1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Khai thác giá trị di tích lịch sử văn hóa đền các vua đinh, lê trong hoạt động du lịch ở tỉnh ninh bình

93 49 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 93
Dung lượng 1,32 MB

Cấu trúc

  • A. MỞ ĐẦU (5)
    • 1.1. Ý nghĩa khoa học (5)
    • 1.2. Ý nghĩa thực tiễn (6)
    • 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề (6)
    • 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (7)
    • 4. Mục đích và nhiệm vụ (7)
    • 5. Phương pháp nghiên cứu (7)
    • 6. Đóng góp của khóa luận (7)
    • 7. Cấu trúc của khóa luận (8)
  • B. NỘI DUNG (8)
  • Chương 1:GIÁ TRỊ LỊCH SỬ- VĂN HÓA CỦA ĐỀN CÁC VUA ĐINH, LÊ (8)
    • 1.1. Khái quát tiểu sử của vua Đinh Tiên Hoàng (8)
    • 1.2. Khái quát tiểu sử của vua Lê Đại Hành (18)
    • 1.3. Giá trị lịch sử - văn hóa của Đền các vua Đinh, Lê (27)
  • Chương 2:GIÁ TRỊ CỦA ĐỀN CÁC VUA ĐINH, LÊTRONG HOẠT ĐỘNG (31)
    • 2.1. Đền vua Đinh (31)
    • 2.2. Đền vua Lê (37)
    • 2.3. Các di tích tiêu biểu khác (41)
      • 2.3.1. Núi Mã Yên (41)
      • 2.3.2. Động Am Tiên (42)
      • 2.3.3. Xuyên Thủy động và Liên Hoa động (43)
    • 2.4. Hội Trường Yên (47)
    • 3.1. Thực trạng hoạt động du lịch tại Đền các vua Đinh, Lê (55)
      • 3.1.1. Về công tác tổ chức, quản lý nhà nước để phát triển du lịch tại di tích lịch sử, văn hóa đền các vua Đinh, Lê (55)
      • 3.1.2. Về thị trường khách (57)
      • 3.1.3. Về cơ sở hạ tầng và sơ sở vật chất kĩ thuật tại cố đô Hoa Lư (61)
      • 3.1.4. Về nguồn nhân lực phục vụ du lịch tại di tích lịch sử, văn hoá đền các vua Đinh, Lê (66)
      • 3.1.5. Về vấn đề bảo vệ, gìn giữ môi trường, tài nguyên du lịch ở cố đô (69)
    • 3.2. Một số giải pháp nhằm khai thác giá trị di tích lịch sử, văn hoá đền các (72)
      • 3.2.1. Nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch (72)
      • 3.2.2 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực (73)
      • 3.2.3. Thúc đẩy dịch vụ du lịch ở di tích lịch sử, văn hoá đền Đinh- Lê cũng như ở Cố đô Hoa Lư (75)
      • 3.2.4. Bảo vệ môi trường và tài nguyên du lịch ở Cố đô Hoa Lư và tại di tích lịch sử, văn hoá đền các vua Đinh, Lê (79)
    • C. KẾT LUẬN (86)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (87)
  • PHỤ LỤC (89)

Nội dung

TRỊ LỊCH SỬ- VĂN HÓA CỦA ĐỀN CÁC VUA ĐINH, LÊ

Khái quát tiểu sử của vua Đinh Tiên Hoàng

Khi đến thăm Cố đô Hoa Lư ở xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, du khách sẽ thấy bức đại tự "Chính thống thủy" tại đền vua Đinh, thể hiện sự tôn vinh Đinh Bộ Lĩnh - người khai sáng Nhà nước phong kiến Trung ương tập quyền ở Việt Nam Sinh năm 924 tại làng Đại Hữu, Đinh Bộ Lĩnh là con trai của Đinh Công Trứ, thứ sử Hoan Châu Người dân địa phương thường nhắc đến câu: "Đại Hữu sinh vương, Điềm Giương sinh thánh", cho thấy tầm quan trọng của làng Đại Hữu Sau khi cha mất sớm, Đinh Bộ Lĩnh cùng mẹ sống gần đền Sơn Thần, nay là đền Long Viên Hàng ngày, ông chăn trâu và tập trận tại các vùng đất như động Hoa Lư và đồng Rộc Xéo, hình thành những kỷ niệm gắn bó với quê hương Ninh Bình.

Đinh Bộ Lĩnh, con thứ của sử Hoan Châu, đã được trẻ em tôn vinh làm trưởng với chí lớn Những đứa trẻ thường "khoanh tay làm kiệu và lấy hoa lau làm cờ, đi hai bên Bộ Lĩnh để rước như nghi vệ thiên tử" (Toàn thư) Truyền thuyết địa phương còn ghi nhận rằng Đinh Bộ Lĩnh đã đặt ra có ngũ có đinh.

Có quân túc vệ, có thành tứ vi Trên thì bảo điện uy nghi Bên ngoài lại sẵn đan trì nghi môn

Các cụ già trong thôn nhận thấy khí độ khác thường của một cậu bé, cho rằng cậu có khả năng cứu giúp dân lành Họ khuyên nhau nên theo cậu sớm để không phải hối tiếc sau này Vì vậy, họ đã cử nhiều con em đi theo cậu, và cậu được lập làm trưởng tại sách Đào Áo, hiện nay là thôn Uy Viễn xã Yên Sơn và thôn Uy Tế xã Gia Hưng, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình Truyền thuyết địa phương vẫn còn lưu giữ những câu chuyện về cậu bé này.

"Đào Uy, Đào Úc định quân thần"

Sau khi Ngô Quyền qua đời vào năm 944, tình trạng loạn lạc do các sứ quân nổi lên được gọi là loạn mười hai sứ quân Đinh Bộ Lĩnh đã tập hợp các đồng minh và tổ chức quân đội tại động Hoa Lư, nơi được coi là căn cứ ban đầu của ông Động Hoa Lư, hay còn gọi là thung Lau, nằm trong xã Gia Hưng, rộng 16 mẫu và được bao bọc bởi các khối đá vôi từ Hòa Bình, cách sông Bôi khoảng 2 km về phía đông Thung lũng này có địa hình hiểm trở, với lối vào chỉ qua một quèn nhỏ cao khoảng 30 m, và được bảo vệ bởi đầm Cút như một hào thiên nhiên, từ đó có thể nhanh chóng tiến ra vùng đồng bằng ven sông Đáy, sông Hồng và rút vào các thung lũng đá vôi.

Trong bối cảnh Đinh Bộ Lĩnh chiếm động Hoa Lư, người chú Đinh Thúc Dự cũng đã chiếm sách Bòng, xã Gia Phương, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình, tạo ra sự đối đầu giữa hai lực lượng nhỏ Trong một trận giao chiến, Đinh Bộ Lĩnh đã thất bại và phải chạy đến cầu Đàm Gia Loan, nay là thôn Đàm Xá, xã Gia Tiến, huyện Gia Viễn Tại đây, cầu bị gãy khiến Đinh Bộ Lĩnh suýt bị đâm, nhưng may mắn thoát được nhờ sự cứu giúp của bạn bè Sự kiện này đã trở thành cơ sở cho truyền thuyết rồng vàng chở Đinh Bộ Lĩnh qua sông và hình ảnh chú lạy cháu.

Đinh Bộ Lĩnh đã thu nhặt tàn quân và giành chiến thắng, trở thành người làm chủ vùng đất thuộc huyện Gia Viễn và huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình ngày nay Đến năm 951, lực lượng của ông mạnh mẽ đến mức Xương Văn và Xương Ngập không thể đánh bại trong suốt nhiều tháng Khi bắt Đinh Liễn làm con tin và đe dọa sẽ giết nếu không đầu hàng, Đinh Bộ Lĩnh đã thể hiện lòng kiên cường khi nói rằng "bậc đại trượng phu chỉ lập công danh cho được" và ra lệnh cho mười tay cung nỏ bắn về phía Liễn, khiến kẻ thù phải rút quân.

Năm 954, Thiên sách vương Xương Ngập qua đời, và đến năm 965, Nam sách vương Xương Văn cũng mất, dẫn đến sự nổi lên của các lực lượng cát cứ khắp nơi Sự kiện này được sử sách gọi là loạn mười hai sứ quân, đi ngược lại nguyện vọng hòa bình và thống nhất đất nước của nhân dân Tình trạng cát cứ và nội chiến trở thành một nguy cơ nghiêm trọng đối với nền độc lập dân tộc, đòi hỏi phải chấm dứt ngay lập tức để khôi phục sự thống nhất quốc gia Người đã hoàn thành sứ mạng lịch sử này chính là Đinh.

Bộ Lĩnh Đầu tiên Đinh Bộ Lĩnh mở rộng căn cứ của mình từ vùng rừng núi Hoa

Lư ra vùng đồng bằng ven sông Hồng, cùng con Đinh Liễn nương nhờ Trần Minh Công, người có đức độ nhưng không có con trai Nhận thấy Đinh Bộ Lĩnh có dáng vẻ khôi ngô và chí lớn, Trần Minh Công đã nhận ông làm con nuôi và giao cho quyền chỉ huy quân đội để đánh bại các sứ quân khác, mở đầu cho sự nghiệp thống nhất đất nước.

Bộ Lĩnh đã đánh bại các loạn thần Lữ Xử Bình và Kiều Trí Hựu tại triều đình Cổ Loa Đinh Bộ Lĩnh hàng phục Ngô Nhật Khánh, cưới mẹ của Ngô Nhật Khánh làm hoàng hậu và gả em gái của ông cho con trai Đinh Liễn, đồng thời cũng gả công chúa Phất Kim cho Ngô Nhật Khánh, tạo mối quan hệ thân thiết Phạm Bạch Hổ ở Đằng Châu đã xin hàng vì cảm phục đức độ của Đinh Bộ Lĩnh Theo Thượng từ ngọc phả ở đền Thượng, thôn Quang Sán, xã Mỹ Hà, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, Lã Tá Đường cùng với các tướng Lã Đình Kính, Lữ Đình Đệ, và Cao Mộc Thận đã quy phục Đinh Tiên Hoàng và có công dẹp loạn mười hai sứ quân, được ban lộc điền.

Theo truyền thuyết ở Thanh Hóa, Ngô Xương Xí đã đầu hàng Đinh Bộ Lĩnh sau khi cảm phục uy danh của ông Đinh Bộ Lĩnh sau đó chia quân đánh các sứ quân khác, trong đó có Đỗ Cảnh Thạc, một sứ quân mạnh mẽ Bằng mưu trí và chiến thuật, Đinh Bộ Lĩnh đã phải nỗ lực rất nhiều để giành chiến thắng trước Đỗ Cảnh Thạc Theo thần tích Độc Nhĩ Đại Vương, một đêm, Đinh Bộ Lĩnh chia quân thành bốn đạo, tấn công trại Quyền trong khi Đỗ Cảnh Thạc chỉ có cổ tướng giữ thành Kết quả là Đỗ Cảnh Thạc mất cả thành lũy và lương thực, phải thu thập tàn quân để chống lại Đinh Bộ Lĩnh trong nhiều năm Ngọc phả ghi lại rằng có lần Đinh Bộ Lĩnh chủ quan, bị Đỗ Cảnh Thạc bao vây, nhưng đã được Cao Lịch và Cao Khiển mang quân đến giải vây.

Đinh Bộ Lĩnh cùng với quân đội đã hạ thành của Đỗ Cảnh Thạc, khiến Đỗ Cảnh Thạc tử trận Sau đó, Đinh Bộ Lĩnh chia quân tiến đánh Nguyễn Siêu tại Tây Phù Liệt Nguyễn Siêu đã tập hợp một vạn quân ở Thanh Đàm, với Nguyễn Trí Khả làm tiên phong, Trần Côn làm tá dực, và Nguyễn Hiền là tổng quản Quân lính của Nguyễn Siêu đã luyện tập ngày đêm, đào hào và đắp lũy để phòng bị Trong trận giao tranh đầu tiên, Đinh Bộ Lĩnh đã mất bốn tướng.

Bồ, Nguyễn Phục, Đinh Thiết và Cao Sơn đã tham gia vào cuộc chiến, trong đó Đinh Bộ Lĩnh giao nhiệm vụ cho Nguyễn Bặc làm tiên phong và Lê Hoàn làm tiếp chiến, còn bản thân mình làm thống lĩnh Họ đã sử dụng voi chiến và quân sĩ để tấn công vào xã Cẩm Cơ Nguyễn Siêu chia quân, một nửa ở lại giữ thành, còn nửa kia đi xin viện binh từ Nguyễn Khoan và Nguyễn Thủ Tiệp Khi quân của Nguyễn Siêu vượt sông, họ gặp phải gió lớn, khiến thuyền và quân nhu bị đắm Nhận được tin, Đinh Bộ Lĩnh đã phái mười võ sĩ vào đêm khuya để đốt doanh trại, làm quân của Nguyễn Siêu tan vỡ Ngày nay, bốn làng Đông Phù Liệt, Tây Phù Liệt, Đông Trạch và Hà Uyên đều thờ Nguyễn Siêu như thành hoàng.

Sau khi tiêu diệt Nguyễn Siêu, Đinh Bộ Lĩnh dẫn quân đến Phong Châu để tấn công Kiêu Công Hãn Theo ngọc phả tại đền Gin, xã Nam Dương, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, và ngọc phả về Đinh triều Công thần trung tín đại vương ở đền, sự kiện này thể hiện tầm quan trọng của cuộc chiến trong lịch sử.

Tại xã Nghĩa An, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, Kiều Công Hãn đã phải rút quân về sau khi không thể chống lại Đinh Bộ Lĩnh và hợp sức với Ngô Nhật Khánh Khi biết Ngô Nhật Khánh đã đầu hàng, ông quay về Ái Chầu nhưng bị Nguyễn Tấn, một hào trưởng ở An Lá, chặn đánh tại thôn Vạn Diệp Kiều Công Hãn bị thương ở cổ và phải chạy trốn, nhưng khi đến thôn An Lũng, ông được một bà hàng cho ăn gỏi cá chép trước khi qua đời tại Lũng Kiều Đến ngày mùng mười tháng chạp âm lịch hàng năm, dân làng Gin tổ chức đánh cá để tưởng nhớ Kiều Công Hãn, trong khi dân An Lá gói bánh để tri ân chiến công của Nguyễn Tấn, tạo nên câu nói "Làng Gin đánh cá, làng Lá gói bánh" trong cộng đồng địa phương.

Theo thần tích, thì Kiều Thuận cũng không chống nổi Đinh Bộ Lĩnh, bỏ chạv đến thôn Trù Mật (Sơn Vi, Lâm Thao, Phú Thọ) thì mất

Theo thần tích làng Tiên Xá, Nguyễn Thủ Tiệp ở Tiên Du không thể chống lại Đinh Bộ Lĩnh, đã phải bỏ chạy về Cần Hải (Cửa Cồn, Quỳnh Lưu, Nghệ An), nơi ông tham gia vài trận chiến trước khi qua đời tại trang Hương Ái.

Khái quát tiểu sử của vua Lê Đại Hành

"Dương Thần Vũ" là một câu ca ngợi Lê Hoàn, được các nhà nho xưa ghi lại trên tấm biên sơn son thiếp vàng rực rỡ tại đền thờ ông.

Lê Hoàn sinh ngày 15-7 năm Tân Sửu (tức 10-8-941) tại làng Trung Lập, Châu Ái nay là làng Trung Lập, xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh

Lê Hoàn, mồ côi cha mẹ từ nhỏ, phải trải qua cuộc sống khó khăn và cô đơn Dù trong hoàn cảnh trớ trêu, ông vẫn giữ vững chí khí và quyết tâm Viên quan sát họ Lê nhận thấy tài năng và nghị lực phi thường của Lê Hoàn, cho thấy ông là một nhân vật đáng chú ý trong lịch sử.

Lê Hoàn, một đứa trẻ không bình thường được nhận làm con nuôi, đã được nuôi dạy như con đẻ Khi trưởng thành, ông đã đến thăm mộ tổ tiên tại làng Bảo Thái, nay là thôn Tứ, xã Liêm Cần, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, trước khi theo Nam Việt Vương Liễn Với chí lớn và tài năng, Đinh Tiên Hoàng đã giao cho Lê Hoàn nhiệm vụ trông coi 2000 binh sĩ Ông đã có công lớn trong việc dẹp loạn mười hai sứ quân và được phong chức Thập đạo tướng quân điện tiền đô chi huy sứ.

Khi Đinh Tiên Hoàng bị sát hại, Đinh Toàn mới chỉ sáu tuổi đã lên ngôi Hoàng đế Lợi dụng thời cơ này, nhà Tống tiến hành xâm lược nước ta vào tháng 8 năm Canh Thìn (980) Sau khi ra lệnh cho các tướng chuẩn bị chiến tranh, vua Tống gửi thư đe dọa, khẳng định rằng chín châu bốn biển đã yên ổn, chỉ còn Giao Châu là xa xôi và yêu cầu Đinh Toàn quyết định theo hay không theo Vua Tống cảnh báo nếu không quy phục, ông sẽ quyết tâm tấn công.

Nhận được thư từ vua Tống, Lê Hoàn vừa chuẩn bị cho cuộc kháng chiến theo kế hoạch của Ngô Quyền, vừa cho Giang Cự Vọng và Vương Thiên Tộ mang thư giả mạo của Đinh Toàn sang nước Tống, nhằm xin nối ngôi cha và kéo dài thời gian chuẩn bị.

Vào mùa xuân năm 981, quân Tống chia thành bốn mũi tiến công vào Đại Cồ Việt Đạo quân do Hầu Nhân Bảo chỉ huy, bao gồm bộ binh và kỵ binh, tiến xuống Ngân Sơn từ phía bắc và đông bắc Mũi thứ hai, do Tôn Toàn Hưng dẫn đầu, xuất phát từ Ung Châu, nhanh chóng tiến xuống Chi Lăng, Lạng Sơn, uy hiếp Đại Cồ Việt từ chính diện Đạo quân này thường xuyên liên lạc với Hầu Nhân Bảo để hợp binh và đánh sâu vào hậu phương Đại Cồ Việt Mũi thứ ba, do Lưu Trừng chỉ huy, là thủy đội thiện chiến nhất, xuất phát từ Quảng Châu và tiến thẳng tới sông Bạch Đằng, với khả năng di chuyển nhanh chóng chỉ mất từ năm đến mười lăm ngày.

Mũi tiến quân thư tư do Trần Khâm Tộ chỉ huy, xuất phát cùng lúc với thủy đội Lưu Trừng qua các cửa Văn Úc, Thái Bình, Ba Lạt hoặc Đáy, tiến vào nội địa và đến Tây Kết Khi kết hợp với mũi tiến quân của thủy đội Lưu Trừng và các mũi tiến quân khác, nó tạo thành một hướng tập hậu nguy hiểm, đe dọa trực tiếp kinh đô Hoa Lư của Đại Cồ Việt.

Trước khi xuất quân chống Tống, Lê Hoàn đã mời sư Vạn Hạnh, một nhân vật có uy tín trong xã hội, đến để thảo luận và trao đổi ý kiến.

"Nội trong ba bảy ngày giặc tất tan"

Câu nói khẳng định của Vạn Hạnh đã tạo động lực cho Lê Hoàn và quân dân ta trong bối cảnh quân Tống xâm lược vào cuối tháng 12 năm 980 Dựa vào sức mạnh ban đầu, quân Tống đã giành được một số thắng lợi nhỏ trong trận Tân Mão tháng 12 năm Canh Thìn (30-1-981), có thể coi đây là trận đánh mở màn trên bộ nhằm chặn đứng địch xung quanh thành Bình Lỗ.

Lê Hoàn đã trực tiếp chỉ huy trận đánh quan trọng ở Bạch Đằng, nơi ông tự mình làm tướng và chỉ đạo binh sĩ đóng cọc để ngăn chặn quân địch Mặc dù phải đối mặt với nhiều thất bại ban đầu, thủy đội của Lưu Trừng vẫn tiếp tục tiến lên Một trận quyết chiến chiến lược đã diễn ra, trong đó quân Tống đông đảo nhưng quân ta đã gặp khó khăn, dẫn đến việc hai trăm chiến thuyền bị mất.

Tống vấp phải sức kháng cự mạnh mẽ từ quân ta, không thể tiến sâu và buộc phải đối phó với các hành động bao vây của Lê Hoàn Mục tiêu chiến lược của ta là nhanh chóng tiêu diệt đội quân Lưu Trừng, nếu không sẽ phải dựa vào địa hình núi sông để cầm cự, nhằm ngăn chặn sự hợp quân của Lưu Trừng với các mũi tiến quân khác Đội quân kỵ binh của Tôn Toàn Hưng đóng tại Hoa Bộ trong 70 ngày chờ đợi, nhưng cuối cùng Lưu Trừng đã tự ý rút lui về Hoa Bộ mà không gặp quân ta Kế hoạch tấn công nhanh chóng của quân Tống đã thất bại, khiến họ co cụm tại Hoa Bộ, trong khi quân ta dưới sự chỉ huy của Lê Hoàn đã chuyển sang thế trận tiến công.

Tại Tây Kết, thủy quân của Trần Khâm Tộ bị cô lập sau thất bại ở sông Bạch Đằng và nhanh chóng tháo chạy, trong khi quân ta truy kích quyết liệt Trần Khâm Tộ chịu tổn thất nặng nề, với hơn một nửa quân số tử trận, và quân ta đã bắt sống tướng giặc Quách Quân Biện để đưa về Hoa Lư Trong khi đó, đại quân Tống do Hầu Nhân Bảo chỉ huy tiến đến sông Chi Lăng với ý định tháo chạy, nhưng đã bị Lê Hoàn cho quân sĩ trá hàng, dẫn đến cái chết của Hầu Nhân Bảo Khi hay tin này, đạo quân cứu viện Tống do Hứa Trọng Tuyên chỉ huy đã vội vã rút lui về nước để tránh bị tiêu diệt hoàn toàn.

Sau thất bại nặng nề, vua Tống rơi vào tuyệt vọng và đổ lỗi cho các tướng lĩnh bại trận Tôn Toàn Hưng bị xử án chém ngay tại chợ, trong khi Lưu Trừng, Giả Thực và Vương Soạn bị bắt giam và chịu số phận bi thảm Lưu Trừng qua đời do bệnh tật trước khi bị xét xử, còn Trần Khâm Tộ bị giáng chức vì trách nhiệm trong thất bại này.

Chiến thắng của Lê Hoàn làm cho nước ta yên ổn ở biên giới phía Bắc gần một thế kỷ

Sau khi chiến thắng quân xâm lược Tống ở phía Bắc, Lê Hoàn đã tiến hành trừng phạt Chiêm Thành ở phía Nam Trước đó, lợi dụng sự hỗn loạn sau cái chết của vua Đinh, vua Chiêm Phê Mi Thuế đã xâm lược Đại Cồ Việt nhưng gặp phải bão lớn, dẫn đến cái chết của Ngô Nhật Khánh, trong khi vua Chiêm may mắn thoát thân Vua Chiêm cũng đã bắt giữ sứ giả Đại Cồ Việt là Từ Mục và Ngô Tử Canh Đến năm 982, Lê Hoàn đã chỉ huy quân đội đánh bại Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm và chém đầu, khiến quân Chiêm Thành chịu thất bại nặng nề.

Sự nghiệp "kháng Tống, bình Chiêm" của các bậc anh hùng trong lịch sử Việt Nam được ghi nhận là hiển hách, với sự đánh giá của nhà sử học Ngô Sĩ Liên vào thế kỷ XV Ông khẳng định rằng "Vua đánh đâu được đấy", thể hiện sự quyết tâm trong việc đánh bại quân Chiêm Thành để rửa nhục bị bắt giữ sứ thần và phá tan quân Triệu Tống, nhằm bẻ gãy mưu đồ của vua tôi Điều này cho thấy sự kiên cường và tài năng của những người lãnh đạo thời bấy giờ.

Giá trị lịch sử - văn hóa của Đền các vua Đinh, Lê

Hoa Lư, kinh đô của Việt Nam trong 42 năm (968-1010) dưới triều đại Đinh - Lê, là kinh đô đầu tiên của chế độ phong kiến Trung ương tập quyền Đây là thời kỳ Nhà nước phong kiến độc lập còn non trẻ và nền thống nhất mới được củng cố Theo Đại Việt sử ký toàn thư, vào năm 968, Đinh Bộ Lĩnh đã xây thành và đào hào để đặt triều nghi tại Hoa Lư Mặc dù Đinh Bộ Lĩnh chưa đủ điều kiện để xây dựng một kinh đô lớn, nhưng Lê Hoàn đã tiếp nối công trình này Nhân dân có câu: “Nhà Đinh xây Thành, nhà Lê xây dựng cung điện”.

Thời kỳ vua Đinh chỉ có một số kiến trúc quan trọng dành cho vua và hoàng hậu, với quy mô lớn và trang trí đẹp, trong khi phần lớn còn lại là những công trình bình thường cho quan lại và người phục vụ Cung điện nhà Đinh bao gồm khoảng 10 toà nhà cho vua, hoàng hậu, hoàng tử, công chúa, cung nữ và các quan văn võ Đến thời Tiền Lê, vào năm 984, Lê Hoàn đã cho xây dựng nhiều cung điện mới như điện Thái Bảo và Thiên Tuế ở núi Đại Vân, cùng với các điện khác như Phong Lưu, Tứ Hoa, Bồng Lai, Cực Lạc, và lầu Đại Vân, trong đó có điện Trường Xuân làm nơi vua nghỉ ngơi và điện Long Lộc lợp ngói bạc bên cạnh.

Trong thế kỷ X, Đinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn đã khéo léo tận dụng địa hình hiểm trở của Hoa Lư để xây dựng thành lũy vững chắc Với vị trí địa lý thuận lợi và sự ủng hộ của nhân dân, Hoa Lư trở thành căn cứ quan trọng Nơi đây gần quê hương của Đinh Bộ Lĩnh (Gia Viễn) và Lê Hoàn (Thanh Hóa), đồng thời nằm bên bờ sông Hoàng Long, con sông có nguồn từ miền rừng núi Hòa Bình và huyện Nho Quan, tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông.

Hoa Lư, vào thế kỷ X, không chỉ là thủ đô của đất nước mà còn là trung tâm chính trị, văn hóa và kinh tế quan trọng Tại đây, nhà vua hoạch định các kế hoạch đối ngoại và quân sự, đồng thời tiếp đón sứ thần từ các nước Với vị trí chiến lược, Hoa Lư kiểm soát miền đồng bằng ven biển và có khả năng tiến sâu xuống phía Nam qua các con đường núi Nơi đây cũng là căn cứ quân sự quan trọng, từ đó xuất phát các đạo thần binh để đánh bại quân Tống và bình định Chiêm, tạo nên những chiến công oanh liệt cho dân tộc trong thế kỷ X.

Sau khi nhà Lý lên ngôi vào năm 1009, vua Lý Thái Tổ nhận thấy Kinh đô Hoa Lư, mặc dù hùng vĩ và hiểm trở, nhưng chật hẹp và chỉ phù hợp cho phòng thủ Để có thể phát triển và thực hiện các kế hoạch tấn công, ông quyết định rằng Kinh đô cần phải rộng rãi và thuận tiện về giao thông thủy bộ, đồng thời là trung tâm về địa lý và kinh tế Do đó, vào năm 1010, vua Lý Công Uẩn đã quyết định dời đô từ Hoa Lư đến thành Đại.

La (Hà Nội ngày nay)

Việc dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long mang ý nghĩa quan trọng trong lịch sử bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, thể hiện quyết định đúng đắn vì lợi ích chung của dân tộc và phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước Sau khi vua Lý Thái Tổ chuyển đô, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư trở thành Cố đô Hoa Lư, gắn liền với giai đoạn lịch sử thống nhất và xây dựng đất nước Đại Cồ Việt.

Hoa Lư là bước đệm vững chắc cho sự hình thành kinh đô Thăng Long của nhà Lý và nhà Trần, thể hiện nền văn minh Đại Việt rực rỡ Các tuyến thành ở Hoa Lư đã kế thừa từ các thành cổ như Cổ Loa, đồng thời cũng là hình mẫu cho việc xây dựng Thăng Long Nhà Lý đã sử dụng nhiều địa danh từ Hoa Lư như chùa Nhất Trụ, tháp Báo Thiên, và cầu Đông để đặt tên cho Thăng Long Sự phát triển hài hòa của nghệ thuật dân tộc được thể hiện qua các viên gạch trang trí hoa sen ở Hoa Lư và hoa cúc ở Thăng Long thời Trần Vì vậy, Hoa Lư đóng vai trò quan trọng trong mối liên hệ với Thăng Long và có giá trị khảo cổ học đáng kể.

Hoa Lư, mặc dù không còn là kinh đô của cả nước, vẫn giữ vai trò là một trung tâm văn hóa quan trọng Nơi đây từng là phủ của thời Lý, Lộ (sau đổi thành Trấn) của thời Trần, và phủ Trường Yên trong thời Lê sơ, đồng thời là một trong những vùng đất quan trọng của Thanh Hoa ngoại trấn, cũng như phủ Trường Yên thời Nguyễn Nhiều công trình văn hóa nổi bật đã được xây dựng tại đây, bao gồm chùa Am Tiên thời Lý và tháp Ghềnh Tháp thời Trần, cùng với đền vua Đinh và đền vua Lê Những công trình này không chỉ có giá trị kiến trúc nghệ thuật mà còn chứa đựng những tác phẩm điêu khắc tinh xảo, góp phần quan trọng vào việc nghiên cứu lịch sử mỹ thuật Việt Nam.

Hoa Lư, nơi hội tụ văn hóa của nhiều thời đại, bắt đầu từ thời Đinh - Lê, nổi bật với các ngôi đình, đền thờ vua Đinh, vua Lê và các vị tướng Những tấm bia từ thời Lý, Lê, và Nguyễn mang giá trị lịch sử quý giá, là nguồn tài liệu quan trọng bổ sung cho chính sử.

Cố đô Hoa Lư, với bề dày lịch sử hàng nghìn năm, không chỉ lưu giữ những di tích của một thời kỳ hào hùng mà còn chứa đựng nhiều huyền thoại về sự hình thành nước Đại Cồ Việt Nơi đây ghi dấu ấn của vị vua anh minh Đinh Tiên Hoàng và thể hiện bản lĩnh, khí phách của dân tộc trong giai đoạn khởi đầu độc lập, tự cường, khi đất nước phải đối mặt với các thế lực ngoại xâm.

Người Hoa Lư tự hào về giá trị lịch sử và văn hóa của cha ông, đồng thời không quên hiện tại và luôn nỗ lực phấn đấu để đạt được những mục tiêu vật chất và tinh thần cao hơn Cố đô xưa nay đã có những ngôi nhà san sát, với hệ thống giao thông phát triển và ống khói nhà máy vươn cao Nhờ vào sự hoàn thiện của điện, đường, trường, trạm từ những năm trước, người dân Hoa Lư đang tiếp tục đi lên từ truyền thống, khát vọng xứng đáng với di sản văn hóa của vùng đất này.

Trên hành trình lịch sử hàng nghìn năm, cha ông chúng ta đã vượt qua nhiều thử thách để xây dựng đất nước Từ triều đại nhà Trần, cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi, đến sự nghiệp của Quang Trung và phong trào yêu nước chống Pháp, tất cả đều mang trong mình những giá trị từ thời Đinh Tiên Hoàng Ngày nay, khi người Việt Nam hướng về Thăng Long - Hà Nội, chúng ta không thể quên Hoa Lư, nơi khởi nguồn của một thời kỳ mới, khẳng định nước Việt Nam là một quốc gia tự chủ, nơi người Việt được làm chủ đất nước.

TRỊ CỦA ĐỀN CÁC VUA ĐINH, LÊTRONG HOẠT ĐỘNG

Đền vua Đinh

Đền vua Đinh và đền vua Lê được xây dựng trên nền tảng của cung điện xưa, theo truyền thuyết Khi nhà Lý chuyển đô từ Hoa Lư sang Thăng Long, nhân dân đã xây dựng hai ngôi đền để tưởng nhớ hai vị anh hùng dân tộc Đinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn Ban đầu, đền được xây dựng hướng Bắc, nhìn ra núi.

Hồ, núi Chẽ, trải qua thời gian, hai ngôi đền cũ đã không còn Vào đầu thế kỷ XVII, sau khi rời nhà Mạc để theo nhà Lê, Phong quân công Bùi Thời Trung đã tái xây dựng hai ngôi đền theo hướng đông, và vào năm Hoàng Đinh thứ 7 (1606) đã khắc bia ghi nhớ sự kiện này Khoảng năm Bính Thìn (1676), nhân dân Trường Yên đã tiến hành trùng tu lớn cho hai ngôi đền Đến năm Thành Thái thứ 10 (1898), cụ Bá Kếnh cùng nhân dân Trường Yên Thượng đã sửa chữa đền vua Đinh, nâng cao đền bằng tảng đá cổ Đền vua Đinh được xây dựng theo kiểu "nội công ngoại quốc", với đường đi lối vào hình chữ Vương, và các công trình kiến trúc được bố trí đối xứng theo trục đường chính Tên gọi của các công trình phỏng theo tên của cung điện xưa, với Ngọ môn quan (cổng ngoài) quay về hướng bắc.

"Tiền triều phượng khuyết" (cửa phượng triều trước), ở phía ngoài có bốn chữ

Bắc môn tỏa thược, với sập long sàng bằng đá và hai nghê chầu đá xanh, thể hiện lòng sùng kính đối với vua Đinh Kiến trúc ba hàng chân cột ở Nghi môn nội và Nghi môn ngoại là một trong những mẫu hình đầu tiên tại Việt Nam Nhà Khải Thánh thờ cha mẹ vua Đinh nằm bên phải, trong khi bên trái là nhà Vọng, nơi diễn ra các buổi lễ Hai "vườn hoa ngoại quốc" trước cửa hai nhà tạo nên không gian trang trọng, với hòn non bộ "cửu long" bên phải và "hình nhân bái tướng" bên trái Sân rồng có sập long sàng hình chữ nhật, trang trí rồng, tượng trưng cho bệ rồng khi vua ngự triều, với hai hàng chân cột cắm cờ và vũ khí, đại diện cho các quan văn võ và mười đạo quân.

Long sàng là một tác phẩm nghệ thuật tinh xảo, với hình ảnh con rồng trang trí giữa sập Rồng có thân mập, đuôi thẳng, phủ vảy đơn, đầu ngẩng cao cùng hai cụm tóc lớn bay ngược lên Hai dải râu dài thả lỏng phía trước và má có hai hàng râu chải đều như cánh phượng Hình ảnh con rồng uốn lượn không chỉ thể hiện sự vận động của bầu trời mà còn tượng trưng cho những tia chớp từ các đám mây, tạo thành sấm để gọi nguồn nước phong phú về cho đồng ruộng.

Long sàng không chỉ tôn vinh vua Đinh mà còn là nơi cầu xin phúc lành từ thần linh Diềm long sàng được trang trí bằng hình ảnh tôm, cá - những sinh vật dưới nước, cùng với chuột - loài vật trên cạn, thể hiện tư tưởng phóng khoáng của nghệ sĩ dân gian thế kỷ XVII Đây được coi là sập long sàng đẹp nhất trong nghệ thuật tạo hình sập đá tại Việt Nam.

Hai bên sập long sàng có hai con rồng đá kiểu yên ngựa, được tạc vào đầu thế kỷ XVII, khi mới xây lại đền Những con rồng này được làm từ đá xanh nguyên khối, với những nét mây đạo mác tỏa ra phía sau, tạo cảm giác như rồng đang lao về phía trước Bên cạnh đó, có hai con nghê chầu bằng đá xanh nguyên khối, có niên đại cũng từ thế kỷ XVII, mang vẻ đẹp độc đáo.

Hai con nghê tại đền Vua Đinh được tạo hình chắc khỏe với đầu ngẩng cao, mồm há, mũi hếch và tóc xoăn, thể hiện sức mạnh và sự linh thiêng Đền có ba tòa: Bái đường, Thiêu hương và Chính cung, trong đó Bái đường thờ công đồng Kiến trúc của đền được bao quanh bởi tường và cửa kín, tạo nên không gian tối tăm, huyền bí, tăng cường sức mạnh cho các đồ thờ Cửa đền được thiết kế lui vào hàng cột cái, tạo thành các mảng trang trí lớn, khác biệt với các kiến trúc khác Đặc biệt, ở Bái đường có đôi "xà cổ ngỗng" vừa đỡ mái vừa che đầu hoành, thể hiện kỹ thuật kiến trúc tinh xảo trong văn hóa truyền thống.

Thứ nhất là câu thượng gia góc, thứ ba đao đình

Tác phẩm nghệ thuật độc đáo tại kẻ góc được thể hiện qua tấm biển lộng lẫy mang dòng chữ "Chính thống thủy", nằm ở giữa bái đường Hai cột giữa được trang trí với đôi câu đối tôn vinh nước Đại Cồ Việt và Kinh đô Hoa Lư.

Cô Việt quốc đương Tông Khai Bảo Hoa Lư đô thị Hán Trường An

Nước Cồ Việt như Tống Khai Bảo Đô Hoa Lư là Hán Tràng An)

Tòa giữa của Thiêu hương thờ các quan và công thần nhà Đinh, nổi bật với nhang án đẹp mắt có niên đại thế kỷ XVII Trên nhang án, mũ "Bình Thiên" biểu trưng cho vương miện của vua Đinh, thể hiện quyền lực đế vương.

Chính cung thờ vua Đinh Tiên Hoàng cùng các con của ông, với tượng vua đội mũ "Bình Thiên" và mặc áo "Long cổn" ở giữa Bên trái là tượng Đinh Liễn, con trưởng, trong khi bên phải là tượng Đinh Hạng Lang và Đinh Toàn, hai con thứ của vua.

Hai bên bệ thờ vua Đinh là hai con rồng đá bán thân kiểu yên ngựa, đẹp hơn nhiều so với các rồng chầu bên sập long sàng ngoài sân Do không bị phong hóa, râu và bờm của rồng vẫn giữ được nét mềm mại như vẽ Đặc biệt, con rồng bên phải có hình ảnh một con cá chép đang bú rồng, gợi nhớ đến tích "cá hóa long" với câu ca nổi tiếng.

Mồng bổn cá đi ăn thê Mồng tám cá về cá vượt vũ môn

Hàng năm, vào ngày 8-4 âm lịch, cá chép vượt vũ môn để hóa rồng, thể hiện truyền thuyết dân gian độc đáo Trong tác phẩm nghệ thuật, bên trái tượng vua Đinh, có hình ảnh con cá trắm đang đớp tôm, tạo nên sự thú vị và gần gũi Tác phẩm không chỉ mang chất liệu dân gian mà còn ca ngợi sự nghiệp thống nhất đất nước của Đinh Bộ Lĩnh qua những câu ca đầy ý nghĩa.

Ngã Nam đế thống đệ nhất kỷ Trường Yên miếu mao vạn thiên niên

Nước Nam thống nhất kỷ thứ nhất Trường Yên đén miêu muôn ngàn năm)

Tương truyền, dưới tượng vua Đinh có tượng Đỗ Thích, và vào ngày tế vua Đinh, dân làng thường đem tượng Đỗ Thích ra đánh ba roi để răn đe kẻ có tội Đồ tế kiêng lòng lợn và tiết canh, vì Đỗ Thích đã từng cho thuốc độc vào lòng lợn để giết vua Đinh Đền vua Đinh, nằm dưới dãy núi Phi Vân, là một công trình kiến trúc và điêu khắc quý giá từ thế kỷ XVII, dù đã trải qua nhiều lần tu sửa nhưng vẫn giữ được một số mảng điêu khắc thời Hậu Lê Tại đây, nghệ thuật thể hiện con người rất phong phú, với hai cô tiên cưỡi rồng và một cô tiên múa trong Nghi môn nội Đặc sắc nhất là hình ảnh người săn thú, thể hiện sức mạnh qua cảnh một người đàn ông khỏe mạnh đang đuổi bắt con nai Đối diện là hình ảnh hai con trâu đang nô đùa, thể hiện sự sống động và gần gũi của thiên nhiên Đặc biệt, hình ảnh rồng xuất hiện dày đặc trong các mảng chạm, từ rồng mẹ đến rồng con, với nhiều tư thế khác nhau, thể hiện sự phong phú của nghệ thuật điêu khắc tại đền vua Đinh.

Bức chạm rồng đàn trên mảng ván bưng tại xà lòng hậu cung của đền là tác phẩm đẹp nhất, thể hiện sự khéo léo của nghệ sĩ dân gian qua việc kết hợp chạm nổi và chạm lộng Những con rồng như đang bay lượn giữa mây, với hai con rồng ở giữa nhô đầu ra như đang nô giỡn, tạo nên hình ảnh sống động Mây đao mác tua tủa lấp lánh như tia chớp, trong khi những chú rồng con lấp ló phía sau đang vui đùa.

Các bức cổn diềm cửa ngoài bái đường thường chứa đựng những đề tài điêu khắc phong phú như "Lưỡng long chầu lá đề" và "Lưỡng long chầu nguyệt" Trong đó, mặt nguyệt có thể mang chữ "vạn", biểu trưng cho sự bình đẳng và bác ái trong Phật giáo, hoặc chữ "ngọc" (thỏ) bên trong Ngoài hình ảnh rồng, còn nhiều đề tài khác cũng được thể hiện trong các tác phẩm điêu khắc này.

"Phượng chầu mặt nguyệt" mà chim phượng có dáng như những con sáo,

Đền vua Lê

Đền vua Lê có kiến trúc tương tự như đền vua Đinh, nhưng khác biệt ở một số chi tiết Bên ngoài là một sập đá, tiếp theo là Nghi môn ngoại Bên trong Nghi môn ngoại, phía bên phải đền là Từ Vú của làng Yên Hạ, nơi thờ Khổng Tử Trước cửa Từ Vũ có một hòn non bộ lớn được làm từ đá xanh nguyên khối.

Phượng Vũ, hay còn gọi là phượng múa, khi nhìn từ phía bắc có hình dáng giống như một con sư tử, trong khi từ phía tây nam lại mang đến một vẻ đẹp ấn tượng với chân núi được tạo hình "tứ linh" gồm rồng, lân, quy và phượng Bên trái đền là một ao nước, tạo nên khung cảnh thơ mộng và hài hòa.

Theo đường chính đạo, vào phía trong là Nghi môn nội, hai bên là hai

Nhà Vọng là nơi xưa kia các cụ bàn việc tế lễ, trước hai nhà Vọng có hai hòn non bộ đẹp mang dáng "phượng vũ" và "phượng ấp" Giáp với hai nhà Vọng là hai nhà bia, dẫn vào sân rồng, nơi có sập long sàng bằng đá tượng trưng cho chỗ ngự triều của vua Xung quanh sập có hàng lỗ cột để cắm cờ, bát bửu và vũ khí trong các ngày hội, thể hiện thứ bậc của các quan văn võ Đền gồm ba tòa: Bái đường, Thiêu hương và Chính cung, trong đó Bái đường thờ công đồng Cửa đền được lui vào tận hàng cột cái và bao tường kín xung quanh, tạo không gian u tịch với ánh sáng mờ ảo, khiến các đồ thờ và nghi trượng mang sức mạnh huyền bí Ngoài Bái đường có đôi "Xà ngà voi" và tấm biển "Trường Xuân Linh Tích" lộng lẫy, bên trái có biển "Xuất thánh minh" và bên phải là "Dương thần vũ" Tại đây còn có đôi câu đối ca ngợi sự nghiệp "kháng Tống, bình Chiêm" của Lê Hoàn.

Thần vũ thiếp tư lân, thịnh Tống cường chiêm thủ nhật Tinh linh tòn thiên cổ, Long giang Mã trục chi gian

Thần vũ động bốn bên, trong tức Chiêm cường, Tống thịnh Thiêng liêng còn mu.cn thuở trong vùng núi Mã, sông Long

Và đôi câu đối ca ngợi Lê Hoàn cày ruộng tịch điền:

Thụy vân cam vũ thiên hưu ngưỡng Tạc tỉnh canh điên đế lực chi

(Mây lành mưa ngọt ơn tiên đế Đào giếng và cày ruộng là sức của nhà vua)

Tòa giữa là Thiêu hương thờ các quan, những công thần của nhà Lê Ở đây cũng có một nhang án khá đẹp ơ thế kỷ XVII

Trong cùng là chính cung thờ vua Lê, hoàng hậu Dương Vân Nga và

Lê Ngọa Triều, hay còn gọi là Lê Long Đĩnh, là con thứ năm của Lê Hoàn và là vua thứ ba của triều Tiền Lê Tại chính cung, tượng Lê Hoàn đội mũ bình thiên với chữ "vương" biểu thị cho vị vua Bên trái của ông là tượng Dương Vân Nga, được biết đến với danh hiệu Bảo quang hoàng thái hậu.

Tượng bà Dương Vân Nga xưa kia được thờ tại đền vua Đinh, nhưng vào thời Hậu Lê, một quan hạch đã đưa bà sang đền vua Lê Khi di chuyển, bà rất lo lắng và toát mồ hôi Mặc dù được đặt ở đền vua Lê, nhưng tượng bà vẫn được quay mặt về phía đền vua Đinh, thể hiện tình nghĩa của bà với nhà Đinh Theo truyền thuyết dân gian, Dương Vân Nga khi mới sinh ra đã mang trong mình những điều đặc biệt.

"khóc dạ đề" ba tháng, dỗ mãi không khỏi, một ông đạo sĩ đã ru:

Nín, nín đi thôi Một vai gánh vác cả đôi sơn hà là nín ngay

Như vậy nhân dân ta đã đánh giá Dương Vân Nga gánh vác giang sơn của hai triều đại, là hoàng hậu của cả vua Đinh và vua Lê

Dương Vân Nga được nhân dân tôn vinh qua việc tạc tượng trong số năm hoàng hậu của vua Đinh và vua Lê, với hình ảnh một người phụ nữ đẹp, khuôn mặt bầu bĩnh, nước da hồng và đôi mắt bồ câu Mặc dù khuôn mặt mang tính ước lệ của phật, nhưng vẫn giữ được nét sinh động thanh tú Đền vua Lê, mặc dù không khang trang như đền vua Đinh do ít được tu sửa, nhưng vẫn bảo tồn nhiều mảng điêu khắc thời hậu Lê Các mảng chạm khắc gỗ rậm rạp ở ngoài đường tạo nên không gian nghệ thuật đặc sắc, trong đó có sáu chiếc bẩy được thể hiện thành sáu con rồng, khéo léo bố trí đầu rồng quay sát xà ngang, tạo nên các đề tài độc đáo.

Trong nghệ thuật chạm lộng, hình ảnh "long hổ hội ngộ" thể hiện sự kết hợp giữa rồng và hổ, với rồng phun lửa và đớp ngọc được trang trí tinh xảo thành bông cúc mãn khai Bốn đầu dư được khắc họa thành bốn đầu rồng, với râu tóc tua tủa phía sau, tạo cảm giác như chúng muốn vươn ra khỏi đám mây Điều này cho thấy nghệ thuật chạm lộng ở đây đã đạt đến trình độ cao, thể hiện sự tinh tế và khéo léo của người nghệ nhân.

Đền vua Lê thể hiện hình ảnh con người qua bốn lần khác nhau Trên sàn ván bưng của xà giữa Nghi môn nội, nghệ sĩ dân gian đã khắc họa hai cô tiên cưỡi rồng Hai cô tiên với kiểu tóc búi ngược và hoa tai dài, một tay ôm cổ rồng, tay còn lại giang ra như đang múa.

Trong hai lỗ thông phong hình vuông ở phía bên phải đền, mỗi chiều dài 25 cm, có những hình chạm khắc tinh xảo mô tả cảnh "tiên cưỡi rồng" và "tiên đứng bên rồng" Con rồng được khắc họa với miệng há rộng như đang phun lửa, râu tóc bay ngược Cô tiên với búi tóc gọn gàng, mặc yếm, có dáng vẻ khỏe mạnh đang cưỡi trên lưng rồng, tay nắm chặt bờm, mặt hướng ra ngoài với môi hơi mím lại, thể hiện sự quyết tâm như đang thúc giục rồng lao về phía trước.

Hổ được thể hiện qua nhiều hình ảnh khác nhau: một con ngồi chầu như những con lân linh thiêng, kiểm soát linh hồn của khách hành hương; hai con khác châu đầu vào nhau, trong khi một con dường như đang bước đi trong rừng; và một con nữa thì đang vờn với rồng.

Ao sen được thể hiện qua ba cảnh khác nhau trên các trụ đấu Đầu tiên là một ao sen bình thường không có cá Tiếp theo, có hình ảnh một con cá rô đang nhảy lên khỏi mặt nước để đớp lá sen, trong khi cây sen đang xoè cánh và nụ vẫn còn chúm chím Cuối cùng, bức tranh đẹp nhất là ao sen với bông sen nở rộ, rõ nét từng gân lá, bên cạnh là hai bông sen chớm nở, dưới nước có hai con cá rô, một con bơi lững lờ và một con nhô đầu ra ngoài như đang bơi tới.

Đề tài "Cá hóa long" được thể hiện qua hình ảnh cá chép địa phương hóa thành cá rô, với đầu cá biến thành đầu rồng trong khi thân vẫn giữ hình dáng cá Vảy lấp lánh và đuôi vắt lên tạo nên vẻ đẹp độc đáo Nghệ sĩ dân gian đã khéo léo chạm khắc hình cá rô để nhấn mạnh "đặc sản" của vùng đất Trường Yên, nơi có địa hình đông chiêm trũng và nhiều núi đá vôi với nhiều hang động, nổi tiếng với cá rô to và béo, đầu đen bóng.

Ca dao xưa đã ca ngợi: Đi thì nhớ cậu cùng cô Khi ve lại nhớ cá rô tổng Trường

"Cá rô tổng Trường" đã là niềm gợi cảm để người nghệ sỹ dân gian thế hiện đề tài "cá hóa rồng"

Trúc được thể hiện hai lần với đề tài "trúc hóa long" Cây trúc xương gà được nhấn mạnh các đốt phồng to khá đẹp

Các mảng chạm này không chỉ làm tăng vẻ đẹp của đền mà còn mang ý nghĩa sâu sắc gắn liền với truyền thuyết ca ngợi Lê Hoàn Truyền thuyết này đã được ghi lại trên bức hoành phi trước cửa đền, thể hiện giá trị văn hóa và lịch sử của nơi đây.

"Nhất mộng liên hoa sinh Vạn cổ lưu hương Tràng Xuân điện Bán dạ Hoang Long ủng Ức niên di ảnh Đại Vân lảu"

Nhân mơ thấy hoa sen mà sinh ra (Lê Hoàn)

Từ vạn cổ tiếng thơm còn lưu mãi trên điện Trường Xuân

Nửa đêm rông vàng xuất hiện Ngàn năm hình ảnh củ còn lưu lại trên lều Đại Vân)

Truyền thuyết về Lê Hoàn bắt nguồn từ hình ảnh hoa sen mà mẹ ông mơ thấy khi đang cấy bên ao sen Bà đã ủ Lê Hoàn trong khóm trúc hóa rồng và được con hổ chúa rừng xanh ấp ủ Sau khi bà cầu xin, hổ đã rời đi Khi còn nhỏ, Lê Hoàn đứng bên rồng, và lớn lên, ông cưỡi rồng với tư thế hùng dũng trong công cuộc "Kháng Tống, bình Chiêm" Điêu khắc gỗ dân gian Việt Nam cũng như truyền thuyết đều ca ngợi Lê Hoàn, thể hiện điểm sáng trong kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc gỗ của dân tộc.

Các di tích tiêu biểu khác

Núi Mã Yên, nằm phía trước đền vua Đinh, có hình dáng giống như một chiếc yên ngựa khổng lồ Chính vì vậy, núi được đặt tên là Mã Yên Sơn.

Sau khi tham quan đền vua Đinh và đền vua Lê, du khách có thể leo 265 bậc đá để đến lăng vua Đinh trên núi Mã Yên, nơi được cho là có liên quan đến cung điện của kinh đô Hoa Lư Theo sách Đại Việt Sử ký toàn thư, sau khi Đinh Tiên Hoàng qua đời, ông được an táng tại sơn lăng Trường Yên Truyền thuyết cho rằng có 99 quan tài được đưa vào núi, nhưng chỉ có lăng vua Đinh tồn tại trên núi Mã Yên Điều này cho thấy lăng được xây dựng để tôn vinh tinh thần thượng võ của Đinh Tiên Hoàng, người vẫn luôn được hình dung cưỡi ngựa ngay cả khi đã qua đời Du khách muốn đến thăm lăng cần mang trong mình tinh thần thượng võ.

Lăng vua Đinh tọa lạc trên núi Mã Yên, nơi có một tấm bia đá ghi rõ thông tin lịch sử Mặt trước bia ghi: "Đinh Tiên Hoàng đế chi lăng, Minh mệnh nhị thập nhất niên, ngũ nguyệt sơ nhị nhật, phụng sắc kiến", tức là lăng được xây dựng theo chỉ thị vào năm 1840 Mặt sau của bia ghi: "Hàm Nghi nguyên niên, cửu nguyệt, nhị thập tứ nhật trùng tu Tiên đế lăng", chỉ việc trùng tu lăng vào năm 1885 Núi Mã Yên có hình dáng giống chiếc ngai, được gọi là Hoàn Y sơn, và ở giữa là lăng vua Lê, thể hiện quan niệm rằng dù vua Lê đã khuất, ông vẫn ngự trị trên ngai vàng.

Sau khi vua Lê Đại Hành qua đời, triều đình đã an táng ông tại sơn lăng Trường Yên Tương tự như lăng vua Đinh, lăng vua Lê chỉ được xây dựng tại núi Mã Yên và hoàn thành muộn nhất vào thế kỷ XV.

Trên một mỏm đá gần chân núi, có tấm bia đá khắc dòng chữ: "Lê Đại Hành hoàng đế lăng Minh Mệnh nhị thập nhất niên, ngũ nguyệt sơ nhị nhật sắc kiến", ghi lại thông tin về việc xây dựng lăng mộ của Hoàng đế Lê Đại Hành vào ngày 2 tháng 5 năm Minh Mệnh thứ 21 (1840).

Theo quan niệm cổ xưa, lăng vua Đinh và lăng vua Lê tọa lạc tại khu vực được gọi là "Huyệt đế vương", nơi đây chính là nơi an táng hai vị vua Đinh và Lê.

Động Am Tiên nằm bên kia núi Mã Yên, có thể đến đây bằng thuyền từ cầu Hội và đi bộ khoảng 400m Đường lên động quanh co nhưng thú vị, với một quèn nhỏ ở bên ngoài có phủ thờ sơn thần Từ đỉnh quèn, du khách có thể chiêm ngưỡng thung lũng rộng khoảng 10 mẫu, được bao quanh bởi những ngọn núi đá như một bức tường thành thiên nhiên Trên vách đá, những cụm trúc đuôi công đung đưa theo gió, tạo nên khung cảnh tuyệt đẹp, khiến nơi đây được coi là núi thiêng và được gọi là Tiên Am.

Con đường mòn dẫn vào thung lũng núi đá vôi đưa du khách đến động Am Tiên, nơi phải vượt qua 205 bậc đá để cảm nhận không gian tĩnh lặng và thiêng liêng như chốn tiên cảnh Động Am Tiên nằm ở lưng chừng núi, có hình dáng giống miệng một con rồng khổng lồ, còn được gọi là núi Hang Rồng Vòm động tựa như miệng rồng, với "nước giếng trời" chảy theo các nhũ đá rỏ tí tách Nơi đây, những bệ đựng được xây dựng khéo léo để lấy nước tinh khiết phục vụ cho lễ Phật Nhiều nhũ đá mang hình dáng cây tiền, cây thóc, trái Phật thủ, nụ sen hay bầu sứa mẹ, tùy thuộc vào trí tưởng tượng của du khách.

Sau bệ thờ, động thót lại, chỉ bằng miệng thúng, sâu xuống đất người ta gọi là Họng Rồng

Hang Rồng và Am Tiên là những địa điểm tuyệt đẹp, nhưng theo truyền thuyết, nơi đây từng là chốn vua Đinh giam giữ hổ báo để trừng phạt kẻ có tội Vào thời Lý, nhà sư Nguyễn Minh Không, quê ở Đàm Xể (Gia Viễn), đã cải tạo "động quỷ" thành nơi thờ Phật Một tấm bia đá được khắc vào năm Trinh Phủ thứ tư (1179) thời Lý Cao Tông bên vách đá phải của động cho biết trước kia đây là nhà ngục, và nhà sư Đại Quang đã xây dựng chùa tại đây Điều này cho thấy nhà sư Đại Quang có thể chính là Nguyễn Minh Không.

Theo sử cũ, vua Đinh đã sử dụng vạc dầu và nuôi hổ báo để trừng trị tội phạm Mặc dù không rõ hình dáng của vạc dầu thời Đinh, nhưng nơi nuôi hổ báo chắc chắn là động Am Tiên.

Chùa Am Tiên, được xây dựng cách đây gần 900 năm, vẫn được bảo tồn cho đến ngày nay Trong động chùa, có hai tấm bia ghi lại lịch sử tu sửa: bia Đồng Khánh nhị niên (1887) và bia Bao đại thất niên (1932) Quốc sư Nguyễn Minh Không đã có ý định đưa những "linh hồn tội lỗi" lên cõi Phật, và các thế hệ sau đã tiếp tục gìn giữ ngôi chùa cổ này.

2.3.3 Xuyên Thủy động và Liên Hoa động

Cố đô Hoa Lư là một điểm du lịch nổi tiếng với nhiều ngọn núi đá có hình thù độc đáo như núi Con Cá, Con Tôm, Rùa, Hổ và Cột Nơi đây thu hút du khách bởi cảnh quan thiên nhiên kỳ thú và giá trị lịch sử đặc biệt.

Cờ, Phi Vân, Mã Yên, Ngọn Đèn v.v có nhiều hang động đẹp như hang Quàn, hang Muối, hang Tối, động Am Tiên, hang Luồn hay Xuyên Thủy Động

Xuyên Thủy Động là một hang động dài khoảng 140m và rộng 30m, với dòng sông chảy qua núi Vào mùa hè, khi du khách đi thuyền vào Xuyên Thủy Động, họ sẽ cảm nhận được không khí như mùa thu đã đến Trên các vách đá trong động, có bài thơ của Trịnh Sâm mô tả vẻ đẹp của phong cảnh nơi đây.

Tây tuần toàn ích quá Tràng An Tiện dạo Hoa Lư ngụ nhất quan Thất luyện oanh hôi xuyên thủy động Trùng kim ngật nghiệp trữ sơn quan

Cố đô xưa đã trải qua nhiều biến động, nhưng vẻ đẹp của thiên nhiên và kiến trúc vẫn còn nguyên vẹn Những dấu tích lịch sử phản ánh sự hưng thịnh và suy tàn của dân tộc Trong bối cảnh đó, Nhật Nam vẫn giữ vững bản sắc văn hóa và truyền thống của mình.

Thăn Cao Đàm phụng tả

Quay thuyên về đến bến Tràng An Nhác thấy Hoa Lư củng thuận miền Như tấm lụa trăng hang dội nước

Có từng núi mọc cửa tròng then

Cố đô đã trải qua nhiều lần thay đổi, nhưng thiên phủ vẫn giữ nguyên dấu ấn bền vững Sự thịnh suy của các triều đại xưa nay đã rõ ràng, và lòng dân là điều không thể xem nhẹ, đừng bao giờ quên điều đó Nhật Nam là chủ đề chính trong bối cảnh này.

Bề tôi là Cao Đàm, vâng mệnh viết chữ

(Thơ dịch của Đinh Gia Thuyết)

Hội Trường Yên

Hàng năm, vào tháng 3 âm lịch, nhân dân địa phương tổ chức lễ hội truyền thống để tưởng nhớ vua Đinh Tiên Hoàng và hai anh hùng có công với dân tộc Lễ hội này không chỉ nhằm tôn vinh tài đức và công trạng của họ mà còn thể hiện lòng biết ơn của người dân đối với những đóng góp to lớn cho đất nước.

"Ai là con cháu rồng tiên Tháng ba mở hội Thường Yên thì về

Về thăm đền cũ Đinh - Lê Non xanh nước biếc, bốn bề như xưa "

Chuẩn bị cho lễ hội là một yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của sự kiện Khoảng một tháng trước khi lễ hội diễn ra, công tác chuẩn bị bắt đầu, bao gồm việc chọn người luyện tập cho các nghi lễ, chuẩn bị cơ sở vật chất như cổng chào, sân khấu, và làm sạch đền Ngoài ra, việc lựa chọn đội tế cũng được thực hiện Lễ hội cố đô Hoa Lư bao gồm hai phần chính: phần lễ và phần hội.

Lễ rước nước, diễn ra vào ngày 8/3, là một sự kiện long trọng nhằm tưởng nhớ cội nguồn và tôn vinh truyền thống văn hóa Đám rước khởi hành từ đền vua Đinh ra sông Hoàng Long để lấy nước, sử dụng cho việc lau tượng và tế tại đền Hành động này thể hiện nguyện vọng của cư dân nông nghiệp lúa nước về một mùa màng bội thu, với mưa thuận gió hòa Đội hình tham gia lễ rước nước rất đa dạng và trang nghiêm.

Cờ chuối Phường bát âm đi hàng đôi

Kiệu nước Các đoàn quan chức của huyện và tỉnh Các đoàn tế ở trong xã

Các đoàn tế ở nơi khác đến

Trong quá trình rước nước, một con rồng lớn đã xuất hiện, tượng trưng cho con rồng vàng chở Đinh Bộ Lĩnh qua sông Truyền thuyết kể rằng, khi còn nhỏ, Đinh Bộ Lĩnh thường chăn trâu cho chú là Đinh Thúc Dự ở cánh đồng Hoa Lư Một ngày, trong lúc tập trận, Đinh Bộ Lĩnh đã giết trâu của chú để đãi quân và bày trò rằng trâu đã chui xuống đất Khi Đinh Thúc Dự kéo đuôi trâu lên, ông bị ngã và nhận ra mình đã bị Đinh Bộ Lĩnh lừa Bị chú đuổi, Đinh Bộ Lĩnh đã nhanh chóng bơi qua sông Bôi và chạy về phía nam, đến Cấm Khẩu, nơi có bà lão bán hàng câm.

Nên chạy về phía Trường Yên

(Về sau Đinh Bộ Lĩnh gọi chỗ đó là Gián Khẩu để ghi nhớ Bà lão bán hàng câm mà nói được)

Khi chạy đến bến sông Đinh Bộ Lĩnh gọi:

Rồng ơi rồng, chở ta qua sông!

Bỗng có con rồng vàng nổi lên chở Đinh Bộ Lĩnh qua sông Người chú chạy đến nhìn thấy thế vội cắm gươm và cúi lạy cháu "

Lễ rước nước trong lễ hội Đinh – Lê được tổ chức trên bến sông Hoàng Long để tưởng nhớ vua Đinh, phản ánh tầm quan trọng của nước trong nông nghiệp – nguồn sống chính của cộng đồng Hoạt động nông nghiệp chi phối sâu sắc đời sống của người dân, khiến nước trở thành tài nguyên quý giá Nghi lễ cầu nước được hình thành nhằm đảm bảo nguồn nước kịp thời cho mùa vụ, tượng trưng cho ước vọng của người dân về một vụ mùa bội thu, đặc biệt là trong việc cấy trồng lúa nước.

Trong đoàn tế, mọi người đều mặc trang phục đồng nhất với quần trắng, áo the, khăn chụp, và thắt lưng màu xanh và đỏ Những người cầm cờ đội nón, đi sau là một cụ già uy tín trong làng Đoàn khiêng kiệu thường gồm 8 cô thanh nữ chưa chồng, trên kiệu có bài vị, ngai thờ, choé thần đựng nước, gáo thần múc nước, hoa quả và bánh trưng Bánh trưng không chỉ là món ăn truyền thống mà còn biểu trưng cho những thành quả đạt được sau mỗi vụ mùa bội thu.

Lễ rước nước tại sông Hoàng Long là nghi thức quan trọng nhất trong phần lễ, được tổ chức một cách trang trọng và chu đáo Những người tham gia đều cảm thấy hào hứng và vui vẻ, vì họ được góp mặt trong đoàn rước nước của ngày hội lớn tại quê hương.

Lễ Tế là một nghi lễ quan trọng, đòi hỏi sự chuẩn bị chu đáo với đội tế gồm những người cao tuổi, nam giới, có đạo đức và uy tín trong làng Sự lựa chọn khắt khe này không chỉ góp phần giáo dục nhân cách mà còn gìn giữ truyền thống và tính thiêng liêng của lễ hội cổ truyền Trong lễ tế, mâm cỗ phải được bày biện đẹp mắt với bánh chưng, hoa quả, và mâm sôi thịt trắng, tượng trưng cho sự trong trắng và lòng trung thành Đặc biệt, trên mâm lễ thường có một con trâu nhỏ làm bằng rơm, bên cạnh là một em bé cầm cành lau, thể hiện hình ảnh Đinh Bộ Lĩnh thời thơ ấu cưỡi trâu tập trận tại động Hoa Lư.

Trong mỗi một lễ hội thường có sự kiêng huý khác nhau, theo sử sách ghi lại rằng:

Đinh Bộ Hoàng, vua Đinh, từng rất thích lòng lợn và tiết canh Nhân cơ hội này, Đỗ Thích, người hầu cận trong cung, đã bỏ thuốc độc vào món ăn này và dâng cho vua Kết quả là, cả vua Đinh và con trai Đinh Liễn đều bị trúng độc khi thưởng thức lòng lợn trong khi uống rượu tại sân Triều Do đó, trong các nghi lễ tế vua Đinh, người ta kiêng kỵ lòng lợn và tiết canh, vì đây chính là món ăn đã dẫn đến cái chết của vua.

Nghi thức Tế lễ bắt đầu với đoàn tế lễ trong xã, bao gồm các hoạt động như tế tiệc, tế nghi thức và tế cửu khúc Trong đó, tế cửu khúc là 9 khúc ca trù ca ngợi thời kỳ thái bình thịnh trị dưới triều Đinh, ca ngợi vua Đinh xưng đế và việc đặt tên nước là "Đại Cồ".

Với niên hiệu "Thái Bình", Việt Nam đã nâng tầm kinh đô Hoa Lư, khẳng định vị thế ngang hàng với các triều đại phương Bắc, tạo nền tảng cho các triều đại Lê, Lý, Trần tiếp nối sau này.

Phần hội diễn ra vui vẻ với các trò chơi dân gian truyền thống, nổi bật là trò "cờ lau tập trận" Sự kiện này thường được tổ chức trên sân bãi rộng trước hai ngôi đền, mang đến không khí lễ hội sôi động và đậm đà bản sắc văn hóa cổ xưa.

Trò chơi "cờ lau tập trận" tái hiện hình ảnh vua Đinh thời thơ ấu khi chăn trâu cho chú Đinh Thúc Dự tại cánh đồng Động Hoa Lư Vua Đinh đã tập hợp khoảng 60 em học sinh từ 14 đến 16 tuổi, chia thành hai đội quân với trang phục khác nhau và gậy cầm bông lau Mỗi đội có một tướng chỉ huy, trong đó tướng đóng vai vua Đinh mang dáng vẻ khôi ngô, mặc áo đỏ sọc và đội mũ rơm, tay cầm cờ hiệu bông lau Hai đội quân hát múa đối đáp thể hiện tinh thần của Đinh Bộ Lĩnh, kèm theo nhạc cụ như chiêng trống và thanh la Hội Đinh Lê cũng tổ chức lớn với 100 em thiếu nhi, dàn quân tập trận cùng với ba con trâu bằng khung tre, tạo nên không khí vui tươi và ý nghĩa văn hóa.

Trò chơi "xếp chữ Thái Bình" mang ý nghĩa tưởng nhớ ước vọng của vua Đinh, thường được tổ chức với sự tham gia của 12 em thiếu niên từ 12-13 tuổi Các em mặc trang phục truyền thống, gồm áo tứ thân màu xanh lá cây, quần hồng và thắt lưng đỏ, cầm cờ và xếp chữ từ trái sang phải Hàng thứ nhất xếp chữ "Thái" và hàng thứ hai xếp chữ "Bình" Khi hoàn thành, cả đội ngồi xuống theo nhịp trống, hạ cờ để làm nổi bật hai chữ "Thái Bình", kèm theo tiếng hát vang lên, tạo nên không khí trang trọng và ấn tượng cho người xem.

"Thái Bình đã kéo xong hai chữ Chúc toàn dân hai chữ bình an Hội Trường yên các các hồi ban Mừng già trẻ Trường An hội lạc "

Trong những ngày hội ở Trường Yên, có nhiều trò vui chơi hấp dẫn như múa rồng, thi vật cổ truyền, mưa võ và đánh cờ người Một số năm, hội còn tổ chức thi thổi cơm giữa các cô gái trong làng, với sự chuẩn bị củi, nước, gạo và nồi niêu Các cô gái khéo tay sẽ sử dụng cây lau tươi để thổi cơm, và cô nào thổi nhanh, cơm chín thơm ngon sẽ giành được giải thưởng.

Thực trạng hoạt động du lịch tại Đền các vua Đinh, Lê

3.1.1 Về công tác tổ chức, quản lý nhà nước để phát triển du lịch tại di tích lịch sử, văn hóa đền các vua Đinh, Lê

Chính sách của chính quyền đóng vai trò then chốt trong việc phát triển du lịch và thu hút khách du lịch Bộ máy quản lý quyết định các hoạt động của cộng đồng, ảnh hưởng trực tiếp đến ngành du lịch Dù một quốc gia hay địa phương có tài nguyên du lịch phong phú và mức sống cao, nếu chính quyền địa phương không hỗ trợ phát triển du lịch, thì hoạt động này sẽ khó lòng phát triển.

Công tác quản lý nhà nước về du lịch nhằm tạo sự thống nhất và khoa học trong phát triển, đồng thời xây dựng hành lang pháp lý và điều kiện thuận lợi để huy động mọi nguồn lực xã hội cho ngành du lịch Tại Ninh Bình, du lịch được xác định là ngành kinh tế động lực, được chính quyền địa phương quan tâm sâu sắc Trong chiến lược phát triển tỉnh, du lịch giữ vị trí quan trọng, với sự chú trọng đến các loại hình du lịch dựa trên tài nguyên phong phú Tỉnh tập trung đầu tư vào các điểm du lịch tiềm năng như Cố đô Hoa Lư, di tích lịch sử văn hóa đền các vua Đinh, Lê, vườn quốc gia Cúc Phương và Tam Cốc Bích Động, từ đó kết hợp phát triển các điểm du lịch khác.

Tỉnh đã thiết lập quy chế quản lý tài nguyên du lịch và quy chế quản lý tại khu du lịch, nhằm củng cố và phát triển mô hình quản lý phù hợp tại khu di tích Đồng thời, tỉnh hướng dẫn bổ sung và xây dựng các hương ước, quy ước ở khu dân cư để tham gia tích cực vào hoạt động du lịch và bảo vệ môi trường du lịch.

Ban quản lý khu di tích lịch sử, văn hóa đền các vua Đinh, Lê được tổ chức chặt chẽ với 1 trưởng ban, 2 phó trưởng ban và 5 tổ chức chức năng chuyên trách Đội ngũ này có nhiệm vụ duy trì hoạt động của ban, bảo đảm an ninh trật tự và xử lý các vấn đề phát sinh tại khu di tích.

Trong thời gian gần đây, ban quản lý khu di tích lịch sử văn hóa đền các vua Đinh, Lê đã tích cực giám sát và đề xuất các biện pháp quản lý kinh doanh du lịch trong khu vực Tuy nhiên, tình trạng chèo kéo khách và bán hàng không đúng quy định vẫn diễn ra thường xuyên Để cải thiện tình hình, ban quản lý đã tổ chức các buổi họp với người dân địa phương nhằm nâng cao ý thức phục vụ khách du lịch và khuyến khích việc bán hàng đúng nơi quy định, từ đó giảm thiểu tình trạng chèo kéo và tranh giành khách, góp phần tạo dựng môi trường an ninh và thân thiện cho du khách, đặc biệt là khách quốc tế.

Di tích lịch sử và văn hóa của đền các vua Đinh, Lê cùng với Cố đô Hoa Lư mang giá trị quan trọng trong việc giáo dục thế hệ trẻ về lịch sử dân tộc Để bảo vệ khu di tích và phát triển du lịch văn hóa, tỉnh Ninh Bình đã phối hợp với sở văn hóa thể thao và du lịch lập hồ sơ đề nghị đưa Cố đô Hoa Lư vào danh sách Di sản Thế giới, nhằm thúc đẩy du lịch tại đây.

Ban quản lý đã áp dụng chính sách ưu đãi giá vé cho học sinh cấp 1 và cấp 2 khi tham quan, nhưng chưa có chương trình giảm giá cho học sinh cấp 3 và sinh viên đến nghiên cứu và tìm hiểu giá trị của khu di tích.

Ban quản lý khu di tích áp dụng chế độ đãi ngộ cho các doanh nghiệp lữ hành, bao gồm việc giảm giá vé tham quan cho khách du lịch và hợp tác phát triển du lịch một cách toàn diện.

Ninh Bình đã triển khai chính sách đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý tại di tích đền các vua Đinh, Lê nhằm nâng cao chuyên môn phục vụ nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch, góp phần phát triển du lịch văn hóa Tuy nhiên, trong bối cảnh lượng khách tham quan đông đảo, đặc biệt vào cuối tuần, đội ngũ nhân viên phải làm việc liên tục mà chưa được hưởng các chính sách đãi ngộ khuyến khích tinh thần làm việc.

Sở du lịch đang tăng cường thanh tra và xử lý nghiêm các vi phạm trong hoạt động du lịch, nhằm ngăn chặn tệ nạn xã hội và bảo vệ thuần phong mỹ tục Đồng thời, sở cũng tích cực tuyên truyền và giáo dục cộng đồng, đặc biệt là cư dân tham gia hoạt động du lịch, về văn hóa giao tiếp và thái độ thân thiện với du khách, qua đó góp phần gìn giữ môi trường du lịch.

Cố đô Hoa Lư, nằm gần các khu du lịch nổi bật như Tràng An và chùa Bái Đính, là điểm dừng chân lý tưởng cho du khách từ Hà Nội đến Ninh Bình Với vị trí thuận lợi, Hoa Lư thu hút lượng lớn khách tham quan, góp phần làm phong phú thêm trải nghiệm khám phá di tích lịch sử văn hóa của vùng đất này.

Chiến lược quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm

2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đã xác định đền vua Đinh, vua Lê

Cố đô Hoa Lư là một bộ phận quan trọng của di sản văn hóa, đóng vai trò là điểm đến nổi bật trong hệ thống khu du lịch quốc gia Việc phát triển du lịch văn hóa tại đây không chỉ mang lại lợi ích cho du lịch Ninh Bình mà còn góp phần vào sự phát triển du lịch của Hà Nội và các khu vực lân cận, vốn là một trong bảy khu vực trọng điểm của cả nước Đặc biệt, du lịch Cố đô Hoa Lư có mối liên hệ chặt chẽ với du lịch thủ đô thông qua việc phát triển "trục" lịch sử kết nối Cố đô Hoa Lư, Thăng Long và Hà Nội.

Cố đô Hoa Lư, một di sản văn hóa lịch sử quan trọng, thu hút du khách trong và ngoài nước nhờ vào giá trị lịch sử của nó Du lịch văn hóa tại đây không bị ảnh hưởng nhiều bởi mùa vụ, tuy nhiên, mùa xuân vẫn là thời điểm lý tưởng để khách nội địa khám phá và tìm về cội nguồn văn hóa dân tộc.

Cố đô Hoa Lư thu hút đông đảo du khách đến chiêm bái và cầu mong sức khỏe cho năm mới, chủ yếu từ Hà Nội và các tỉnh lân cận như Quảng Ninh, Nam Định, Hải Phòng, Hải Dương Theo khảo sát, chỉ 11% du khách là người Ninh Bình, trong khi 89% còn lại đến từ các vùng khác, với 85% mục đích tham quan, du lịch và lễ hội đầu năm Hầu hết du khách chỉ đến Cố đô Hoa Lư một lần trong năm (68%), trong khi 23% đến hai lần và chỉ 9% ghé thăm ba lần trở lên Số lượng khách du lịch nội địa đã tăng từ 811.971 lượt năm 2006 lên 2.615.255 lượt vào năm 2010, với mức tăng trưởng trung bình hàng năm đạt 33,64% Du khách chủ yếu tham quan các điểm như Cố đô Hoa Lư, khu du lịch sinh thái Tràng An và Bái Đính.

Bảng báo cáo kết quả hoạt động du lịch tỉnh Ninh Bình

Nguồn: Sở văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh Ninh Bình

Ninh Bình thu hút một lượng lớn khách du lịch quốc tế, đặc biệt là khu di tích lịch sử văn hóa Cố đô Hoa Lư, nơi du khách đến tham quan và nghiên cứu các công trình kiến trúc của vua Đinh và vua Lê cùng những di tích khảo cổ Trong giai đoạn 2003 - 2005, khách du lịch chủ yếu đến từ Đông Âu như Pháp, Đức, và Australia chiếm 70%, trong khi khách từ châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc có sự gia tăng đột biến, trong khi lượng khách Đông Âu có xu hướng giảm.

Một số giải pháp nhằm khai thác giá trị di tích lịch sử, văn hoá đền các

3.2.1 Nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch

Du lịch Ninh Bình đang phát triển nhanh chóng, trở thành ngành kinh tế quan trọng, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và giải quyết việc làm cho người lao động Sự phát triển này không chỉ cải thiện đời sống nhân dân mà còn mở rộng các mối quan hệ hợp tác của tỉnh, làm thay đổi hình ảnh Ninh Bình trong mắt bạn bè quốc tế Để đáp ứng nhu cầu du lịch ngày càng tăng, việc đầu tư và phát triển cơ sở hạ tầng là rất cần thiết, đòi hỏi sự quan tâm từ các cấp chính quyền.

Để phát triển dịch vụ vận tải, cần chú trọng đầu tư hạ tầng giao thông bao gồm đường bộ, đường thủy và hàng không Huyện Hoa Lư nên khuyến khích doanh nghiệp tham gia lữ hành và vận chuyển hành khách, đồng thời phối hợp với tỉnh Ninh Bình để nâng cấp các tuyến đường phục vụ du lịch Đặc biệt, tuyến quốc lộ 1A từ Dán Khẩu đến thành phố Ninh Bình hiện đang xuống cấp, cần có chính sách cải tạo để phục vụ tốt hơn cho du lịch và nhu cầu di chuyển của người dân Ngoài ra, việc xây dựng bến thuyền tại Sông Sào Khê để kết nối khu du lịch sinh thái Tràng An với các điểm di tích cũng là rất cần thiết nhằm thu hút du khách đến thăm Cố đô bằng đường thủy.

Để khắc phục những hạn chế trong vận chuyển, cần áp dụng các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải Việc khuyến khích và tạo điều kiện cho các chủ phương tiện thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư đổi mới phương tiện và liên doanh, liên kết là rất quan trọng để mở rộng sản xuất kinh doanh Nâng cao chất lượng vận tải không chỉ đáp ứng nhu cầu phục vụ du lịch mà còn là động lực thúc đẩy sự phát triển của ngành vận tải.

Sự gia tăng lượng khách du lịch đến di tích đền các vua Đinh, Lê yêu cầu cần có sự đầu tư hợp lý vào hệ thống bến đỗ xe Ban quản lý di tích cần phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương để xây dựng các bến bãi đỗ xe, nhằm tránh tình trạng để xe máy trước khu vực đền gây mất mỹ quan Đồng thời, cần đầu tư nâng cấp hệ thống điện nước tại các khách sạn và nhà hàng để đáp ứng nhu cầu của du khách, đặc biệt trong dịp lễ hội.

Hệ thống tài chính ngân hàng tại khu di tích còn thiếu trạm rút tiền, do đó, cần có sự phối hợp giữa ban quản lý và chính quyền địa phương với dịch vụ ngân hàng để thiết lập các trạm rút tiền, nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu của du khách và thúc đẩy hoạt động du lịch Ngoài ra, cần đầu tư vào dịch vụ y tế bằng cách xây dựng trạm y tế gần khu di tích để phục vụ du khách, đặc biệt khi họ phải di chuyển xa, dễ gặp phải tình trạng say xe hay hạ huyết áp.

3.2.2 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

Ngành du lịch, giống như các lĩnh vực kinh tế khác, phụ thuộc vào con người và trình độ nghiệp vụ, là yếu tố then chốt cho sự phát triển Sự giao tiếp trực tiếp với khách hàng yêu cầu nhân viên, đặc biệt là hướng dẫn viên và lễ tân, có trình độ chuyên môn và thái độ tốt Tại Việt Nam và Ninh Bình, sự phát triển du lịch gặp khó khăn do đội ngũ cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu Tuy nhiên, với xu hướng hội nhập quốc tế, cần nâng cao trình độ nghiệp vụ để đạt chuẩn mực quốc gia và quốc tế Để đáp ứng nhu cầu này, Ninh Bình cần triển khai chương trình đào tạo toàn diện nhằm cải thiện kiến thức và kỹ năng cho nhân viên trong ngành du lịch, góp phần vào sự hội nhập của đất nước.

Tiến hành điều tra trình độ nghiệp vụ của cán bộ nhân viên tại ban quản lý khu di tích đền các vua Đinh, Lê và lao động trong ngành du lịch gần khu vực này Kết quả điều tra sẽ giúp xây dựng các chương trình đào tạo phù hợp với trình độ chuyên ngành, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển du lịch địa phương.

Cần thiết phải triển khai các chương trình đào tạo nâng cao kiến thức về tin học và ngoại ngữ cho đội ngũ cán bộ nhân viên tại ban quản lý khu di tích, đặc biệt là đội ngũ thuyết minh Điều này sẽ giúp thu hút đông đảo khách du lịch quốc tế đến tham quan và tìm hiểu Hơn nữa, cần bổ sung kiến thức sâu sắc về phân tích các công trình kiến trúc tại khu di tích, nhằm tránh việc thuyết minh mang tính lịch sử quá nặng nề, gây cảm giác nhàm chán cho du khách.

Để tạo ấn tượng tốt với du khách, cần nâng cao trình độ tay nghề cho đội ngũ lao động trong ngành khách sạn và nhà hàng Việc trang bị các kỹ năng chuyên nghiệp cho nhân viên không chỉ giúp phục vụ khách du lịch hiệu quả mà còn góp phần xây dựng hình ảnh đẹp về con người và mảnh đất Cố đô.

Tăng cường hợp tác và trao đổi kinh nghiệm thông qua các chuyến công tác, khảo sát, cùng tham gia hội nghị và hội thảo khoa học tại các điểm du lịch trên toàn tỉnh.

Cần tiếp tục nâng cao kiến thức về du lịch cộng đồng và ý thức du lịch cho người dân địa phương thông qua các hình thức như tổ chức lớp tập huấn, tọa đàm, và chương trình truyền thông trực tiếp qua hệ thống phát thanh địa phương Việc này nhằm tạo ra sự đồng thuận và nhận thức chung về hoạt động du lịch Ban quản lý khu di tích và chính quyền địa phương cần xem việc nâng cao nhận thức về phát triển du lịch bền vững là một nhiệm vụ thường xuyên và liên tục.

Các cấp chính quyền tỉnh Ninh Bình cần xây dựng chính sách đãi ngộ và phúc lợi hợp lý để nâng cao chất lượng cuộc sống cho cán bộ nhân viên ngành du lịch, tạo ra môi trường làm việc thoải mái và khuyến khích sự phát triển năng lực của họ thông qua các biện pháp khen thưởng thích hợp Đối với sinh viên mới ra trường, ngành du lịch Ninh Bình cần thiết lập các chương trình thu hút những tài năng xuất sắc với chế độ đãi ngộ hợp lý nhằm khuyến khích lao động địa phương tham gia.

Tỉnh Ninh Bình cần duy trì và cải thiện quy trình thi công chức trong ngành du lịch để tránh tình trạng quan liêu và bất công Việc sa thải những cán bộ tha hóa về phẩm chất và đạo đức là cần thiết để bảo vệ lợi ích cộng đồng Nguồn nhân lực đóng vai trò quyết định trong sự phát triển của du lịch, vì con người là yếu tố chủ chốt trong hoạt động này Đây là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy du lịch Ninh Bình phát triển bền vững, hướng tới việc trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.

3.2.3 Thúc đẩy dịch vụ du lịch ở di tích lịch sử, văn hoá đền Đinh- Lê cũng như ở Cố đô Hoa Lư

Cơ sở vật chất kỹ thuật

Du lịch là một hoạt động đa dạng, với nhu cầu phong phú từ khách du lịch Để đáp ứng tốt nhất nhu cầu này, các nhà kinh doanh dịch vụ du lịch cần nghiên cứu các yếu tố như tuổi tác, nghề nghiệp và khả năng tài chính của từng nhóm khách hàng Điều này giúp họ tạo ra những sản phẩm phù hợp Do đó, khách sạn cần cung cấp nhiều loại phòng khác nhau và đa dạng hóa các dịch vụ giải trí, đồng thời bổ sung các dịch vụ để tăng tính hấp dẫn và độc đáo cho sản phẩm du lịch.

Mỗi doanh nghiệp cần xây dựng phong cách riêng biệt qua sản phẩm và dịch vụ nhằm thu hút du khách Việc tạo ra các sản phẩm du lịch đặc trưng như cách bài trí phòng ngủ, món ăn đặc sản, phong cách phục vụ và trang phục nhân viên là rất quan trọng Đặc biệt, cần khôi phục và phát triển các món ăn truyền thống của Ninh Bình như thịt dê, cơm cháy, cá rô Tổng Trường và các món ăn cung đình tại Cố đô Hoa Lư Đồng thời, cần có kế hoạch cụ thể để bảo tồn và phát triển đàn dê bản địa, tạo nguồn thực phẩm đặc trưng phục vụ du khách.

KẾT LUẬN

Di tích lịch sử và văn hóa đền các vua Đinh, Lê với kiến trúc nghệ thuật độc đáo trên nền cung điện xưa thu hút đông đảo du khách, đặc biệt là du khách quốc tế Nơi đây không chỉ nổi bật với những tác phẩm chạm khắc đá tinh xảo và kiến trúc gỗ tài hoa của thợ Hoa Lư, mà còn thể hiện truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc Đền còn lưu giữ nhiều truyền thuyết lịch sử về các nhân vật quan trọng thời Đinh - Tiền Lê, hấp dẫn học sinh, sinh viên nghiên cứu về nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên của Việt Nam với 3 triều đại và 6 đời vua.

Gần đây, các di vật được phát hiện từ khai quật Cố đô Hoa Lư đã cho thấy sự phát triển vượt bậc về kiến trúc, nghệ thuật, kinh tế, văn hóa và xã hội của dân tộc Việt Nam trong thời kỳ đó Những tư liệu quý giá như văn bia, câu đối, đại tự và các di vật tại đình, đền, chùa, phủ từ sau thế kỷ X đã được phát hiện, phản ánh lịch sử và truyền thống dựng nước, giữ nước của tổ tiên ta.

Cố đô Hoa Lư, đặc biệt là di tích lịch sử văn hóa đền Đinh-Lê, là nơi thu hút nhân dân thập phương về chiêm bái và cầu an trong những ngày đầu xuân Nằm trên tuyến đường vào khu du lịch sinh thái Tràng An và chùa Bái Đính, di tích này tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển du lịch văn hóa Đền các vua Đinh, Lê có thể được kết nối trong tuyến du lịch tổng hợp: Tràng An - Cố đô Hoa Lư - Bái Đính, trong khi chùa Bái Đính, ngôi chùa lớn nhất Đông Nam Á, đang thu hút đông đảo du khách từ khắp nơi.

Ngày đăng: 16/09/2021, 17:50

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
2. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí T3 Phan Trọng Điềm phiên dịch, Đào Duy Anh Hiệu đính, NXB khoa học xã hội Hà Nội 1971 Khác
3. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, bản dịch NXB Sử học Hà Nội 1961 Khác
4.Mạc Kính Dương: Thắng cảnh Ninh Bình TI Sở văn hóa thông tin Ninh Bình xuất bản 1964 Khác
5. Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt lịch sử ngoại giao và tôn giáo thời Lý, NXB Hà Nội (in lần thứ hai) 1996 Khác
6. Ngô Sỹ Liên: Đại Việt sử ký toàn thư (Toàn thư) bản dịch lần thứ hai, có sửa chữa, NXB khoa học xã hội Hà Nội 1972 Khác
7. Phan Huy Lê - Trần Quốc Vượng - Hà Văn Tấn - Lương Ninh: Lịch sử Việt Nam TI NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp Hà Nội 1983 Khác
8. Nguyễn Danh Phiệt: Nhà Đinh dẹp loạn và dựng nước NXB khoa học xã hội - Hà Nội 1990 Khác
9. Trương Hữu Quýnh - Nguyễn Đức Nghinh: Lịch sử Việt Nam Q1 , T2 NXF Giáo dục - Hà Nội 1977 Khác
10. Nguyễn Trãi: Dư địa chí, Phan Huy Tiệp dịch Hà Vãn Tấn hiệu đính và chú thích NXB Sử học Hà Nội 1960 Khác
11. Việt sử lược: Trần Quốc Vượng phiên dịch và chú giải, NXB văn sử địa Hà Nội 1960 Khác
12. Quốc sử quán triều Nguyễn: Việt sử thông giám cương mục (cương mục) bản dịch T3-NXB Văn sử địa Hà Nội 1957 Khác
13. Nhiều tác giả: Lê Hoàn và 1000 năm thắng quân Tống Xâm lược, Sở văn hoá thông tin Thanh Hóa xuất bản 1985 Khác
14. Nhiều tác giả:Thắng cảnh Ninh Bình T1 Sở văn hóa thông tin và thể thao Ninh Bình 1993 Khác
15.Đại Việt sử ký tiền biên - NXB khoa học xã Hội Hà Nội 1997 Khác
16. Các Tạp chí: Nghiên cứu lịch sử, khảo cổ học, văn hóa nghệ thuật, Thông báo khảo cổ học hàng năm Khác
17. Các báo cáo khai quật khảo cổ và hồ sơ các di tích lịch sử văn hóa ở Bảo tàng Ninh Bình, Bảo tàng Nam Định và Bảo tàng Hà Nam Khác
18. Nhiều tác giả: Thế kỷ X - những vấn đề lịch sử NXB khoa học xã hội Hà Nội 1984 Khác
19. Nhiều tác giả: Lịch sử phật giáo Việt Nam NXB Khoa học xã hội - Hà Nội 1988 Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng kết quả hoạt động du lịch tại Cố đụ Hoa Lư - Khai thác giá trị di tích lịch sử văn hóa đền các vua đinh, lê trong hoạt động du lịch ở tỉnh ninh bình
Bảng k ết quả hoạt động du lịch tại Cố đụ Hoa Lư (Trang 59)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w