1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tìm hiểu một số di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu ở huyện thanh chương, tỉnh nghệ an

129 63 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 129
Dung lượng 2,21 MB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (5)
  • 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề (6)
  • 3. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu (9)
  • 4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu (10)
  • 5. Đóng góp của đề tài (11)
  • 6. Bố cục của đề tài (11)
  • Chương 1. KHÁI QUÁT HỆ THỐNG CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA Ở HUYỆN THANH CHƯƠNG (12)
    • 1.1. Vài nét về đặc điểm địa lý tự nhiên, tình hình kinh tế, xã hội (12)
      • 1.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên (12)
      • 1.1.2. Tình hình kinh tế, xã hội (15)
    • 1.2. Truyền thống lịch sử, văn hóa (18)
      • 1.2.1. Truyền thống yêu nước và cách mạng (18)
      • 1.2.2. Truyền thống văn hoá (23)
    • 1.3. Tổng quan về các di tích lịch sử - văn hoá ở huyện Thanh Chương (26)
      • 1.3.1. Di tích khảo cổ học (28)
  • Chương 2. DIỆN MẠO MỘT SỐ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA TIÊU BIỂU TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH CHƯƠNG (91)
    • 2.1. Đền Bạch Mã (33)
      • 2.1.1. Địa điểm (33)
      • 2.1.2. Nguồn gốc lịch sử và nhân vật thờ tự (34)
      • 2.1.4. Đặc điểm kiến trúc điêu khắc (37)
      • 2.1.5. Các hiện vật trong di tích (41)
      • 2.1.6. Một số nhận xét (43)
    • 2.2. Đình Võ Liệt (45)
      • 2.2.1. Địa điểm (45)
      • 2.2.4. Một số nhận xét (51)
    • 2.3. Chùa Giai (52)
      • 2.3.1. Địa điểm (52)
      • 2.3.2. Nhân vật thờ tự (52)
      • 2.3.3. Đặc điểm kiến trúc điêu khắc (55)
      • 2.3.4. Các hiện vật trong di tích (57)
      • 2.3.5. Một số nhận xét (58)
    • 2.4. Nhà thờ họ Nguyễn Duy và cây sui Diên Tràng (59)
      • 2.4.1. Địa điểm nhà thờ họ Nguyễn Duy (60)
      • 2.4.2. Khái quát về dòng họ Nguyễn Duy (62)
      • 2.4.3. Khảo tả di tích (62)
      • 2.4.4. Nhân vật thờ tự (65)
      • 2.4.5. Cây Sui Diên Tràng (70)
    • 2.5. Nhà thờ họ Đặng (71)
      • 2.5.1. Địa điểm (71)
      • 2.5.2. Khái quát về dòng họ Đặng ở Lương Điền (Thanh Chương) (74)
      • 2.5.3. Các nhân vật thờ tự (76)
      • 2.5.4. Khảo tả di tích (79)
      • 2.5.5. Các hiện vật trong di tích (81)
      • 2.5.6. Một số nhận xét (89)
  • Chương 3. GIÁ TRỊ LỊCH SỬ - VĂN HÓA VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO TỒN, TÔN TẠO CÁC DI TÍCH (0)
    • 3.1. Giá trị lịch sử, văn hoá (91)
      • 3.1.1. Giá trị lịch sử (91)
      • 3.1.2. Giá trị văn hoá (97)
    • 3.2. Các giá trị khác (100)
      • 3.2.1. Giá trị kiến trúc - điêu khắc (100)
      • 3.3.1. Thực trạng công tác bảo tồn, trùng tu di tích (110)
      • 3.3.2. Một số giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị của các di tích (112)
  • KẾT LUẬN (116)
  • PHỤ LỤC (124)

Nội dung

Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Huyện Thanh Chương nổi bật với nhiều di tích lịch sử - văn hóa quan trọng, đã được đề cập trong các nghiên cứu, sách chuyên khảo và bài báo Tuy nhiên, các công trình này chỉ mới điểm qua một số di tích tiêu biểu mà chưa thực sự cung cấp cái nhìn đầy đủ và hệ thống về diện mạo của di tích lịch sử - văn hóa tại huyện Thanh Chương.

Một số công trình tiêu biểu về hệ thống di tích lịch sử - văn hóa Việt Nam có thể kể đến là tác phẩm của Dương Văn Sáu.

"Di tích lịch sử - văn hoá và danh thắng Việt Nam", Nxb Đại học quốc gia Hà

Trong cuốn sách này, tác giả giới thiệu hệ thống khái niệm và đặc điểm kiến trúc điêu khắc của các di tích lịch sử văn hóa ở Việt Nam, giúp người đọc hiểu rõ hơn về các loại hình di tích này.

Công trình "Địa chí văn hoá dân gian Nghệ Tĩnh" của tác giả Nguyễn Đổng Chi là một nguồn tài liệu quan trọng, trong đó ông đã dành một chương để liệt kê các đền, nghè, miếu ở huyện Thanh Chương Tác giả không chỉ liệt kê mà còn nghiên cứu sâu về thần tích của các đền, chùa nổi bật trong khu vực, như Đền Bạch Mã và chùa Giai.

Cuốn sách "Địa danh lịch sử và văn hoá Nghệ An" của tác giả Trần Viết Thụ, xuất bản năm 2006 bởi Nxb Nghệ An, cung cấp cái nhìn sâu sắc về các địa danh lịch sử và văn hoá tại tỉnh Nghệ An Trong tác phẩm, tác giả đặc biệt nhấn mạnh một số đền, chùa, đình tiêu biểu ở huyện Thanh Chương, như đền Bạch Mã và đình Võ Liệt, góp phần làm phong phú thêm di sản văn hoá của vùng đất này.

Viết về lịch sử - văn hoá trên địa bàn tỉnh Nghệ An, còn có công trình

Nghệ An là vùng đất giàu di sản văn hóa, được thể hiện qua các tác phẩm như "Nghệ An di tích danh thắng" của Sở Văn hóa Thông tin Nghệ An và "Tìm trong di sản văn hóa xứ Nghệ" của Đào Tam Tỉnh Cả hai công trình đều đề cập đến các giá trị văn hóa và lịch sử của Nghệ An, góp phần làm nổi bật nội dung và ý nghĩa của di sản văn hóa nơi đây.

Trong quá trình nghiên cứu các di tích lịch sử tại huyện Thanh Chương, chúng tôi đã tìm hiểu nhiều công trình của tác giả Ninh Viết Giao, nổi bật là “Nghệ An lịch sử và văn hóa” cùng “Văn hóa Nghệ An” Ông đã dành tâm huyết khám phá các giá trị văn hóa tại làng quê Nghệ, đặc biệt là những nét văn hóa tâm linh qua các lễ hội, đền, chùa và đình Một số di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu ở Thanh Chương như đền Bạch Mã và đình Võ Liệt đã được ông khái quát cùng các lễ hội liên quan.

Hai công trình "Thanh Chương huyện chí" và "Nghệ An chí" của Bùi Dương Lịch đã khắc họa vẻ đẹp của huyện Thanh Chương cùng con người nơi đây Trong tác phẩm, tác giả đề cập đến các di tích lịch sử - văn hóa nổi bật, đặc biệt là đền Bạch Mã, được công nhận là một trong bốn ngôi đền có kiến trúc đẹp và linh thiêng nhất xứ Nghệ, đứng thứ ba trong danh sách: "nhất Cờn, nhì Quả, thứ ba Bạch Mã, thứ tư Chiêu Trưng."

Công trình “Thanh Chương đất và người”, xuất bản năm 2005, quy tụ nhiều nhà nghiên cứu nổi tiếng với các bài viết sâu sắc về lịch sử, văn hóa và con người của huyện Thanh Chương.

“Đình Võ Liệt trong bối cảnh đình Nghệ An”, “Lễ hội đền Bạch Mã”, “dòng họ Nguyễn Duy”

Một số đề tài luận văn cao học chuyên ngành Lịch sử Việt Nam đã nghiên cứu về vùng đất Thanh Chương như: “Trí thức Thanh Chương (Nghệ

Trong sự nghiệp nghiên cứu về cuộc đấu tranh chống ngoại xâm từ năm 1858 đến 1945, Ths Phạm Thị Hoài Thanh đã bảo vệ luận văn tại Đại học Vinh năm 2008, cùng với các công trình của Ths Nguyễn Triều Tiên về các dòng họ khoa bảng ở tổng Võ Liệt, Thanh Chương, Nghệ An (1807-1919) và Ths Dương Thị Thúy Hằng về các căn cứ và cơ sở bí mật trong phong trào yêu nước ở Thanh Chương từ năm 1874 đến 1945 Những nghiên cứu này không chỉ cung cấp nguồn tài liệu phong phú mà còn giúp chúng tôi hiểu rõ hơn về vùng đất, con người và các cuộc đấu tranh lịch sử tại Thanh Chương.

Mặc dù những công trình được trình bày ở trên chỉ đề cập một cách khái quát đến một số khía cạnh của đề tài, nhưng chúng vẫn chưa phản ánh đầy đủ về diện mạo và hệ thống di tích lịch sử - văn hóa tại huyện.

Trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu trước đây và kết hợp với tư liệu điền dã, phỏng vấn những người am hiểu về di tích lịch sử văn hoá tại Thanh Chương, chúng tôi đã phân loại, sắp xếp và hệ thống kiến thức để trình bày một cách đầy đủ và toàn diện về những di tích lịch sử - văn hoá tiêu biểu trong huyện.

Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các di tích lịch sử - văn hoá tiêu biểu tại huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An Chúng tôi tập trung vào việc tìm hiểu các di tích đã được xếp hạng quốc gia và cấp tỉnh, bao gồm các hạng mục như đền, chùa, nhà thờ họ và đình làng.

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu: Từ đối tượng nghiên cứu trên, đề tài xác định các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau đây:

- Quá trình hình thành hình các di tích lịch sử - văn hoá huyện Thanh Chương

Di tích lịch sử - văn hóa mang trong mình diện mạo độc đáo, phản ánh nguồn gốc và quá trình xây dựng, trùng tu, tôn tạo qua các thời kỳ Kiến trúc và điêu khắc của các di tích thể hiện nghệ thuật và giá trị văn hóa đặc sắc Bên cạnh đó, các lễ hội và tín ngưỡng liên quan đến di tích đóng vai trò quan trọng trong việc gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống.

Các di tích lịch sử và văn hóa tại huyện Thanh Chương không chỉ mang giá trị lịch sử sâu sắc mà còn có ảnh hưởng lớn đến tình hình kinh tế - xã hội hiện nay Việc bảo tồn và trùng tu các di tích này là cần thiết để gìn giữ bản sắc văn hóa địa phương, đồng thời thúc đẩy phát triển du lịch và cải thiện đời sống người dân Công tác bảo tồn các di tích lịch sử văn hóa ở huyện Thanh Chương đang được chú trọng, nhằm bảo vệ di sản văn hóa cho các thế hệ mai sau.

- Phạm vi không gian: Giới hạn trong không gian của huyện Thanh Chương ngày nay

- Phạm vi thời gian: Tìm hiểu về lịch sử của các di tích từ khi được xây dựng cho đến nay

Chúng tôi tập trung vào một số di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu đã được công nhận quốc gia và cấp tỉnh, có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tâm linh của người dân địa phương, chẳng hạn như Đền Bạch.

Mã, Đình Võ Liệt, chùa Giai, nhà thờ họ Nguyễn Duy và cây sui Diên Tràng, nhà thờ họ Đặng

Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu

4.1 Nguồn tài liệu Để hoàn thành đề tài này, bản thân tôi đã tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu có liên quan, bao gồm các loại tài liệu như:

+ Tư liệu thành văn gồm:

- Gia phả của các dòng họ và thần tích về các nhân vật được thờ tự

- Các công trình khảo cứu về các di tích lịch sử - văn hoá ở huyện Thanh Chương

Nghị Quyết và các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước từ trung ương đến địa phương đều tập trung vào việc bảo tồn và phát huy giá trị của các di tích lịch sử văn hóa Những nỗ lực này nhằm bảo vệ di sản văn hóa, nâng cao nhận thức cộng đồng và thúc đẩy phát triển du lịch bền vững, góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc.

- Hồ sơ khoa học của các di tích lịch sử văn hoá

+ Tư liệu điền dã của tác giả

Phương pháp luận trong việc thực hiện đề tài được xây dựng dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác văn hóa.

Chúng tôi áp dụng hai phương pháp nghiên cứu chính là phương pháp lịch sử và phương pháp logic, đồng thời kết hợp với các phương pháp liên ngành như điều tra xã hội học, điền dã dân tộc học và phỏng vấn báo chí Phương pháp điền dã được xác định là chủ đạo, kết hợp với tổng hợp, đối chiếu và so sánh để rút ra những điểm chung và đặc sắc trong nghệ thuật kiến trúc điêu khắc của các di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu tại huyện Thanh Chương.

Đóng góp của đề tài

Huyện Thanh Chương nổi bật với hệ thống đình, đền, nhà thờ họ, phản ánh giá trị văn hóa và lịch sử phong phú của địa phương Những công trình này không chỉ là nơi thờ cúng mà còn lưu giữ nhiều truyền thuyết, phong tục tập quán đặc sắc, góp phần tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo của huyện Việc bảo tồn và phát huy giá trị của các di tích này là cần thiết để duy trì di sản văn hóa cho thế hệ mai sau.

Khám phá các di tích lịch sử - văn hóa ở huyện Thanh Chương giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan về di sản văn hóa nơi đây, đồng thời góp phần tìm hiểu truyền thống lịch sử và văn hóa của vùng đất này Qua đó, việc giáo dục thế hệ trẻ về truyền thống uống nước nhớ nguồn và những giá trị lịch sử quý báu cần được gìn giữ và phát huy trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.

Đề tài này đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp và bổ sung tư liệu cho nghiên cứu lịch sử văn hóa, đồng thời hỗ trợ giảng dạy lịch sử địa phương tại các trường phổ thông.

Bố cục của đề tài

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội dung chính gồm 3 chương:

Chương 1: Khái quát hệ thống các di tích lịch sử - văn hoá ở huyện

Chương 2: Diện mạo một số di tích lịch sử - văn hoá tiêu biểu trên địa bàn huyện Thanh Chương

Chương 3: Giá trị lịch sử - văn hoá và một số giải pháp nhằm bảo tồn, tôn tạo các di tích

KHÁI QUÁT HỆ THỐNG CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA Ở HUYỆN THANH CHƯƠNG

Vài nét về đặc điểm địa lý tự nhiên, tình hình kinh tế, xã hội

1.1.1 Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên

Thanh Chương là huyện miền núi thấp nằm ở phía Tây Nam tỉnh Nghệ An, tọa độ 18°34' - 18°55' vĩ độ Bắc và 104°55' - 105°30' kinh độ Đông Huyện giáp với huyện Nam Đàn ở phía Đông, huyện Đô Lương và huyện Anh Sơn ở phía Bắc, huyện Hương Sơn - Hà Tĩnh ở phía Nam, và huyện Anh Sơn cùng tỉnh Bôlykhămxay (Lào) ở phía Tây, với đường biên giới dài 53 km và hai đồn biên phòng Diện tích tự nhiên của huyện là 1.127,63 km², xếp thứ 5 trong số 19 huyện, thành phố, thị xã của tỉnh Nghệ An.

Trải qua các thời kỳ lịch sử, vùng đất Thanh Chương đã có nhiều thay đổi về tên gọi hành chính, diên cách địa lý

Vào năm 111 trước công nguyên, vùng đất Thanh Chương thuộc huyện Hàm Hoan, quận Cửu Chân Đến năm 602, Thanh Chương nằm trong huyện Cửu Đức, quận Nhật Nam thời thuộc Tuỳ Trong thời Tiền Lê (980-1009), vùng đất này thuộc Châu Hoan, và đến thời Lý (thế kỷ XII), Thanh Chương nằm trong châu Nghệ An Cuối cùng, trong thời Trần (thế kỷ XIII), Thanh Chương thuộc trấn Nghệ An.

Vào thế kỷ XV, khi quân Minh xâm chiếm nước ta (1414-1427), họ đã thiết lập vùng đất bên hữu ngạn sông Lam từ bờ sông Giăng (nay thuộc huyện Con Cuông) kéo dài xuống Đức Thọ - Hà Tĩnh, tạo thành huyện Thổ Du Sau khi kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, nhà Lê dưới sự lãnh đạo của Vua Lê Thái Tổ đã thực hiện nhiều chính sách tiến bộ, củng cố bộ máy chính quyền và tổ chức lại các đơn vị hành chính, trong đó tên huyện Thổ Du được đổi thành huyện Thanh Giang, giữ nguyên địa giới Tên gọi "Thanh" trong chữ Hán có nghĩa là "xanh", phản ánh dòng sông xanh trong khu vực lưu vực sông Lam Tên huyện Thanh Giang tồn tại khoảng 300 năm cho đến năm 1729, khi Trịnh Giang lên ngôi chúa Trịnh, do kiêng huý, đã đổi chữ "Giang" thành "Chương", từ đó huyện mang tên Thanh Chương.

Trong cuốn "Thanh Chương huyện chí" của Nguyễn Hữu Điển, biên soạn vào đầu thế kỷ XIX, huyện Thanh Chương bao gồm các tổng Bích Triều, Nam Kim, Cát Ngạn, Võ Liệt, Thổ Hào và Đặng Sơn, với tổng cộng 86 xã, thôn, phường, trại Đến năm 1831, dưới sự cải cách hành chính của Minh Mệnh, tổng Đặng Sơn được tách ra để thành lập huyện Lương Sơn, dẫn đến việc địa giới huyện Thanh Chương thay đổi từ tổng Cát Ngạn trở xuống Năm 1827, huyện Thanh Chương thuộc phủ Anh Sơn.

Vào năm 1907, vua Duy Tân đã quyết định cắt tổng Nam Kim ở phía Đông huyện Thanh Chương để sáp nhập vào Nam Đàn Đổi lại, huyện Thanh Chương nhận được một khu vực đất từ Thanh Khai đến Thanh Hưng hiện nay Khu vực được sáp nhập chủ yếu thuộc tổng Xuân Lâm và toàn bộ tổng Đại Đồng.

Địa giới huyện Thanh Chương từ đó đến nay không có sự thay đổi đáng kể, với địa hình đa dạng do quá trình kiến tạo lâu dài Nơi đây chủ yếu là núi đồi và trung du, trong đó dãy Giăng Màn cao 1.026m tạo thành ranh giới tự nhiên với Lào Các đỉnh núi nổi bật khác bao gồm Nác Lưa (838m), Vũ Trụ (987m), Bè Noi (509m), Đại Can (528m) và Thác Muối (328m) Phía hữu ngạn sông Lam, núi đồi tạo ra những cánh rừng trùng điệp, chia cắt địa bàn thành nhiều mảng nhỏ Chỉ có các vùng như Thanh Xuân, Võ Liệt, Thanh Lĩnh, Thanh Liên, Thanh Phong có những cánh đồng rộng rãi Ở phía tả ngạn sông Lam, dải núi từ Cuồi đến Dùng với đỉnh Côn Vinh (188m) và Nguộc (109m) tạo thành một cánh cung ôm lấy đồng bằng hạn chế của Thanh Chương.

Thanh Chương, với địa hình hiểm trở, từ lâu đã được coi là vùng đất chiến lược trong mắt các nhà quân sự Trong các cuộc thiên di và chính biến của các triều đại phong kiến, nơi đây từng là điểm dừng chân cho các đạo quân để nghỉ ngơi, bổ sung quân số và chuẩn bị cho những trận đánh lớn Vì vậy, nhiều nhân tài nổi bật như Phan Nhân Tường, Phan Đà, Trần Tấn và Đặng Như Mai đã xuất hiện tại vùng đất này.

Hệ thống sông ngòi ở Thanh Chương rất phức tạp, với sông Lam (sông Cả) bắt nguồn từ Thượng Lào, chảy theo hướng tây bắc-đông nam qua các huyện Kỳ Sơn, Tương Dương, Con Cuông, Anh Sơn, Đô Lương và dọc huyện Thanh Chương khoảng 20 km, chia huyện thành hai vùng hữu ngạn và tả ngạn Sông Lam không chỉ là một tuyến giao thông thủy quan trọng mà còn bồi đắp phù sa màu mỡ ven sông Tuy nhiên, vào mùa mưa, sông Lam trở nên hung dữ, thường gây ra tình trạng úng lụt ở các vùng thấp Ngoài ra, sông Lam còn có nhiều phụ lưu như sông Giăng, sông Trai, sông Rộ, sông Nậy, sông Triều và sông Đa Cường (Rào Gang).

Huyện có hệ thống sông ngòi phong phú, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng tuyến đò dọc và nhiều bến đò ngang, góp phần nâng cao giao thông vận tải và kết nối giao lưu giữa các khu vực trong huyện.

Thanh Chương, vùng đất văn hiến xứ Nghệ, nổi bật với nhiều danh thắng, di tích và nhân tài Trong tác phẩm "Thanh Chương huyện chí", Hoàng giáp Bùi Dương Lịch (1738-1827) đã ca ngợi vẻ đẹp của vùng đất và con người nơi đây Nơi đây được thiên nhiên ưu ái với cảnh núi non hùng vĩ, thể hiện thế Rồng hướng về phương Đông.

Lam dạt dào về biển cả”

Thanh Chương được biết đến là vùng đất núi non hùng vĩ và sông nước trong xanh, nằm giữa dòng Lam xanh ôm trọn hai bờ Cuộc sống nơi đây đã hình thành nên những con người thuần phác, tài năng, như Tống Tướng Công (Tống Tất Thắng) ở Nam Kim, biểu tượng cho tấm gương trung nghĩa, hay Nguyễn Tướng Công (Nguyễn Đình Cổn) ở Bích Triều, nổi tiếng với văn chương Bùi Dương Lịch trong tác phẩm “Phong thổ thi” đã khẳng định giá trị văn hóa và con người nơi đây.

Phong tục địa phương phong phú và cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp tạo nên một bức tranh sống động Kẻ sĩ chăm chỉ học hành và rèn luyện lễ nghĩa, trong khi nam giới nông dân lo toan mùa vụ, còn phụ nữ giữ gìn phẩm hạnh và sự hiền thục Tất cả mọi người đều tôn trọng lễ làng, phép nước, và coi trọng sự cần kiệm, đồng thời xem việc báo đáp công ơn của nhà vua và cha mẹ là niềm vui lớn nhất trong cuộc sống.

1.1.2 Tình hình kinh tế, xã hội

Thanh Chương là huyện miền núi thấp, nơi cư dân chủ yếu làm nông nghiệp với các hoạt động cấy lúa nước và trồng hoa màu như ngô, khoai, sắn Bên cạnh đó, huyện còn phát triển chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp và khai thác lâm sản Đặc biệt, các làng nghề như Nguyệt Bổng, Thường Long, Rộ, Xuân Lâm, Cẩm Văn nổi tiếng với nghề trồng dâu nuôi tằm và dệt lụa, góp phần làm phong phú thêm nền kinh tế địa phương.

Thanh Chương là vùng đất nổi tiếng với nhiều đặc sản độc đáo như chè Giăng, trầu cau La Mạc, mít ngọt và trám bùi Những sản phẩm này không chỉ thể hiện nét văn hóa ẩm thực phong phú mà còn là niềm tự hào của người dân nơi đây.

“Ai về Cẩm Thái mà coi Lắm ngô, lắm sắn, lắm khoai, lắm bù

Ai hay mít ngọt, múi bùi

Có về Cát Ngạn với tui cùng về

Ai hay tương ngọt nhút chua

Mời về Ó, Nại mà mua ít nhiều Thanh Chương ngon cá sông Giăng Ngon khoa la Mạc, ngon măng chợ Chùa ”

Theo nghiên cứu của các nhà khảo cổ học, vùng đất Thanh Chương đã có người sinh sống từ hàng vạn năm trước, với các di tích văn hóa Sơn Vi được phát hiện tại đồi Dùng và đồi Rạng Những di tích này chứng minh sự phát triển bền vững của con người trong khu vực Trong toàn quốc, di tích văn hóa Sơn Vi còn xuất hiện ở Sơn La, Lai Châu và Hoàng Liên Sơn, nhưng tại Nghệ An chỉ mới tìm thấy ở Thanh Chương Do đó, Thanh Chương được xác định là nơi có di tích cổ xưa thứ hai sau Thẩm Ồm.

Truyền thống lịch sử, văn hóa

1.2.1 Truyền thống yêu nước và cách mạng

Lịch sử Thanh Chương gắn liền với cuộc đấu tranh kiên cường chống giặc ngoại xâm và áp bức, cùng với nhân dân cả nước Trong sự nghiệp bảo vệ quê hương, nhân dân Thanh Chương đã đóng góp vào những chiến công hiển hách, giữ gìn bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc.

Sau hơn một nghìn năm bị đô hộ bởi các thế lực phong kiến phương Bắc, nhân dân Thanh Chương đã kiên cường tham gia các cuộc khởi nghĩa chống lại giặc ngoại xâm Đặc biệt, trong cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan năm 722, người dân Thanh Chương đã tích cực xây dựng thành Vạn An và các công trình phòng ngự khác Dưới ách đô hộ, họ vẫn bảo tồn và gìn giữ nền văn hóa bản địa bền vững, góp phần vào nền văn hiến của đất nước, không bị đồng hóa và luôn sẵn sàng thăng hoa, chiến thắng kẻ thù ngoại xâm.

Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên thời Trần, nhân dân Thanh Chương đã phối hợp cùng nhân dân toàn tỉnh, góp sức chặn đứng một mũi tiến công từ Nam ra Bắc, gây thiệt hại lớn cho quân địch.

Vào thế kỷ XV, Thanh Chương là nơi quan trọng trong cuộc kháng chiến chống quân Minh do nghĩa quân Lê Lợi lãnh đạo Người dân nơi đây đã đóng góp sức người, sức của trong cuộc chiến tại Thành Lục Niên và tiếp tục tiến về Vinh, Đông Quan Nhiều người con ưu tú của Thanh Chương đã anh dũng hy sinh trong suốt 10 năm kháng chiến Để tưởng nhớ người anh hùng Phan Đà, quê ở thôn Chi Linh, xã Võ Liệt, người đã dũng cảm chiến đấu và hy sinh ở tuổi 18, dân làng đã lập đền Bạch Theo truyền thuyết, ông thường mặc áo giáp trắng và cưỡi ngựa trắng khi ra trận, nên sau khi mất, Lê Lợi đã phong ông là Đô thiên đại đế Bạch.

Mã Thượng Đẳng phúc thần được tôn vinh sau khi đánh bại giặc Minh và giải phóng đất nước Nhà vua đã cho dân xã lập đền thờ để tưởng nhớ công lao của Phan Đà, với truyền thống cúng tế đời đời Hiện tại, tại ngôi đền còn lưu giữ đôi câu đối cổ, nhắc nhở mọi người về những đóng góp to lớn của ông: "Nghệ An quốc tế tứ linh từ chi đệ tam, y cổ sùng hồng minh hữu thạch."

Minh Mệnh kỷ hợi vạn tư niên chi nhị thập, tùng kim thế thế ngất như sơn

Đền linh thứ ba trong bốn ngôi đền ở Nghệ An, được ghi nhận vào năm Kỷ Hợi thứ 20 Minh Mệnh (1839), có vị thế lớn tựa núi non Vào thế kỷ XVIII, thời vua Lê chúa Trịnh, Thanh Chương trở thành cứ điểm của nghĩa quân Quận he (Nguyễn Hữu Cầu) với khẩu hiệu “Lấy của người giàu chia cho người nghèo” Ngoài ra, Thanh Chương còn là nơi đóng quân của nghĩa quân Lê Duy Mật tại đồn Hòa Quân (xã Thanh Hương).

Theo gia phả các dòng họ ở Thanh Chương, nhiều người con quê hương đã tham gia cuộc hành quân thần tốc năm 1788 của Hoàng đế Quang Trung Nhân dân Thanh Chương đã tích cực đóng góp ngựa, trâu bò, lương thực, góp phần vào chiến thắng của toàn dân tộc.

Theo Bùi Dương Lịch, dân số của Nghệ An và Hà Tĩnh ước tính chỉ khoảng 125.000 người Tuy nhiên, trong một thời gian ngắn, con số này đã có sự gia tăng đáng kể.

Khoảng 50.000 người đã gia nhập nghĩa quân, cho thấy không có làng nào không có người tòng quân, từ các vùng gần nơi đóng quân của Quang Trung như Lam Thành, Hưng Nguyên đến Nam Đàn, Thanh Chương Cuộc hành quân thần tốc của nghĩa quân Tây Sơn đã đại phá quân Thanh, tiêu diệt 290.000 tên giặc, để lại âm hưởng hùng tráng bất diệt Đây là niềm tự hào lớn lao của dân tộc Việt Nam và đặc biệt là của xứ Nghệ, quê hương của Nguyễn Huệ - Quang Trung.

Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam vào năm 1858, nhân dân cả nước đã nổi dậy với quyết tâm giành lại độc lập Trong bối cảnh đấu tranh mạnh mẽ vào cuối thế kỷ XIX, nhân dân Thanh Chương đã tham gia tích cực, đặc biệt là qua cuộc khởi nghĩa do Trần Tấn và Đặng Như Mai lãnh đạo vào năm Giáp Tuất 1874 Cuộc khởi nghĩa nhanh chóng nhận được sự ủng hộ từ nhân dân khắp tỉnh, với đông đảo nhất là từ Thanh Chương, Nam Đàn và các huyện lân cận, chỉ sau vài ngày, quân số đã lên tới hàng ngàn người.

Cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Trần Tấn đã khiến thực dân Pháp hoảng sợ, với lời kêu gọi “Kẻ thù của nước Pháp đã nổi dậy ở Nghệ An…” Các sử gia triều đình phải thừa nhận rằng cuộc nổi dậy này có tính chất hung hăng và tình hình trở nên khẩn cấp hơn bao giờ hết Khởi nghĩa Giáp Tuất đã làm cho thực dân Pháp và triều đình Nam triều nhiều lần rơi vào tình trạng hoảng loạn Hai quan chức Phạm Hy Lãng và Nguyễn Dơn đã bị phạt nặng vì không thể dẹp yên được "loạn Bình Tây sát tả".

Mặc dù cuộc khởi nghĩa Giáp Tuất năm 1874 không thành công, nhưng nó đã khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước và ý chí kiên cường của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là nhân dân xứ Nghệ Đây được coi là đỉnh cao của phong trào đấu tranh kéo dài 16 năm (1858-1874) của người dân Nghệ An.

Cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp của người dân Thanh Chương vào cuối thế kỷ XIX là một minh chứng rõ nét cho tinh thần yêu nước Trong phong trào phò vua cứu nước, nhân dân Thanh Chương đã tích cực hưởng ứng chiếu Cần Vương, với Tôn Quang Điềng, người quê Võ Liệt, chiêu mộ hơn 300 trai tráng để rèn đúc vũ khí và tổ chức kháng chiến Vào tháng 8-1885, khi quân Pháp tấn công Phuống (Thanh Giang), người dân đã cùng nghĩa quân đào hào, đắp ụ để ngăn chặn địch Dưới sự chỉ huy của Đốc Sĩ (quê Thanh Mai), nghĩa quân đã thành công trong việc bắn trúng thuyền giặc, gây tổn thất lớn cho quân địch Ngoài Tôn Quang Điềng, còn nhiều chiến sĩ tiêu biểu khác như Hồ Văn Phúc, Võ Văn Hàm, Nguyễn Hữu Chính cũng tham gia tích cực, cùng với các địa danh như núi Phướn, Phuống, Rào Gang, núi Noóc, Đồn Nu gắn liền với phong trào cần vương tại Thanh Chương.

Trong suốt chiều dài lịch sử, nhân dân Thanh Chương luôn thể hiện tinh thần yêu nước và sự kiên cường, đóng góp quan trọng vào cuộc chiến chống xâm lược Những nỗ lực và truyền thống này không chỉ thể hiện lòng tự hào dân tộc mà còn góp phần lớn vào thắng lợi chung trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của toàn dân tộc.

Từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945, nhân dân Thanh Chương đã nhiệt tình ủng hộ phong trào dân chủ tư sản do Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh lãnh đạo Họ tích cực tham gia phong trào Đông Du, với nhiều trí thức tiêu biểu như Lê Nguyên, Ngô Quảng, Phạm Văn Ngôn, Đặng Thái Thân, Lê Khánh và Đặng Nguyên Cẩn.

Tổng quan về các di tích lịch sử - văn hoá ở huyện Thanh Chương

Công giáo đã được du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ XV và đến Nghệ An vào khoảng thế kỷ XVIII Nhà chung Xã Đoài Nghi Lộc hiện là trung tâm Công giáo quan trọng cho ba tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình Trước năm 1945, khu vực Thanh Chương và Nam Đàn thuộc giáo hạt Vạn Lộc, bao gồm 7 giáo xứ và 39 giáo họ, đều theo dòng Chúa Cứu thế.

Theo sách “Đồng Khánh địa chí lược” của Hoàng Hữu Xứng viết năm

Vào năm 1886, tình hình đạo Thiên Chúa ở Thanh Chương có sự phân bố như sau: Tổng Cát Ngạn có 6 xã thôn gồm Đức Nhuận, Tiên Hội, Lương Khế, Nguyên Khiết, Thanh Liêu; Tổng Vũ Liệt có 5 xã thôn: Mô Vịnh, Vũ Liệt, Ngọc Lâm, Hoà Quân, Minh Quả; Tổng Thổ Hào có 2 xã là Nhân Thành và Thổ Hào; Tổng Bích Triều có nhiều thôn như Bích Triều, Lương Điền, Vạn Lộc, Thanh Đàm, Lương Giai, Tàm Tang, Phú Thọ, Đặng Xá (8 thôn); Tổng Nam Kim có Nam Kim và Trung Hội (1 xã, 1 thôn) Đặc biệt, có 2 nơi theo đạo Thiên Chúa toàn tòng là thôn Bàn Thạch ở Tổng Vũ Liệt và phường Dương Xuân ở Tổng Cát Ngạn.

Nhân dân Thanh Chương, với tình yêu quê hương và tinh thần kiên cường, đã cùng nhau xây dựng và bảo vệ quê hương, tạo nên một vùng đất đậm đà bản sắc Nghệ An Đây là nơi lưu giữ những truyền thống yêu nước và hiếu học, như lớp phù sa quý giá được bồi đắp qua nhiều thế hệ, là nền tảng vững chắc để Thanh Chương bước vào thời kỳ lịch sử mới.

1.3 Tổng quan về các di tích lịch sử - văn hoá ở huyện Thanh Chương

Di tích lịch sử - văn hoá là tài sản vô giá của đất nước, chứa đựng thông tin quý báu về nhiều lĩnh vực khác nhau, thể hiện giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học Việt Nam, với hơn hai nghìn năm lịch sử, đã ghi lại trang sử hào hùng qua nhiều loại hình sử liệu như di tích, di vật, hình ảnh, chữ viết và ngôn ngữ truyền miệng Trong đó, di tích lịch sử - văn hoá đóng vai trò quan trọng, cung cấp thông tin trực tiếp về hoạt động của con người trong quá khứ mà các nguồn sử liệu khác không thể đề cập đến.

Thiên nhiên và con người Nghệ An, đặc biệt là Thanh Chương, đã tạo nên một vùng đất giàu di sản lịch sử và danh lam thắng cảnh Nơi đây không chỉ sở hữu nhiều di tích lịch sử mà còn là nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm văn hóa nghệ thuật nổi tiếng Theo quyết định số 1306/QĐ - UB ngày 12/4/1997 của UBND tỉnh Nghệ An, việc quản lý các di tích lịch sử và danh lam tại Nghệ An đã được xác định rõ ràng.

Tỉnh An có tổng cộng 725 di tích và danh thắng, trong đó có 103 di tích được trung ương công nhận là di tích quốc gia Ngoài ra, 13 di tích và danh thắng đã được UBND tỉnh quyết định đăng ký bảo vệ.

Trong nền cảnh chung ấy, theo thống kê của danh mục phân cấp quản lý di tích, danh thắng tỉnh Nghệ An thì hiện nay ở huyện Thanh Chương có

Tỉnh Nghệ An có 201 di tích lịch sử văn hoá và danh thắng, trong đó có 23 di tích được xếp hạng, bao gồm 9 di tích cấp quốc gia và 14 di tích cấp tỉnh Đặc biệt, di tích danh thắng ở Thanh Chương chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống này Giá trị lịch sử - văn hoá của Thanh Chương không hề kém cạnh, với nhiều loại hình di tích đa dạng như di tích khảo cổ học, di tích lịch sử - văn hoá, di tích cách mạng, di tích kiến trúc nghệ thuật và di tích danh thắng.

1.3.1 Di tích khảo cổ học:

Theo tác giả Hồ Hữu Thới trong "Nghệ An di tích danh thắng", di tích khảo cổ là những dấu tích lưu giữ quá khứ hình thành và phát triển của người Việt cổ, bao gồm hang động, gò đồi, và bãi đất Tại Thanh Chương, cách đây từ 20.000 đến 12.000 năm, đã có người nguyên thủy sinh sống, được khẳng định qua các di tích như đồi Dùng và đồi Rạng Những di tích này thuộc Văn hoá Sơn Vi, đánh dấu thời kỳ cuối của đồ đá cũ Thanh Chương là nơi có di tích cổ xưa thứ hai sau di chỉ Thẩm ồm, với người nguyên thủy thường sử dụng đá cuội làm công cụ và sống bằng hái lượm, săn bắt Mật độ dân cư thời kỳ này đã gia tăng, với các đồi gò gần nhau có thể là nơi cư trú của các thị tộc Qua thời gian, cư dân Thanh Chương đã phát triển và tiếp nhận nhiều nguồn dân cư mới, khai khẩn đất hoang và hình thành nhiều làng xã.

1.4.2 Di tích lịch sử - văn hoá

Trong cuốn "Nghệ An di tích thắng cảnh", Hồ Hữu Thới nhấn mạnh rằng di tích lịch sử là sản phẩm của lịch sử, ghi dấu sự hình thành của dân tộc và các sự kiện chính trị quan trọng Tại huyện Thanh Chương, các di tích lịch sử phản ánh cuộc đấu tranh kiên cường của nhân dân qua các giai đoạn lịch sử, khẳng định vị trí và vai trò của huyện trong lịch sử dân tộc và Nghệ An Di tích lịch sử được phân loại thành ba loại: di tích lịch sử - văn hóa, di tích cách mạng, và di tích kiến trúc nghệ thuật.

Theo Nguyễn Đăng Duy trong "Bảo tồn di tích lịch sử - văn hóa", di tích lịch sử - văn hóa được hình thành từ hoạt động sáng tạo của con người, phản ánh các giá trị lịch sử và văn hóa cụ thể Chúng là không gian vật chất chứa đựng các giá trị điển hình lịch sử do con người để lại Pháp lệnh về việc bảo vệ di tích - danh thắng, được ký bởi Chủ tịch Trường Chinh vào ngày 31/3/1984, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo tồn các di tích này.

Di tích lịch sử - văn hóa là những công trình, địa điểm và di vật có giá trị về lịch sử, khoa học và nghệ thuật, liên quan đến các sự kiện và quá trình phát triển văn hóa xã hội Tại huyện Thanh Chương, có nhiều di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu như đền thờ và mộ Phạm Kinh Vĩ, nhà thờ và mộ Phan Nhân Tường, nhà thờ và mộ tổ họ Nguyễn Duy, nhà thờ họ Đặng, nhà lưu niệm Đặng Thai Mai, nhà thờ Tiến sỹ Phan Sỹ Thục và đình làng Thượng Các công trình này đã được nhà nước công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia và cấp tỉnh.

Di tích lịch sử văn hóa cách mạng là những địa điểm quan trọng lưu giữ kỷ niệm về các nhân vật lịch sử và anh hùng dân tộc trong các cuộc kháng chiến Những di tích này không chỉ ghi dấu ấn lịch sử mà còn thể hiện sự ra đời và lãnh đạo của Đảng, như đền Bạch Mã và đình.

Võ Liệt và Hạnh Lâm là những địa chỉ đỏ quan trọng, bao gồm nhà thờ họ Nguyễn Duy, cây sui Diên Tràng, nền tế cờ, nhà thờ Trần Tấn và nhà thờ họ Nguyễn Sỹ Đây là những cơ sở hoạt động cách mạng của nhân dân địa phương trong thời kỳ kháng chiến.

Từ năm 1930 đến 1931 và 1936 đến 1939, đình làng Võ Liệt đã đóng vai trò quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ Nơi đây gắn liền với phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, trở thành trụ sở chính quyền Xô viết đầu tiên tại Nghệ Tĩnh trong những năm 30-31.

Di tích kiến trúc nghệ thuật là những công trình văn hóa mang đậm dấu ấn của kiến trúc cổ xưa và vẻ đẹp độc đáo, thể hiện các nét chạm trổ, hoa văn và điêu khắc tiêu biểu cho một thời kỳ lịch sử nhất định.

DIỆN MẠO MỘT SỐ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA TIÊU BIỂU TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH CHƯƠNG

GIÁ TRỊ LỊCH SỬ - VĂN HÓA VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO TỒN, TÔN TẠO CÁC DI TÍCH

Ngày đăng: 27/08/2021, 09:43

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w