi nhận công lao của các tướng quân như Nguyễn Tuấn Thiện và Nguyễn Lỗi, những người được vua ban quốc tính vì những đóng góp trong việc xây dựng triều chính Ngoài ra, còn tồn tại nhiều di tích khác liên quan đến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, như Đền Trúc và nhà thờ Trần Giác.

Linh (Sơn Mai) và chùa Côn Sơn (Sơn Tiến) là những điểm đến nổi bật, cùng với nhiều câu chuyện dân gian thú vị như truyền thuyết về cây thị xã Sơn Phúc, núi Nhà Chàng, đồi Đảng Phủ ở xã Sơn Bình, và Rú Sơn Cờ.

Nét nổi bật trên địa bàn huyện Hương Sơn có di tích đại danh y Hải

Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là một di tích quan trọng, thể hiện tài năng và đức độ của một bậc tiền nhân có đóng góp lớn lao cho nền y học Việt Nam.

Hương Sơn không chỉ nổi tiếng với các di tích lịch sử tiêu biểu như Đền Bạch Vân và chùa Thịnh Xá, mà còn có nhiều công trình văn hóa khác như Đền Gôi Vị, nhà thờ Nguyễn Lỗi, Tống Tất Thắng, và nhà thờ cụ Thượng Đào.

Di tích thời Cần Vương chống Pháp còn có di tích Cao Thắng, Nguyễn Lân, Nguyễn Ngọc Khiêm

Đình Tứ Mỹ là một di tích lịch sử cách mạng quan trọng, nơi nhân dân tập hợp để khởi nghĩa chống lại triều đình tay sai Đây cũng là địa điểm thành lập chi bộ Đảng đầu tiên của huyện Hương Sơn, đánh dấu một bước ngoặt trong phong trào cách mạng địa phương.

MỘT SỐ DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HOÁ TIÊU BIỂU

Đền Bạch Vân và chùa Thịnh Xá

2.1.1 Đền Bạch Vân a Nguồn gốc lịch sử và đối tượng được thờ tự Đền Bạch Vân đền nằm trên Cồn Mai thuộc làng Thịnh Xá (tổng Yên Ấp xưa, nay thuộc xóm Thịnh Nam, xã Sơn Thịnh) nên còn được gọi là đền Thịnh Xá Trong quá trình trùng tu tôn tạo, trong khuôn viên của đền Bạch Vân được xây thêm chùa, gác chuông, thờ Phật, vì vậy dân gian cũng gọi là chùa Thịnh Xá

Đền Bạch Vân mang tên gọi gắn liền với sự tích về Đinh Nho Công, người đã thi đỗ tiến sĩ vào năm 1670 Sau khi thành công, ông nhớ lại lời báo mộng của một người bạn học cũ, điều này đã tạo nên ý nghĩa đặc biệt cho ngôi đền.

Đền Bạch Vân, được xây dựng vào năm Canh Tuất (1670) dưới triều vua Lê Huyền Tông, tọa lạc tại Cồn Mai, làng Thịnh Xá, nơi có đám mây trắng quần tụ Ban đầu, đền được làm từ tre, nứa và mái tranh, nhưng đến năm Tân Mùi (1691), dưới triều vua Lê Huy Tông, đền đã được trùng tu bằng vật liệu kiên cố hơn Đền thờ Trần Toản, một nhân vật có nguồn gốc từ Thanh Hóa, người được cho là bạn đồng học với Đinh Nho Công trong thời trẻ.

Sự tích đền Bạch Vân kể rằng: Năm Đinh Nho Công khoảng 30 tuổi, một hôm vừa chợp mắt ông thấy mình đi cày ở vùng Cồn Lây ở làng Thịnh

Xá gặp một bà lão thanh nhã, người khuyên ông nên tập trung vào việc học hành thay vì đi cày, vì điều đó sẽ giúp ông trở thành nhân tài cho đất nước Nghe lời bà, Đinh Nho Công quyết định nuôi chí học tập và tìm thầy giỏi ở Thanh Hóa, nơi ông kết bạn với Trần Toản, một nho sinh thông minh Sau ba năm miệt mài học tập, cả hai đều đậu cử nhân và hứa hẹn sẽ thi hội tại Thăng Long sau ba năm Trước ngày thi, Đinh Nho Công mơ thấy Trần Toản thông báo rằng chỉ mình ông đi thi, còn Trần đã qua đời Trong giấc mơ, Trần Toản nhắn nhủ Đinh Nho Công lấy bài vở của mình để thi, và mong ông đậu tiến sĩ, đồng thời yêu cầu xây dựng một đền thờ ở làng Thịnh Xá Khi tỉnh dậy, Đinh Nho Công nhận ra đó chỉ là giấc mơ, nhưng khi ra Thanh Hóa, mọi chuyện lại diễn ra đúng như vậy.

Năm Canh Tuất (1670), Đinh Nho Công đỗ tiến sĩ và trong đêm vinh quy, ông mơ thấy Trần Toản đến chúc mừng, dặn rằng: "Hãy dựng đền ở nơi có đám mây trắng để nhớ ơn tình bạn" Sau giấc mơ, Đinh Nho Công thấy đám mây trắng dày đặc ở Cồn Mai, làng Thịnh Xá, nên đã cho xây dựng đền Bạch Vân tại đây để tưởng nhớ.

Vào thời kỳ cuối thời Lê đầu Nguyễn, đền Bạch Vân được xây dựng với quy mô gồm ba toà: hạ điện, trung điện và thượng điện, cùng với nhà cất đồ lễ Sau này, dân làng đã xây thêm nhà chùa và nhà thượng chuông ở phía sau, cùng với nhà nghĩa thương ở phía trước Đền Bạch Vân nổi tiếng với sự linh thiêng, nơi mà những người đến cầu khấn khoa danh đều được toại nguyện Sự tích của đền gắn liền với thời vua Lê Huy Tông.

Năm 1700, trước khi thi Hoàng giáp, Đinh Nho Hoàn, con trai Đinh Nho Công, đã đến đền Bạch Vân làm lễ và mơ thấy một nho sinh mặc áo trắng báo rằng ông sẽ đậu Hoàng giáp Kết quả là trong kỳ thi Canh Thìn năm đó, Đinh Nho Hoàn đã đạt danh hiệu Hoàng giáp, sau đó được bổ nhiệm làm quan ngự sử và nhiều lần được cử đi sứ sang Trung Quốc Tuy nhiên, ông đã qua đời vì bệnh tật tại Trung Quốc vào năm 1715, và vua Càn Long đã cho quân hộ tống thi hài ông về đến ải Nam Quan Đinh Nho Hoàn còn để lại câu đối để ghi nhớ sự tích đáng trân trọng này.

“Thần bút hà niên hoàng bảng trợ Linh từ chung cổ Bạch Vân lưu”

(Nghĩa là: Bút thần năm trước nên bảng vàng, đền cổ ngàn năm dấu Bạch Vân)

Về tiến sĩ Đinh Nho Công, sách: “Các nhà khoa bảng Việt Nam” chép:

“Đinh Nho Công người xã Yên Ấp, huyện Hương Sơn, nay thuộc xã Sơn

Hòa, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, là cha của Hoàng giáp Đinh Nho Hoàn, người thi hương đỗ giải nguyên năm 34 tuổi và đạt Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất, niên hiệu Cảnh Trị năm thứ 8, dưới triều vua Lê Huyền Tông Vào khoảng năm Nhâm Tuất (1692), trong niên hiệu Chính Hòa, ông giữ chức tham chính xứ Sơn Nam và sau đó được thăng chức Thiên Đô Ngự Sử, nhưng vì phạm lỗi nên bị truất xuống làm Tự Khanh.

Sau khi qua đời, tiến sĩ Đinh Nho Công được nhân dân làng Thịnh Xá tôn thờ tại đền Bạch Vân như một thành hoàng của làng Bài vị thờ trong đền ghi rõ danh xưng của ông là “Đương cảnh thành hoàng thiên linh hiển ứng, Cồn Mai phúc thần Đại Vương, lịch triều gia phong thượng đẳng tôn thần”.

Nhân dân thịnh xá đã xây dựng gác chuông và chùa làng phía sau đền Bạch Vân, được gọi là chùa Thịnh Xá, nhằm phục vụ nhu cầu tu hành của cộng đồng Chùa Thịnh Xá nổi bật với những đặc điểm kiến trúc và điêu khắc độc đáo, thể hiện văn hóa và tâm linh của nhân dân địa phương.

Đền Bạch Vân, một công trình kiến trúc tôn giáo có lịch sử gần 350 năm, đã trải qua nhiều biến cố do thời gian, chiến tranh và con người gây ra Dù vậy, đền vẫn bảo tồn được những đặc điểm chính của kiến trúc thời cuối Lê đầu Nguyễn Nằm trên bờ đất cao Cồn Mai, gần trung tâm xã Sơn Thịnh và trên trục đường liên xã Sơn Hòa - Sơn Thịnh, đền còn có trong khuôn viên một ngôi chùa và một gác chuông tám mái, cả hai đều hướng về phía Tây Nam và nằm phía sau đền.

Bố cục kiến trúc của đền được thiết kế theo kiểu chữ tam, bao gồm Hạ điện, Trung điện và Thượng điện, hướng về phía đông nam nhìn xuống núi Thiên Nhẫn Tuy nhiên, cổng chính của đền lại nằm ở phía Tây Nam, hướng ra sông Ngàn Phố Theo truyền thuyết, trước đây, cổng đền Bạch Vân cũng mở về phía đông nam, nhưng do người dân cho rằng hướng này mang lại sự "động", không yên ổn, nên đã xin đổi sang hướng Tây Nam, nhìn ra sông Ngàn Phố.

Ngoài những công trình đã tồn tại trước đây, đền Bạch Vân hiện có thêm hai công trình mới là Nhà cất lễ và Nhà nghĩa thương, được xây dựng đầu thế kỷ XX dưới sự vận động của Nguyễn Khắc Niêm, một tiến sĩ xuất thân từ xã An Ấp, huyện Hương Sơn Hai ngôi nhà này có kiến trúc không đặc biệt và nằm ở phía đông bắc của đền.

Nhà hạ điện là một công trình kiến trúc tiêu biểu với sự đầu tư công phu về kỹ thuật và mỹ thuật, có quy mô lớn Trước nhà hạ điện, hai con ngựa đá phủ phục trên bệ đá thể hiện nét phong trần, mỗi con dài 0,9m và cao 0,5m, đầy đủ yên cương Công trình có chiều dài 8,6m, rộng 5,7m, với gian giữa rộng 2,6m và hai gian bên rộng 2,2m Hệ thống cột bao gồm 6 cột gỗ mít đường kính 0,3m và 8 cột quân bằng gỗ mít đường kính 0,25m Bốn góc nhà được xây bằng gạch với 4 cột trụ hiên mái vuông kích thước 0,25 x 0,25m Nền nhà được lát gạch đất nung kích thước 0,2 x 0,2m, với trang trí chủ yếu tập trung ở gian chính giữa Trên cùng là bức chạm gỗ tinh xảo hình mặt nguyệt với chín con phượng bay chầu vào nhau, tạo cảm giác như 9 đám mây bay lên bầu trời.

Theo quan niệm xưa, có tám con phượng ngoảnh vào chầu mặt nguyệt, riêng một con bên phải ngoảnh ra, tượng trưng cho con số chín - con số cực dương Sự kết hợp của tám con phượng và mặt nguyệt tạo thành con số chín, biểu trưng cho sự trường tồn vĩnh cửu Trước mặt là bức hoành phi bằng gỗ sơn son với ba chữ "Chi linh thần," do tiến sĩ Nguyễn Xuân Đản, người làng Thịnh Xá, tặng khi ông đậu tiến sĩ năm 1916 Bên dưới là bức hoành phi sơn son thiếp vàng với bốn chữ Hán "Kỳ thịnh hị hồ," có nghĩa là thịnh vượng Ở bên phải, có bức hoành phi nhỏ hơn với chữ Hán "Long phi thân tí đông," do Đại học sĩ Ngô Thì Nhậm tặng làng Thịnh Xá và đền Bạch Vân, nhân dịp ông cùng vua Quang Trung ra Bắc Hà lần thứ hai.

Tử Nguyễn Thiếp vào cuối năm 1788 để hỏi ý kiến về sách lược giữ nước và ghé qua làng Thịnh Xá một ngày đêm

Nhà thờ Nguyễn Lỗi

2.2.1 Lịch sử dòng họ Nguyễn ở xã Sơn Bình, huyện Hương Sơn và nhân vật thờ tự ở nhà thờ Nguyễn Lỗi

Nhà thờ Nguyễn Lỗi, tọa lạc tại xã Sơn Bình, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, được khởi công xây dựng vào năm 1818, tức năm thứ 13 triều đại vua Gia Long Địa điểm này thường được người dân địa phương gọi là “Bổn Lý Tộc” Đến nay, dòng họ Nguyễn tại xã Sơn Bình đã có lịch sử phát triển kéo dài 21 đời, tương đương gần 600 năm.

Thượng tổ khảo của dòng họ Nguyễn (Sơn Bình) là thượng tướng quân Nguyễn Công Lỗi, quê ở làng Để, tổng Yên Thái, huyện Ngọc Sơn (nay là Làng Để, xã Thanh Sơn, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa) Ông đã theo chiếu chỉ của vua, cùng các cận thần khai khẩn đất đai tại vùng Đỗ Gia, huyện Hương Sơn, lập ấp và mở mang bờ cõi, bảo vệ biên cương phía Tây Nam Đại Việt, thành lập làng Bảo Thịnh, xã Dương Trai Nguyễn Công Lỗi đã kết hợp với Đinh Liệt và Đinh Lễ xây dựng căn cứ chống giặc Minh tại Nghệ Tĩnh, thiết lập tuyến phòng thủ từ Phúc Sơn, Kim Sơn (Sơn Bằng), Sơn Bình, Sơn Trà đến Đức Ân, Đức Hương Nhờ công lao to lớn này, sau khi chiến thắng giặc Minh, vào ngày 5 tháng 3 năm 1428, Lê Lợi đã phong tặng ngạch công thần cho 93 người, trong đó Nguyễn Công Lỗi đứng thứ 17 trong số các khai quốc công thần của triều đại.

Lê Công Lỗi, hạng 4 trong 9 ngạch công thần cứu nước, được ban tước đình thượng hầu và hàm thượng tướng quân, giữ chức tổng quản quân dân sư đạo Tây Bắc, ngang hàng với Nguyễn Chích và Đinh Lễ Vào tháng 12 năm 1464, vua Lê Thánh Tông quy định rằng công thần được đặc ân quốc tính chỉ được hưởng một đời, trong khi con cháu sẽ mang họ cũ Do đó, họ Nguyễn ở xã Sơn Bình được phong tặng là họ “Bổn Lý” để ghi nhớ nguồn gốc của họ với nhà vua, mặc dù các văn bản vẫn ghi là họ Nguyễn Ngày 7 tháng 11 năm 1434, Đinh thượng hầu Nguyễn Công Lỗi mất khi đang giữ chức vụ Tây đạo hành khiển, tả bộc xạ, đứng đầu cả chính trị và quân sự ở một đạo, tương đương với chức tể tướng Vua Lê Thái Tông đã truy tặng ông vào hàng ngũ các công thần tiết nghĩa, ghi nhận công lao của ông trong sự nghiệp cứu nước.

3 chép rằng: “…Truy tặng Bảo chính công thần phụ quốc, thượng tướng quân, nhập nội trung thủ lệnh, hưởng thượng hầu, thụy là Trung Giản…”, ngang với

Lê Lý, Lê Văn Linh, Lê Quốc Hưng, hạng một khai quốc công thần, đại thần, phẩm trật cao nhất thời đó

Thị tổ khảo Nguyễn Đức Ly, con trai của Nguyễn Công Lỗi, đã vượt qua nhiều khó khăn để phát triển vùng đất Đỗ Gia mà không dựa vào gia đình Ông bắt đầu khai phá tại núi Bạch Sơn, trồng cây màu, cấy lúa và chăn nuôi gia súc để nuôi sống gia đình và người giúp việc Qua thời gian, ông đã hình thành các cụm dân cư, lập làng Bảo Thịnh, mở lớp học nhằm nâng cao dân trí và đào tạo nhân tài, đặc biệt chú trọng đến việc học hành và đạo đức Nhờ những đóng góp trong việc mở mang và bảo vệ biên cương, ông được vua Lê Thánh Tông phong tặng hàm Thái Bảo.

Nguyễn Quảng Thâm, cháu của Nguyễn Đức Ly, đã đỗ cử nhân và được bổ nhiệm làm tri huyện huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam Khi trở về quê, ông được tặng danh hiệu Sĩ chí tham chính và tước Thái Bảo Sự nghiệp học vấn của ông phát triển rực rỡ, đánh dấu một thời kỳ quan trọng trong gia đình Thái Bảo Nguyễn Quảng Thâm có bốn người con trai.

Nguyễn Văn Lễ, sinh năm Giáp Thìn (1604), là một thần đồng nổi bật với trí thông minh và học vấn uyên thâm từ nhỏ Ông được biết đến với khả năng văn chương lưu loát và đã thi đỗ cử nhân khi chưa đầy 20 tuổi Tuy nhiên, tính cách cương trực và sự không ưa xu nịnh của ông đã khiến ông gặp nhiều khó khăn trong thi cử, bị ghen ghét bởi quan trường Mãi đến năm 46 tuổi, vào tháng 10 năm Canh Dần (1650), ông mới đạt được thành công trong kỳ thi hội.

Lê Thần Tông là một trong 8 người đỗ cao trong kỳ thi năm 1650, với 2500 sĩ tử tham gia Ông đạt đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân, tức là đỗ đầu Hoàng giáp Theo bảng đề tên các tiến sĩ tại Văn miếu Quốc Tử Giám, vào mùa Đông năm Canh Dần, nhà vua đã triệu tập sĩ tử để thi hội Vào ngày 12 tháng Chạp, vua trực tiếp ra đề thi và sau đó xem xét kết quả Khương Thế Hiển và Nguyễn Văn Lễ là hai trong số những người đạt tiến sĩ, và nhà vua đã tổ chức lễ xướng danh trang trọng tại điện Kính Thiên, cấp áo mũ cho các tiến sĩ để họ trở về quê nhà vinh quy bái tổ.

Nguyễn Văn Lễ, một quan chức nổi bật dưới triều đại Lê Thần Tông, đã được giao nhiều chức vụ quan trọng và luôn hoàn thành nhiệm vụ với tinh thần thanh liêm, cương trực, được nhân dân kính trọng Ông từng giữ chức Tả thị lang bộ lại và sau đó thăng chức Thượng thư Bộ công, nhận nhiều vinh dự như Đặc tiến kim tử Vinh Lộc đại phu và Hải văn hầu Ông luôn quan tâm đến quê hương, thúc đẩy giáo dục cho thế hệ trẻ, cải thiện đời sống kinh tế, xây dựng các công trình tưởng niệm và hỗ trợ nhân dân trong các hoạt động phát triển nông thôn như đắp đường, lập chợ và khai phá đất hoang Ông cũng đã khởi xướng việc thành lập hội văn xã, quy tụ các sĩ tử có học vấn để xây dựng nhà thờ đức thánh Khổng, góp phần nâng cao văn hóa và giáo dục trong cộng đồng.

Tử, gồm 1 nhà thờ thượng đường, 2 nhà tả vu và hữu vu, 1 nhà bái đường

Tam quan là lối ra vào rộng rãi, tạo ấn tượng mạnh mẽ về sự uy nghiêm và bề thế của công trình kiến trúc Di tích này vẫn còn lưu giữ nhiều dấu tích quan trọng, thể hiện giá trị lịch sử của nó Ông Nguyễn Văn cũng có mối liên hệ đặc biệt với nơi đây.

Lễ đã đóng góp công sức và tài sản để xây dựng công trình cùng với việc cung cấp 2 mẫu ruộng tốt, tạo điều kiện cho các sĩ tử trong xã có nơi hành lễ và học tập Đây cũng là nơi các sĩ tử tụ họp để bình văn, đọc quyền, chia sẻ kinh nghiệm học hành và thảo luận về giáo dục Các hoạt động này vẫn được duy trì đến trước cách mạng tháng 8 năm 1945, với nhiều tài liệu hiện vật còn lưu giữ tại di tích Ông cũng tổ chức xây dựng đường, lập chợ Hôm tại Cồn Rò, giúp người dân trong vùng trao đổi hàng hóa và phát triển thương mại Nhờ đó, các con đường trong làng trở nên cao ráo và rộng rãi, thuận tiện cho giao lưu văn hóa và buôn bán Theo các cụ cao tuổi, trước cách mạng tháng 8 năm 1945, Cồn Rò và Thánh Xã là hai nơi sầm uất nhất, với một nơi phát triển kinh tế và một nơi là trung tâm văn hóa Sự phát triển phồn thịnh này có phần đóng góp quan trọng của quan thượng thư Nguyễn Văn Lễ.

Nguyễn Văn Lễ có công lớn trong việc xây dựng các đền, miếu thờ cúng các danh nhân, giúp dân làng có sức khỏe, làm ăn phát đạt và đời sống yên ổn Ông đã đóng góp công sức và tài chính để xây dựng đền thờ thành hoàng làng, đền Cồn Củi, đền thờ Bà Khoa Giáp, cùng nhiều đền khác Gia phả dòng họ kể rằng gần nhà ông có miếu thờ bà cô, một bà cụ hành khất, thường báo mộng cho dân làng về các sự việc sắp xảy ra, được gọi là miếu Cây Si Hàng ngày, ông thường ra đây học, đốt lá si ban đêm để lấy ánh sáng Ông cầu nguyện Bà cô phù hộ cho sức khỏe và học hành đỗ đạt, hứa sẽ xây dựng ngôi đền khang trang bên gốc cây si nếu trở thành quan Vì vậy, đền Cây Si được gọi là đền thờ Bà Khoa Giáp, thể hiện lòng thành kính và quyết tâm của ông trong con đường khoa cử.

Nguyễn Văn Lễ, trong thời gian làm quan Tả thị lang Bộ lại, đã trở về quê và nhận thấy người dân đang khốn khổ vì mất mùa do hạn hán kéo dài Ông đã nghiên cứu tình hình và kêu gọi con cháu cùng nhân dân địa phương hợp sức xây đập Khe Su để tạo hồ nước dự trữ và làm mương máng tưới tiêu cho các cánh đồng như Cơn Hít, Tiềm Tiên, Thung Đọt, Trào Bòi, và Con Ngãi Kết quả là đồng ruộng luôn đủ nước, lúa, ngô, khoai phát triển tốt, mang lại cuộc sống no đủ cho mọi nhà Để ghi nhớ công ơn của ông, người dân đã đặt tên cho đập là Khe Su và đập Quan Thị, và hiện nay di tích này vẫn còn tồn tại.

Nguyễn Thủ Xứng, con trai của Nguyễn Văn Lễ, sinh năm Nhâm Ngọ (1642) trong thời kỳ vua Lê Thần Tông trị vì Từ khi còn nhỏ, ông đã nổi bật với trí thông minh và thành tích học tập xuất sắc, đạt danh hiệu Giám sinh ở tuổi 20 Với tính cách cương nghị và thái độ kiên quyết, Nguyễn Thủ Xứng không mấy ưa thích lối viết văn chương theo kiểu khoa cử.

42 tuổi ông mới đỗ tiến sĩ, đời vua Lê Hy Tông, niên hiệu Chính Hòa năm thứ

Vào năm Quý Hợi (1693), có 300 sĩ tử tham gia kỳ thi hội, trong đó 18 người đạt danh hiệu tiến sĩ Bài ký tại Văn Miếu, Quốc Tử Giám, Hà Nội ghi nhận rằng vào mùa Đông năm Quý Hợi, nhà vua đã cho phép các sĩ tử trong nước thi hội và ấn định thứ hạng của những người đỗ, trong đó có đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.

14 người… (trong đó có) Nguyễn Thủ Xứng người xã Dương Trai, huyện Hương Sơn”

Sau khi đỗ tiến sĩ, Nguyễn Thủ Xứng được bổ nhiệm làm quan Hiến sát sứ, phụ trách nhiều nhiệm vụ quan trọng như điều tra, xét xử và kiểm nghiệm Ông nổi tiếng với phẩm chất thanh liêm, cương trực và tình yêu thương đối với dân, nên ở đâu ông cũng được nhân dân kính trọng và yêu mến, góp phần tạo nên sự yên ổn và phát triển cho địa phương Khi trở về quê, một viên quan dưới quyền, cảm kích trước tấm lòng nhân hậu của ông, đã quyết định cùng gia đình về quê sinh sống, và sau này trở thành thị tổ của dòng họ Nguyễn Đức.

Nhà thờ Tống Tất Thắng

2.3.1 Vài nét về lịch sử dòng họ Tống Trần ở xã Sơn Hòa và nhân vật được thờ tự ở nhà thờ Tống Tất Thắng

Nhà thờ Tống Tất Thắng, hay còn được gọi là nhà thờ họ Tống, tọa lạc tại xã Nam Trung, huyện Nam Đàn, Nghệ An Theo gia phả, Tống Tất Thắng sinh năm 1498 tại xã Trung Cần, huyện Thanh Chương.

Tống Tất Thắng, một thần đồng sinh ra trong gia đình nhà nho, từ nhỏ đã thể hiện sự thông minh và ham học Được cha dạy bảo cốt cách làm người và mẹ yêu thương chăm sóc, ông tưởng chừng sẽ có một cuộc sống yên ấm Tuy nhiên, cha mẹ ông mất sớm, khiến cuộc đời ông bước sang một giai đoạn khó khăn Với đức tính hiếu học và sự hỗ trợ từ anh và bà con, ông đã vượt qua thử thách và nhanh chóng nổi tiếng trong vùng Văn bia ngày nay vẫn ghi nhớ những đóng góp và thành tựu của ông.

“Công tinh Tống, Thanh chương huyện, Trung Cần xã, nhân thiếu hữu, thần đồng danh, Bắc lan kinh sự, binh pháp trận đồ vô bất tinh cửu…”

Mặc dù cuộc sống hàng ngày của Tống Tất Thắng đầy khó khăn và bận rộn với công việc nông nghiệp, anh vẫn không ngại thức khuya và dậy sớm để đọc sách và học bài Giống như nhiều học trò xứ Nghệ, từ nhỏ, Tống Tất Thắng đã nuôi trong mình chí hướng lớn lao, mong muốn học hành thi cử để tiến thân trên con đường khoa bảng, từ đó có thể giúp ích cho xã hội.

Năm 1502, Tống Tất Thắng, 15 tuổi, thi đỗ Hương Cống và trở thành giám sinh tại Quốc Tử Giám, trường học cao nhất của nhà nước phong kiến Việt Nam Tại đây, ông không chỉ trau dồi tài năng và đức hạnh mà còn giữ vững tinh thần cần cù, chăm chỉ Ngoài việc học binh sử, Tống Tất Thắng còn nghiên cứu binh pháp và luyện võ, nhờ đó sớm nổi tiếng trong trường với tài năng văn võ, được thầy và bạn bè yêu mến.

Sau khi vua Lê Hiến Tông qua đời vào năm 1505, Lê Uy Mục lên ngôi và tiếp tục truyền thống của các triều đại trước bằng việc tổ chức kỳ thi để tuyển chọn nhân tài cho bộ máy hành chính.

Sau ba năm miệt mài học tập, Tống Tất Thắng đã đỗ đồng tiến sĩ khoa Ất Sửu năm 1505, biến ước mơ thành hiện thực Sau khi thi đỗ, ông trở về quê hương tổ chức lễ vinh quy bái tổ và thăm lại nơi mình lớn lên Năm 1506, ông được triều đình bổ nhiệm làm quan, giữ vị trí danh vọng nhưng vẫn khiêm tốn, luôn làm tròn chức trách của mình và được vua tin cậy Dưới triều vua Lê Uy Mục, tình hình chính trị trở nên hỗn loạn, với nhiều quan lại tham nhũng Trong bối cảnh đó, khi một số tộc người xâm lấn biên giới, Tống Tất Thắng đã xin vua cho phép cầm quân bảo vệ quê hương.

Từ năm 1510 đến 1518, Tống Tất Thắng được vua giao nhiệm vụ chỉ huy quân đội tại vùng Nghệ An - Hà Tĩnh để tiêu diệt giặc Sầm và Chiêm Thành Qua nhiều năm chiến đấu, ông đã ghi dấu ấn với nhiều chiến công lớn, bảo vệ vững chắc biên giới phía Nam của Đại Việt Nhờ những đóng góp quan trọng này, triều đình vua Lê đã trao tặng ông chức “Nghĩa quận công” và sau đó ông trở về triều đình với chức vụ mới.

Với chức vụ "Lại bộ thượng thư", ông đã cống hiến hết mình để phục vụ vua và khôi phục kỷ cương phép nước Ông trung thành với nhà vua, đồng thời sắp xếp công việc một cách nghiêm túc, thực hiện khen thưởng và kỷ luật công bằng Đối với những quan lại tham ô, nịnh thần và những kẻ sách nhiễu nhân dân, ông không ngần ngại trừng trị thích đáng Chính vì sự nghiêm minh của ông mà những kẻ tham quan luôn tìm cách trả thù và chờ thời cơ để hãm hại ông.

Triều đình vua Lê vào thời điểm này đã phân hóa sâu sắc và không còn vững mạnh, khiến ông không thể tự mình chống đỡ Từ năm 1519 đến 1523, giặc Bồn Man từ phía Tây quấy nhiễu, và lợi dụng tình hình, các gian thần đề xuất vua cử Tống Tất Thắng, người am hiểu địa hình Nghệ An, làm chỉ huy quân đội Với lòng yêu quê hương, Tống Tất Thắng đã tận tâm thực hiện nhiệm vụ, chăm sóc quân lính bằng tình cảm như cha con Nhờ vậy, ông đã thu phục được lòng dân, nhận được sự ủng hộ và có nhiều người gia nhập đội quân Sau mỗi trận chiến, ông cùng binh sĩ giúp dân khai hoang, tổ chức sản xuất nông nghiệp và lập làng mới.

Sách “Nghệ An ký” của Bùi Dương Lịch, mục nhân vật chí có chép:

“Tống Tất Thắng người xã Nam Hoa thượng, huyện Thanh Chương” Còn

Ông đỗ đồng tiến sĩ năm 18 tuổi vào khoa Ất Sửu, niên hiệu Đoan Khánh thứ nhất (1505), sau đó giữ chức Thượng thư bộ lại và nhập nội hành khiển, được phong tước nghĩa quận công Hiện nay, ông được phong là phúc thần.

Ông Tống là một nhân vật tài ba với nhiều chiến công, nổi bật trong cuộc chiến chống giặc Sầm và Chiêm Thành, sau đó đảm nhiệm vai trò tổng chinh thảo Ai Lao và hy sinh trong trận chiến Hiện nay, ông được thờ tại đền Tổng Chinh trên núi Ngũ Nhạc, xã Lương Trường Con cháu của ông di cư về xã An Ấp, huyện Hương Sơn, mang họ Trần và được gọi là Trần Tống Nhiều thế hệ sau đó trong dòng họ thường có người đỗ đạt hương cống.

Tài liệu chính sử về cuộc đời của ông rất hiếm, do đó, quá trình nghiên cứu công trạng của ông chủ yếu dựa vào các truyền ngôn và gia phả họ Tống Theo văn bia, sau khi đánh bại giặc Bồn Man, ông được vua khen thưởng tước Lộc Quận Công Tuy nhiên, khi giặc Bồn Man quay trở lại xâm lược từ năm 1523-1526, ông lại được nhà vua giao nhiệm vụ đánh giặc Đáng tiếc, sau trận đánh, ông đã qua đời vì bệnh tật khi đang trên đường trở về hậu cứ, ở độ tuổi khoảng 35 - 40, khi còn đang ở thời kỳ sung sức.

Mặc dù chưa có đủ thời gian để phục vụ đất nước, nhưng tên tuổi và công lao của ông đã được triều Lê và lịch sử ghi nhận Thi hài ông được an táng tại quê hương và được truy phong “Thượng, thượng thượng đẳng thần” Là một người văn võ song toàn, ông xứng đáng được ghi danh trên bia đá Trong suốt cuộc đời, ông đã nhận được nhiều phong thưởng, và sau khi mất, ông được truy tặng cùng với việc lập đền thờ để nhân dân mãi mãi ghi nhớ công lao của ông.

Tống Tất Thắng, một nhân vật lịch sử nổi bật từ những năm 1505 - 1527, là biểu tượng cho tinh thần "Xả thân vì nghĩa lớn" Xuất thân từ một gia đình nghèo và mồ côi cha mẹ, ông đã vượt qua nhiều khó khăn để thực hiện ước mơ của mình Dù triều đại Lê đang suy yếu, ông không quên nghĩa vụ với quê hương, sẵn sàng hy sinh quyền lợi cá nhân để bảo vệ biên cương tổ quốc Tài năng quân sự của ông không chỉ giúp vua dẹp giặc ngoại xâm mà còn đóng góp lớn trong việc khai khẩn đất đai, chiêu dân lập ấp và xây dựng làng mạc quê hương.

Ngày nay, người dân vẫn ghi nhớ công lao to lớn của ông trong việc khai hoang lập làng, đặc biệt là tại Hương Sơn, Hương Khê, cũng như Nam Kim, Nam Đàn, mang lại cuộc sống bình yên cho muôn dân.

CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HOÁ Ở HUYỆN HƯƠNG SƠN TRONG ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NHÂN DÂN ĐỊA PHƯƠNG

Ngày đăng: 16/09/2021, 17:50

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Ban chấp hành Đảng bộ Hương Sơn, Lịch sử Đảng bộ Hương Sơn, Đảng bộ Hương Sơn phát hành, năm 1990 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử Đảng bộ Hương Sơn
2. Nguyễn Đổng Chi (chủ biên), Địa chí văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh, NXB Nghệ An, năm 1995 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Địa chí văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh
Nhà XB: NXB Nghệ An
3. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, NXB Sử học, năm 1960 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch triều hiến chương loại chí
Nhà XB: NXB Sử học
4. Danh nhân Hà Tĩnh, Sở văn hóa Hà Tĩnh, năm 1998 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Danh nhân Hà Tĩnh
5. Thái Kim Đỉnh (chủ biên), Làng cổ Hà Tĩnh, Sở Văn hóa Hà Tĩnh, năm 2000 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Làng cổ Hà Tĩnh
6. Thái Kim Đỉnh, Các nhà khoa bảng Hà Tĩnh, NXB Văn học nghệ thuật Hà Tĩnh, năm 2004 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các nhà khoa bảng Hà Tĩnh
Nhà XB: NXB Văn học nghệ thuật Hà Tĩnh
8. Trần Tấn Hành, Di tích danh thắng Hà Tĩnh, Sở Văn hóa Hà Tĩnh, năm 1997 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Di tích danh thắng Hà Tĩnh
9. Lê Văn Hưu, Đại Việt sử ký toàn thư, NXB Khoa học xã hội, năm 1973 10. Trần Kính, Địa dư tỉnh Hà Tĩnh, Nhà in Bắc Hà, năm 1939 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đại Việt sử ký toàn thư", NXB Khoa học xã hội, năm 1973 10. Trần Kính," Địa dư tỉnh Hà Tĩnh
Nhà XB: NXB Khoa học xã hội
11. Bùi Dương Lịch, Nghệ An ký, NXB Khoa học Xã hội, năm 1993 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghệ An ký
Nhà XB: NXB Khoa học Xã hội
13. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, NXB Khoa học Xã hội, năm 1970 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đại Nam nhất thống chí
Nhà XB: NXB Khoa học Xã hội
14. Trương Hữu Quýnh, Đại cương lịch sử Việt Nam tập 1, NXB Giáo dục, năm 2008 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đại cương lịch sử Việt Nam tập 1
Nhà XB: NXB Giáo dục
15. Sở Văn hóa Hà Tĩnh, Địa chí Hương Sơn, NXB Khoa học Xã hội, năm 2003 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Địa chí Hương Sơn
Nhà XB: NXB Khoa học Xã hội
16. Sở Văn hóa Hà Tĩnh, Kỷ yếu hội thảo khoa học văn hiến Hà Tĩnh xưa và nay, NXB Hà Tĩnh, năm 2003 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kỷ yếu hội thảo khoa học văn hiến Hà Tĩnh xưa và na
Nhà XB: NXB Hà Tĩnh
17. Nguyễn Trí Sơn, Đền Bạch Vân, Báo Hà Tĩnh số 2735 ngày 27/6/1998 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đền Bạch Vân
18. Nguyễn Trí Thân, Trở lại bài báo đền Bạch Vân, Tạp chí Văn hóa Hà Tĩnh, số 37, tháng 9, 10/1999 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trở lại bài báo đền Bạch Vân
19. Ngô Đức Thọ (chủ biên), Các nhà khoa bảng Việt Nam, NXB Văn học, năm 1993 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các nhà khoa bảng Việt Nam
Nhà XB: NXB Văn học
12. Phòng văn hóa Hương Sơn, Hồ sơ di tích đền Bạch Vân, chùa Thịnh Xá, nhà thờ Nguyễn Lỗi, nhà thờ Tống Tất Thắng Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w