ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Các loài cây thuốc và các bài thuốc dân gian của đồng bào dân tộc Thái xã Thạch Giám – Huyện Tương Dương – Tỉnh Nghệ An.
Mục tiêu
- Tìm hiểu độ đa dạng của cây thuốc về thành phần loài, môi trường sống, mức độ gặp và bộ phận sử dụng
- Tìm hiểu thực trạng khai thác các loài cây thuốc hiện nay ở xã Thạch Giám và đề xuất các biện pháp bảo tồn đa dạng thành phần loài
- Tổng hợp các bài thuốc dân gian chữa các nhóm bệnh khác nhau của đồng bào dân tộc Thái ở xã Thạch Giám.
Địa điểm nghiên cứu và thời gian nghiên cứu
Tại xã Thạch Giám, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An, mẫu vật đã được xử lý, phân tích và định loại Các mẫu vật này được lưu trữ tại phòng thí nghiệm bộ môn Thực vật học thuộc khoa Sinh học, trường Đại học Vinh.
- Lập đề cương nghiên cứu
- Đọc tài liệu và viết tổng quan đề tài
* Từ tháng 3/2012 đến tháng 4/2012: Xử lý số liệu và hoàn thành luận văn.
Phương pháp nghiên cứu
2.4.1 Phương pháp điều tra thực địa
2.4.1.1 Phương pháp phỏng vấn và thu thập mẫu vật
Phỏng vấn các ông lang, bà mế và lương y trong cộng đồng dân tộc tại khu vực nghiên cứu là cách hiệu quả để thu thập thông tin quý giá về các loại cây thuốc mà người dân bản địa sử dụng.
Bài thuốc dân tộc được thu thập từ các cộng đồng địa phương, trong đó mỗi cây thuốc và bài thuốc đều được ghi chép chi tiết về tên dân tộc, địa điểm điều tra, phương pháp pha chế, công dụng và liều lượng sử dụng.
Mỗi loài cây được thu thập sẽ được cho vào cặp mắt cáo ép báo và được gắn nhãn Nhãn sẽ chứa đầy đủ thông tin như thời gian và địa điểm thu mẫu, môi trường sống cũng như đặc điểm của mẫu vật.
Mẫu các loài cây được thu hái và xử lý theo các phương pháp:
- Phương pháp điều tra cây thuốc và vị thuốc theo tài liệu “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” của Đỗ Tất Lợi (1995) [34]
- Quy trình điều tra dược liệu qua “Sổ tay thuốc nam thường dùng ở cơ sở” của Bộ y tế (1973) [6]
- Phương pháp điều tra thực vật theo “Cẩm nang nghiên cứu đa dạng thực vật” của Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) [44]
- Phương pháp làm tiêu bản thực vật theo “Kĩ thuật thu hái mẫu vật làm tiêu bản cây cỏ” của Nguyễn Văn Dưỡng – Trần Hợp (1971)
Mỗi mẫu cây được thu thập từ 3-5 mẫu, được gắn nhãn và đặt vào tờ báo gấp bốn lần, sau đó kẹp vào cặp mắt cáo kích thước 29x41cm Mỗi cặp chứa khoảng 20-30 mẫu, phía ngoài lót một lớp báo Khi ép mẫu, cần chú ý đảm bảo có cả lá sấp và lá ngửa, phơi ngoài nắng hoặc sấy khô ở nhiệt độ thích hợp, và cuối cùng, xử lý chống mối mọt cho mẫu vật.
- Phương pháp giám định nhanh họ và chi ngoài thiên nhiên theo tài liệu
“Cẩm nang nghiên cứu đa dạng sinh vật”, của Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) [44]
2.4.2 Phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm
2.4.2.1 Xác định tên khoa học
Xác định tên khoa học các loài dựa vào tài liệu: Cây cỏ Việt Nam của Phạm
Hoàng Hộ, 3 tập (1991-1993) [25] Từ điển cây thuốc Việt Nam, của Võ Văn
Chỉnh lý tên khoa học
Mẫu được định loại, chỉnh lý tên khoa học dựa trên các tài liệu sau:
* Võ Văn Chi: “Sách tra cứu tên cây cỏ Việt Nam” năm 2007 [15]
Sau khi đã định loại các loài cây thuốc được sắp xếp vào các họ và các chi theo R.K.Brummit (1992)
Trật tự các cột danh mục được sắp xếp theo thứ tự: số thứ tự, tên khoa học, tên dân tộc, tên phổ thông, dạng thân, bộ phận sử dụng, nơi mọc, nơi gặp, mức độ gặp, công dụng và cách dùng.
2.4.2.3 Đánh giá tính đa dạng sinh học của cây thuốc
Theo Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) trong “Cẩm nang nghiên cứu đa dạng sinh vật”, các đặc điểm sinh thái thường gặp bao gồm rừng nguyên sinh, rừng thưa, ven rừng, đồi, nương rẫy, ven đường đi, khe suối và trong vườn nhà.
* Đánh giá về các loài khan hiếm có nguy cơ bị tuyệt chủng
- Dựa vào thực tế điều tra, phỏng vấn, thu mẫu
- Dựa vào “Sách đỏ Việt Nam” (tập 2 – phần thực vật), 2007 [5]
* Đa dạng chữa trị các nhóm bệnh
Việc phân loại các cây thuốc và bài thuốc chữa trị theo các nhóm bệnh dựa vào tài liệu của Đỗ Tất Lợi (2003) [34]
* Đa dạng về cách bào chế và chữa bệnh
Bài viết này dựa trên tài liệu “Từ điển cây thuốc Việt Nam” của Võ Văn Chi (2003) và “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” của Đỗ Tất Lợi (2003) để hướng dẫn cách bào chế và sử dụng các loại cây thuốc Những thông tin này cung cấp kiến thức quý giá về cách áp dụng cây thuốc trong y học cổ truyền Việt Nam.
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
Điều kiện tự nhiên
Tương Dương là huyện miền núi cao nằm ở phía Tây Nam tỉnh Nghệ An, cách thành phố Vinh khoảng 200 km và cửa khẩu Nậm Cắn 90 km Khu vực này có quốc lộ 7A và sông Lam chảy qua, tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông và phát triển kinh tế.
Tương Dương có đường biên giới dài 58 km tiếp giáp với nước Lào, nằm ở phía Bắc và Tây Bắc giáp với các huyện Quế Phong, Quỳ Châu và Quỳ Hợp Phía Nam và Tây Nam của Tương Dương giáp Lào, trong khi phía Đông và Đông Nam tiếp giáp với huyện Con Cuông, và phía Tây giáp với huyện Kỳ Sơn.
Như vậy, Tương Dương nằm ở kinh độ 104 0 3 ’ đến 104 0 55 ’ về phía Đông và từ 18 0 58 ’ đến 19 0 59 ’ vĩ độ Bắc
+ Diện tích đất nông nghiệp: 7.996,540 ha
+ Diện tích đất lâm nghiệp: 155.746 ha
+ Diện tích đất chưa khai thác: 113.396 ha
3.1.2 Địa hình địa mạo Địa hình Tương Dương khá phức tạp, hiểm trở, bị chia cắt bởi sông Lam thành hai vùng tả ngạn và hữu ngạn, thấp dần theo hướng Tây Bắc Toàn bộ Tương Dương nằm trong vùng địa hình có độ cao trung bình 65-70m so với mực nước biển Vùng hữu ngạn cao dốc, hiểm trở, có nhiều núi cao tạo thành một dãy hoặc một đỉnh riêng biệt nằm ngay trên biên giới Việt Lào Độ cao trung bình 600-700m, đỉnh cao nhất trên 1.700m, độ dốc chủ yếu là 35 0 và trên 35 0 Vùng tả ngạn sông Lam địa hình ít phức tạp hơn, độ cao trung bình là 500m, đỉnh cao nhất 1.100m, độ dốc trung bình 25 0 -30 0 Nơi đây núi đồi bị chia cắt mạnh bởi các khe suối dày đặc và độ dốc lớn Tiếp cận sông là các khu thung lũng nhỏ hoặc các khu đất bằng phẳng được nông dân trồng trọt thâm canh
Khí hậu ở Tương Dương, Nghệ An, đặc trưng bởi sự thay đổi thời tiết mạnh mẽ và đột ngột do ảnh hưởng của lam sơn chướng khí Điều này dẫn đến cuộc sống của người dân nơi đây gặp nhiều khó khăn, với chất lượng cuộc sống thấp và trình độ dân trí chưa cao.
Khí hậu nơi đây có đặc điểm gió mùa, nóng ẩm, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ gió Lào Tây Nam khô nóng và gió lạnh ẩm Đông Bắc Điều này đã tạo ra một vùng vi sinh thái đa dạng và không đồng nhất, với hai mùa rõ rệt.
Mùa hạ kéo dài từ cuối tháng 4 đến đầu tháng 10, với thời tiết mưa nắng biến đổi theo đặc điểm khí hậu Trong giai đoạn này, gió Tây Nam thường mạnh nhất vào tháng 8 và tháng 9, gây ra tình trạng khô nóng.
- Mùa đông: Từ đầu tháng 11 đến cuối tháng 3 năm sau Mùa này thường có gió mùa đông Bắc, mưa phùn, hanh và sương muối gây cảm giác giá lạnh
Nhiệt độ bình quân hàng năm ở Tương Dương đạt 20°C, với mức cao nhất là 42,7°C và thấp nhất là 3,1°C Tháng nóng nhất là tháng 5 và tháng 6, trong khi tháng lạnh nhất là tháng 12 và tháng 1 Sự chênh lệch nhiệt độ giữa các tháng khá rõ rệt, với nhiệt độ trung bình thấp nhất vào tháng 1 là 17,9°C và cao nhất vào tháng 6 là 28,8°C Khu vực này có khoảng 1.500-1.700 giờ nắng mỗi năm và bức xạ mặt trời cao, đạt 74,6 Kcl/năm Tuy nhiên, mùa khô thường thiếu nước và xuất hiện sương muối, gây cảm giác hanh khô khó chịu Ngoài ra, do ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc, mùa đông ở Tương Dương lạnh hơn nhiều so với các vùng đồng bằng.
Lượng mưa bình quân hàng năm ở Tương Dương dao động từ 2000-2100mm, với mức cao nhất đạt 2.767,2mm và thấp nhất là 208mm Mùa mưa kéo dài từ 85-93 ngày, chiếm 82,25% tổng lượng mưa cả năm, trong khi mùa khô chỉ có khoảng 40 ngày với 209mm, chiếm 27,85% Do ảnh hưởng của gió Tây Nam khô và nóng, lượng mưa tháng 6 có thể giảm, nhưng lại tăng nhanh vào tháng 7, 8 và 9 Độ ẩm trung bình ở Tương Dương thường đạt 81% ở các khu vực trên 1.000m và 95% ở các thung lũng Tương Dương có lượng mưa không đều, độ ẩm không khí cao và khả năng bốc hơi thấp, tạo thành hai mùa rõ rệt: mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau và mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10.
Tương Dương có đặc điểm khí hậu và địa hình thuận lợi cho sự phát triển đa dạng của động thực vật Khu vực này sở hữu thảm rừng nguyên sinh phong phú, với 90% diện tích là rừng ẩm nhiệt đới, trong khi chỉ khoảng 10% không có thảm rừng che phủ hoặc là đất nông nghiệp Tại đây có hai kiểu rừng chính, góp phần tạo nên hệ sinh thái đa dạng.
Rừng hỗn giao cây lá rộng và lá kim ở vùng Á nhiệt đới, nằm ở độ cao trên 900m, là nơi sinh sống của nhiều loại thực vật hạt trần đặc trưng Trong số đó, Pơ mu (Fokienia hodginsii) và Kim Giao (Nageia fleuryi) cùng nhiều loài thuộc họ Đỗ Quyên nổi bật.
- Rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới, phân bố ở độ cao trên 900m
Rừng Nghệ An là một kiểu rừng phổ biến với thành phần loài phong phú và trữ lượng lớn, nổi bật với nhiều cá thể to cao bất thường thuộc các họ như Lim xanh (Erythrophloeum fordii), Chò chỉ (Parashorea chinensis), Sến (Madhuca pasquieri), cùng với các loài Táu, Lát hoa, Đinh hương, Săng lẻ, Vàng tâm, Dổi, Kiền kiện Đây chính là đặc điểm ưu việt của rừng Nghệ An.
Tương Dương, nằm gần khu bảo tồn Pù Mát và Pù Huống, sở hữu một hệ thực vật phong phú Các nhà khoa học từ Viện Dược liệu và Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật đã tiến hành khảo sát nguồn cây thuốc và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng người Thái tại các vùng đệm của khu bảo tồn này.
Kết quả đã ghi nhận được ở Khu Bảo Tồn Thiên Nhiên Pù Huống có
374 loài thực vật bậc cao có mạch và nấm lớn có công dụng làm thuốc, thuộc
Trong tự nhiên, có 289 chi và 127 họ cây thuốc, bao gồm 3 loài nấm làm thuốc, 1 loài thuộc ngành Cỏ tháp bút, 2 loài thuộc ngành Thông đất, 15 loài thuộc ngành Dương xỉ, 6 loài thuộc ngành Thông, và đặc biệt là 347 loài thuộc ngành Mộc lan.
Rừng Tương Dương trước đây có nhiều loài thú quý như Voi, Hổ, Gấu,
Cánh rừng Tương Dương là nơi cư trú của 46 loài động vật có vú và 120 loài chim, theo thống kê của Viện Dược liệu và Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật Nơi đây có nhiều loài động vật quý hiếm cần được bảo tồn, bao gồm Khỉ, Vooc, Gấu và Hổ Đặc biệt, loài Vọoc xám được ghi trong “Sách đỏ Việt Nam”, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ đa dạng sinh học trong khu vực này.
Điều kiện kinh tế - xã hội
Huyện có tổng cộng 18 đơn vị hành chính, bao gồm 1 thị trấn Hòa Bình và 17 xã, gồm các xã Tam Thái, Thạch Giám, Tam Quang, Tam Đình, Tam Hợp, Xá Lượng, Lưu Kiền, Lượng Minh, Hữu Khuông, Nhôn Mai, Mai Sơn, Yên Na, Yên Tĩnh, Yên Hòa, Yên Thắng, Nga My và Xiêng My.
Trong Chương trình 135 giai đoạn II, có 15 xã đặc biệt khó khăn, bao gồm: Tam Quang, Tam Đình, Tam Hợp, Xá Lượng, Lưu Kiền, Lượng Minh, Hữu Khuông, Nhôn Mai, Mai Sơn, Yên Na, Yên Tĩnh, Yên Hòa, Yên Thắng, Nga My và Xiêng My.
Tính đến ngày 31-12-2002, huyện Tương Dương có dân số 72.314 người với mật độ dân số thưa thớt, chỉ đạt 26 người/km² Trong huyện, xã Tam Hợp có mật độ thấp nhất với chỉ 7 người/km², trong khi xã Minh Lượng có mật độ cao nhất cũng chỉ đạt 40 người/km².
Tương Dương là huyện đa dạng về thành phần dân tộc tại Nghệ An, với tổng dân số 72.314 người Trong đó, người Thái chiếm tỷ lệ cao nhất với 73,88%, tiếp theo là người Khơ mú (11,79%), người Kinh (8,95%), người Mông (3,77%), người Tày poọng (0,76%), người Ơ đu (0,63%) và các dân tộc khác chiếm 0,22%.
+ Người Kinh có: 6.474 nhân khẩu
+ Người Thái có: 53.422 nhân khẩu
+ Người Khơmú có: 8.525 nhân khẩu
+ Người Mông có: 2.723 nhân khẩu
+ Người Tàypoọng có: 553 nhân khẩu
+ Người Ơđu có: 459 nhân khẩu
+ Các dân tộc khác có: 158 nhân khẩu
Người Thái tại Tương Dương có mặt ở hầu hết các xã, đặc biệt là Tam Đình, Tam Quang, Tam Thái, Thạch Giám, Yên Na, Yên Hòa, Yên Tĩnh và Yên Thắng Tuy nhiên, nguồn gốc của người Thái ở miền núi Nghệ An, đặc biệt là Tương Dương, vẫn chưa được thống nhất Theo nhiều tài liệu, người Thái đã đến Việt Nam khoảng 1000 năm trước, với đợt di cư lớn nhất diễn ra vào đầu thiên niên kỷ thứ II sau Công Nguyên, bắt đầu với người Thái trắng, sau đó là Thái Đen và các nhóm khác Họ đầu tiên cư trú tại Tây Bắc, một số ở lại, trong khi những nhóm khác di chuyển qua Lào hoặc Hòa Bình, Thanh Hóa để đến Nghệ An, với nhiều nhóm vẫn cư trú tại các khu vực này cho đến ngày nay.
Người Thái thuộc họ ngôn ngữ Nam Á, dòng Tày-Thái ở Việt Nam, Từ
“Thái” dùng để chỉ những người mang tộc danh Thái Người Thái còn có các
BIỂU ĐỒ THỂ HIỆN THÀNH PHẦN CÁC DÂN TỘC
Dân tộc Tày chiếm 0,22% dân số, còn được biết đến với nhiều tên gọi khác như Tày Khao (Thái Trắng), Tày Đăm (Thái Đen), Tày Mười, Hàng Tổng (Hàng Phường), và Pu hay Pu Thai Những tên gọi này chỉ phản ánh những sắc thái khác nhau của các nhóm địa phương trong cộng đồng Tày.
Nhóm Thái ở nghệ An nói chung, ở Tương Dương nói riêng có 3 nhóm chủ yếu sau đây:
+ Nhóm Tày Mường hay còn gọi là Tày Chiêng, Hàng Tổng ,chủ yếu là Thái Trắng
+ Nhóm Tày Thanh hay còn gọi là Man Thanh, chủ yếu là Thái Đen + Nhóm Tày Mười (Thái Đỏ)
Trước cách mạng Tháng Tám 1945, xã hội người Thái ở Tương Dương đã có sự phân hóa giai cấp rõ rệt Giai cấp thống trị bao gồm các tầng lớp như Thổ Ty, Phìa Tạo, Chúa Đất, cùng với dòng họ chúa đất và các chức dịch thượng đẳng Trong khi đó, giai cấp nông dân được chia thành những người tự do như Pày, Xáy tơ, và những người ngụ cư dân tộc hoặc khác tộc không có quyền công dân, gọi là cuông, nhốc, pụa Ngoài ra, còn có những người Gia nô (côn hươn) là những người mất quyền làm người, phải nương thân nhờ nhà chúa.
Mường, bao gồm cả mường Quỳ, có thể hiểu là đơn vị cư dân linh hoạt, có thể là một xã hoặc một bản Bản, là đơn vị dân cư cơ sở, hình thành từ lịch sử tộc người, tổ chức theo phong tục tập quán và luật pháp quốc gia Đây là cộng đồng nơi mỗi thành viên sống trong gia đình riêng, đồng thời cũng là đơn vị hành chính cơ sở, đảm nhiệm các chức năng văn hóa quan trọng như sinh nở, xây nhà mới, cưới hỏi, tang lễ, lễ hội và ăn tết Ông Trưởng bản đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì và phát triển các hoạt động văn hóa này.
Mo đóng vai trò quan trọng Các ông này phải thông thạo phong tục tập quán, quý nhất là biết tiếng Thái cổ
Tất cả các xã đều đã thiết lập trường Mầm non và Tiểu học, trong khi các trường cấp 2-3 chủ yếu tập trung tại trung tâm thị trấn Hòa Bình và một số khu vực đông dân cư.
Tương Dương là huyện vùng cao với địa hình gồ ghề và dân cư thưa thớt, khiến giao thông trở nên khó khăn Đường sá hạn chế, nhiều xã chưa có ô tô vào trung tâm, và người dân chủ yếu di chuyển bằng thuyền gắn máy hoặc thuyền độc mộc Sự hiểm trở của địa thế cùng với sự dày đặc của sông suối tạo ra thách thức lớn trong việc đi lại.
Mặc dù hầu hết các xã đã có trạm y tế, nhưng vẫn thiếu nhân lực y tế và bác sĩ có trình độ cao, trong khi cơ sở vật chất còn nghèo nàn và lạc hậu Người dân tộc thiểu số thường có xu hướng tin vào mê tín dị đoan, dẫn đến việc điều trị bằng Tây y không được coi trọng, thay vào đó, họ thường tìm đến các phương pháp chữa bệnh truyền thống như cúng bái Một số người tiến bộ hơn thì lựa chọn đến các ông lang, bà mế để nhận thuốc, tạo điều kiện cho họ phát huy các bài thuốc dân gian và kinh nghiệm chữa bệnh của mình.
3.2.4 Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội xã Thạch Giám
Xã Thạch Giám có vị trí địa lý thuận lợi, nằm giáp ranh với xã Yên Na ở phía Bắc, xã Tam Hợp ở phía Nam, xã Xá Lượng ở phía Tây và xã Tam Thái ở phía Đông.
Xã Thạch Giám có diện tích tự nhiên 9422.4 ha, mật độ bình quân là 157 m 2 /hộ Trong đó:
STT Loại đất Diện tích (ha)
3 Đất lâm nghiệp có rừng 7604.91
8 Đất đồi núi chưa sử dụng 554.49
9 Đất nuôi trồng thủy sản 0.8
Tổng: 9422.4 ha (Theo số liệu thống kê của phòng địa chính xã Thạch Giám năm 2012)
Dân số toàn xã (tính đến ngày 01 – 01 – 2012) là 3.970 người với 937 hộ, tổng số lao động bình quân của toàn xã là 1469 người (chiếm 0,37%)
Xã Thạch Giám hiện có 9 bản, bao gồm Thạch Dương, Mon, Phòng, Chắn, Khe Chi, Mác, Lau, Nhẫn và Cây Me, và đặc biệt, xã này bao trọn Thị trấn Hòa Bình Với diện tích chỉ 381,72 ha ruộng đất, người dân Thạch Giám chủ yếu sống bằng nghề nương rẫy, khai thác lâm sản và đánh bắt cá, ngoại trừ những người làm ăn buôn bán.
BIỂU ĐỒ THỂ HIỆN TÌNH TRẠNG SỬ DỤNG DIỆN TÍCH ĐẤT
TỰ NHIÊN TẠI XÃ THẠCH GIÁM - TƯƠNG DƯƠNG
S đất lâm nghiệp có rừng
S đất đồi núi chưa sử dụng
S đất nuôi trồng thủy sản
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Kết quả về thành phần loài cây thuốc
Qua quá trình điều tra các bài thuốc dân gian của đồng bào dân tộc Thái, đã thu thập kinh nghiệm từ các ông lang bà mế về cây thuốc tại xã Thạch Giám, huyện Tương Dương, Nghệ An Những loài cây được sử dụng làm thuốc đã được trình bày và xác định tên khoa học trong bảng 1 “Danh lục các loài thực vật làm thuốc ở xã Thạch Giám – Tương Dương - Nghệ An” Tổng cộng, đã ghi nhận được 44 loài, 43 chi, 31 họ thuộc 2 ngành: Dương xỉ (Polypodiophyta) và Ngọc lan (Magnoliophyta), với danh lục các taxon được sắp xếp theo R.K.Brummit (1992).
Mỗi loài cây được trình bày theo thứ tự như sau:
Cột 7: Bộ phận sử dụng
Chú ý: Những ký hiệu được sử dụng trong bảng 1
R: Cây sống ở rừng rậm , rừng thưa, ven rừng Đ: Cây sống ở đồi núi, trảng cây bụi, trảng cỏ
N: Cây sống ở ven đường đi, nương, vườn nhà
Kh: Cây sống ở ven suối, khe
Bảng 1: Danh lục các loài thực vật làm thuốc ở xã Thạch Giám – Tương Dương stt Tên khoa học Tên dân tộc Tên phổ thông Dạng thân
Bộ phận sử dụng Công dụng Cách dùng
1 Drynaria bonii Christ Ín tó Tắc kè đá B R L Chữa gãy xương Đâm nát lá rồi bọc vào chỗ xương gãy
Cò nặm nẹ Dây bông xanh L N T, L
Chữa cảm đa sợi, đậu mùa, rắn cắn
Giã nhỏ vắt lấy nước uống
Cỏ xước Th N R Chữa thấp Lấy rễ ngâm với
3 Anacardiaceae Họ Đào lộn hột
4 Rhus chinensis Mill Bơ pật Muối G Đ T Chữa loét miệng ở trẻ em
Dùng đá mài, mài thân cây muối thành bột rồi cho vào nước sôi để nguội uống
Co tin pât Sữa G Đ V Chữa đau răng
Vỏ cây Sữa cùng với rễ và thân cây lá lốt sắc đặc ngậm hàng ngày
(Lour.) Harms Co tan Chân chim G N V Chữa phong thấp, đau xương
Bóc vỏ thân ngâm rượu uống
Mạch môn Mạch môn B N R Chữa viêm đại tràng
7 ngày, mỗi ngày một lần nấu
8 Artemisia vulgaris L Nhà cứu Ngải cứu Th N Ca Chữa đau đầu Vò nát đắp ở trán
Pắc noọc sáng Cỏ Vòi voi B N Ca
Chữa thấp khớp, đau lưng, nước ăn chân tay
7 ngày, mỗi ngày một lần nấu
Thau phày Khế rừng G R L Chữa nấm da Lấy lá nấu nước sôi tắm
L Mướp đắng L N T Chữa thấp khớp, đau lưng
7 ngày, mỗi ngày một lần nấu
Co khí lệch Bồ cu vẽ B Đ L Chữa rắn cắn
Lá Bồ cu vẽ tươi nhai nuốt nước, bã đắp vào vết thương
13 Erythrina stricta Roxb Cò toong Vông hoa hẹp G R T Chữa cảm đa sợi, đậu mùa
Mài bằng đá mài rồi cho vào nước đun
Sò loòng khèo Re hương G R T Chữa cảm đa sợi, đậu mùa
Mài bằng đá mài rồi cho vào nước đun sôi để nguội uống
Chữa cảm đa sợi, đậu mùa, sốt rét
Mài bằng đá mài rồi cho vào nước đun sôi để nguội uống
16 Urena lobata L Khắt phải Ké hoa đào B Kh T Chữa cảm đa sợi, đậu mùa
Mài bằng đá mài rồi cho vào nước đun sôi để nguội uống
17 Hibiscus rosa – sinensis L Co ngần Dâm bụt B N L Chữa quai bị, đau mắt
Lấy lá đâm nát cùng với lá dành dành, vắt lấy nước uống, bã đắp vào chỗ thương
18 Mimosa pudica L Cây thẹn Cây xấu hổ B N, R, Đ,
Lấy thân cây ngâm rượu uống
16 Myctaginaceae Họ Hoa phấn rừng kinh, đau xương hàng ngày
20 Embelia ribes Burm.f Xốm mun Chua ngút G R T
Chữa đau thượng vị, hạ vị, phù thận, giun, sán
Bóc sạch vỏ rồi nấu nước uống
21 Piper lolot C DC Cò lớt Lá lốt Th R L Chữa gãy xương
Giã nát, hơ nóng rồi đắp vào chỗ xương gãy
L Phắc bán Thồm lồm gai L R, N T Chữa cảm đa sợi, đậu mùa
Mài bằng đá mài rồi cho vào nước đun sôi để nguội uống
23 Punica granatum L Cò phi la Lựu B N T Chữa cảm đa sợi và đậu mùa
Mài vào đá mài rồi cho vào nước nấu uống
Thunb Cáng pa Bỏng nẻ G Đ T
Chữa cảm đa sợi, đậu mùa, sốt rét
Mài bằng đá mài rồi cho vào nước đun sôi để nguội uống
Thunb Tắng bợ Dây bướm L N R, T Chữa đau mắt hột
Nấu nước uống hàng ngày
Dành dành Dành dành B Kh L Chữa quai bị, đau mắt
Lấy lá đâm nát cùng với lá Dâm bụt, vắt lấy nước uống, bã đắp vào chỗ thương
Nhà hang ốt Lấu nhàu B Đ T Chữa đau bụng, ỉa chảy Nấu nước uống
28 Citrus limonia Osbeck Má điêu Chanh G N Q Chữa bệnh ho
Cắt quả chanh thành miếng rồi ngậm cùng muối hột nuốt nước
Merr Ba chạc Ba chạc G R, Đ Ca Chữa bệnh đau xương sống
Lấy cả cây nấu nước uống
(L.) sw đái giắt nấu với cỏ Tranh uống
31 Smilax glabra Roxb Khúc khắc Thổ phục linh L Đ R, T
Chữa thấp khớp, đau xương
Khúc khắc Dây kim cang L Đ Cu
Chữa thấp khớp, giang mai, mụn nhọt
33 Capsicum frutescens L Cò ớt Ớt B N L Chữa gãy xương
Lá đâm nát cùng với lá lốt đắp vào chỗ gãy
26 Verbenaceae Họ Cỏ roi ngựa
34 Verbena officinalist L Co pin mạ Cỏ roi ngựa Th N Ca Điều hoà kinh nguyệt
Cỏ roi ngựa cả cây, rửa sạch giã ra rồi uống với rượu
Co hem Nghệ Th Đ, N Cu Chữa bệnh chảy Dùng củ Nghệ khô nước sôi để nguội uống
Rosc Gừng B N Cu Chữa dị ứng, mẩn ngứa
Củ Gừng cùng với rễ thiên niên kiện nấu nước uống
37 Allium fistulosum L Co Hành Hành B N Cu Chữa bệnh đái ra máu
Lấy củ Hành nấu cùng với củ Nghệ lấy nước uống
38 Allium sativum L Phắc tiêm Tỏi Th N Ca
Chữa cảm cúm, sát trùng vêt thương Ăn sống hoặc ngâm với rượu bôi lên chỗ đau
(L.) Schott Mên ỏn Khoai nước Th N L Chữa gãy xương
Giã nát, hơ nóng rồi đắp vào chỗ xương gãy
(Lour.) Schott Thiên niên kiện Th Đ Ca
Chữa thấp khớp, dị ứng, Lấy cả cây ngâm rượu uống
41 Chrysopogon aciculatus (Rrtz.) Trin Cỏ may Cỏ may Th Đ L, T, R Chữa ghẻ, ho Lấy cả cây sắc uống
(L.) Beauv Cỏ tranh Cỏ tranh Th Đ Ca Chữa đái buốt, đái giắt
Lấy cả cây nấu cùng với Bòng bong lấy nước uống
Co nhả hút Cỏ mần trầu Th Đ Ca Chữa bệnh ghẻ lở
Cỏ mần trầu cùng với cỏ may nấu nước tắm
Cò phàng Kê G N T Chữa cảm đa sợi
Mài bằng đá mài lấy bột cho vào nước sôi để nguội uống
4.1.1 Đánh giá tính đa dạng các loài cây thuốc của đồng bào dân tộc Thái xã Thạch Giám, Tương Dương Để thấy được tính đa dạng của cây thuốc Tôi lập bảng so sánh các taxon họ, chi, loài cây thuốc đã thu thập được với số lượng cây thuốc của huyện Tương Dương
Bảng 2: So sánh sự đa dạng của các taxon cây thuốc dân tộc Thái đã thu thập được với hệ cây thuốc ở xã Thạch Giám (*)
Các chỉ tiêu so sánh Số loài thu thập được
Xã Thạch Giám(*) Tỷ lệ %
(*) - Số lượng các taxon của xã Thạch Giám theo Nguyễn Nghĩa Thìn (Đại học KHTN – ĐHQGHN) và Lữ Thị Ngân (Bảo tàng thiên nhiên Việt Nam)
Trong quá trình điều tra, chúng tôi đã thu thập được 26 bài thuốc dân gian, được thể hiện trong danh mục các loài cây thuốc của đồng bào dân tộc.
Xã Thạch Giám, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An, đã ghi nhận 35,22% họ thực vật làm thuốc, 22,40% số chi và 19,05% số loài trong tổng số cây thuốc tại địa phương Điều này cho thấy sự phong phú về số lượng các taxon được sử dụng trong việc chữa bệnh tại xã Thạch Giám.
Kết quả nghiên cứu cho thấy cây thuốc tại Nghệ An rất phong phú và đa dạng Việc mở rộng khu vực điều tra giúp thu thập nhiều kinh nghiệm quý báu từ người dân, góp phần làm phong phú thêm kho tàng cây thuốc của huyện Tương Dương và toàn tỉnh Nghệ An.
4.1.2 Sự phân bố các taxon họ, chi, loài trong các ngành
Bảng 3: Số lượng và tỷ lệ các taxon họ, chi, loài trong các ngành thực vật thu thập được ở xã Thạch Giám
Theo số liệu thống kê ở bảng 4 ta thấy các cây thuốc phân bố không đồng đều trong 2 ngành thực vật Hầu hết các taxon tập trung ở ngành Mộc Lan
Tại xã Thạch Giám, ngành Magnoliophyta chiếm ưu thế với 30 họ, 42 chi và 43 loài cây thuốc, tương ứng với 96,77%, 97,67% và 97,73% tổng số cây thuốc Ngành Dương xỉ (Polypodyophyta) chỉ có một số ít với 1 họ, 1 chi và 1 loài, chiếm 3,23%, 2,33% và 2,27%.
Theo bảng số liệu, các ngành trong hệ cây thuốc có vai trò không đồng đều Ngành Mộc Lan chiếm ưu thế với 97,73% tổng số loài cây thuốc trong toàn xã, trong khi ngành Dương xỉ chỉ chiếm dưới 3% tổng số loài được nghiên cứu (Xem biểu đồ 1).
4.1.3 Đa dạng về dạng sống của các loài cây làm thuốc
Trong tự nhiên, thực vật phát triển đa dạng trong các điều kiện sinh thái khác nhau nhờ quá trình tiến hóa thích nghi Có những loài cây ưa sáng sống ở tầng trên, trong khi các loài cây ưa bóng tồn tại ở tầng dưới Ngoài ra, một số loài thực vật sống ký sinh hoặc bì sinh, tạo nên sự đa dạng phong phú về dạng sống của thực vật.
Dựa vào dấu hiệu thích nghi và đặc điểm cấu tạo cơ thể, chúng tôi đã phân loại các dạng sống của cây thuốc được sử dụng bởi đồng bào dân tộc Thái tại xã Thạch Giám (Xem bảng 4).
Biểu đồ 1: Tỷ lệ % số loài cây thuốc phân bố trong các ngành
Bảng 4: Đa dạng về dạng sống của các cây làm thuốc vùng nghiên cứu
Dạng sống Cây thân Leo Cây thân Thảo Cây thân Bụi Cây thân Gỗ
Tỷ lệ % so với tổng số 15,9 27,3 29,5 27,3
Kết quả từ bảng 4 cho thấy sự đa dạng phong phú của các dạng thân cây thuốc tại xã Thạch Giám Trong đó, nhóm cây thân bụi chiếm tỷ lệ cao nhất với 13 loài, tương đương 29,5% Tiếp theo là nhóm cây thân thảo và thân gỗ với 12 loài, chiếm 27,3%, trong khi nhóm cây thân leo có 7 loài, chiếm 15,9% Tỷ lệ các dạng thân này được thể hiện rõ trong biểu đồ 2.
Cây thân bụi Cây thân gỗ Cây thân thảo Cây thân leo
Biểu đồ 2: Tỷ lệ % các dạng thân của cây thuốc
4.1.4 Đa dạng về bộ phận sử dụng
Nghiên cứu các bộ phận của cây thuốc là cơ sở quan trọng để phân tích chính xác thành phần hoạt chất, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng các bài thuốc Theo y học cổ truyền, các bộ phận khác nhau của cây thuốc được áp dụng để điều trị các bệnh lý khác nhau, dựa trên kinh nghiệm phong phú của các lương y.
Kết quả điều tra cho thấy các ông lang, bà mế sử dụng đa dạng các loại cây thuốc, tùy thuộc vào từng loài Một số loài được sử dụng toàn bộ, thường là cây thân thảo hoặc thân leo, trong khi đó có những loài chỉ sử dụng ba bộ phận như lá, thân và rễ, hoặc hai bộ phận như thân-lá, thân-rễ, và lá-rễ.
4.1.4.1 Sự đa dạng về số lượng bộ phận sử dụng
Bảng 5: Số lượng bộ phận được sử dụng làm thuốc
Số bộ phận được sử dụng Số lượng loài Tỷ lệ % so với tổng số
Theo kết quả tổng hợp từ bảng 9, trong quá trình chữa bệnh, các lương y chủ yếu sử dụng một bộ phận của cây thuốc, với 32 loài chiếm 72,73% tổng số loài đã được điều tra Tiếp theo, các loài thân thảo thường được sử dụng toàn cây, với 7 loài chiếm 15,91% Số loài cây thuốc sử dụng 2 bộ phận là 4 loài, chiếm 9,09%, trong khi đó, chỉ có 1 loài sử dụng 3 bộ phận, chiếm 2,27%.
Các lương y đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý báu trong việc lựa chọn và thu hái các bộ phận cây thuốc để chữa bệnh hiệu quả Tùy thuộc vào loại bệnh và mức độ nghiêm trọng, họ sẽ lựa chọn các bộ phận phù hợp để sử dụng Sự khác biệt trong cách lựa chọn này được thể hiện rõ qua biểu đồ 3.
4.1.4.2 Sự đa dạng trong các bộ phận sử dụng
Cơ thể thực vật có sự đa dạng phong phú về hình thái và đặc điểm sinh lý, sinh hóa Mỗi bộ phận của cây chứa các hoạt chất riêng biệt, mang lại tác dụng khác nhau trong việc điều trị bệnh Do đó, các bộ phận được sử dụng trong chữa bệnh phải trải qua quá trình sàng lọc kỹ lưỡng, trở thành kinh nghiệm quý báu của mỗi lương y Kết quả điều tra cho thấy điều này rõ ràng (Xem bảng 6).
Cả cây 1 bộ phận 2 bộ phận 3 bộ phận
Biểu đồ 3: Tỷ lệ % của các loài cây thuốc theo bộ phận sử dụng
Bảng 6: Sự đa dạng trong các bộ phận được sử dụng làm thuốc
TT Bộ phận sử dụng Số lượng Tỷ lệ % so với tổng số
Danh lục các bài thuốc của đồng bào dân tộc Thái xã Thạch Giám, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An
4.2.1 Các bài thuốc của đồng bào dân tộc Thái xã Thạch Giám, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An
I NHÓM BỆNH VỀ ĐƯỜNG TIÊU HOÁ
1 Đau bụng, ỉa chảy: Ông Vàng Văn Quang, 80 tuổi (Cựu chiến binh) Bản Mác - Thạch Giám
Lấu nhàu (Psychotria morindoides Hutch): Cả cây
Lấy cả cây cho vào ống nứa, đổ nước đầy ống nứa đun sôi một lúc rồi uống
2 Viêm đại tràng: Bác Vũ Đình Tuân, 69 tuổi Bản Mác – Thạch Giám
Mạch môn (Ophiopogon Japonicus (Lf.) Ker –Gawl): Rễ
Lấy rễ cây Mạch môn (Nhổ cả gốc) nấu nước uống trong 7 ngày, mỗi ngày một lần nấu
Biểu đồ 5: Sự phân bố của cây thuốc tại các môi trường sống khác nhau
3 Đau dạ dày: Bác Vi Thị Sửu, 68 tuổi Bản Phòng – Thạch Giám
Nghệ đen (Curcuma zedoaria (Berg.) Rose): củ
Nghệ phơi khô, tán nhỏ, trộn mật ong ăn ngày 3 chén nhỏ sau bữa ăn Chú ý kiêng kị ăn chua cay
II NHÓM BỆNH VỀ KHỚP – XƯƠNG – THẦN KINH
1 Bệnh thấp khớp, đau lưng:
Cỏ Vòi voi (Heliotropium indicum L.): Cả cây
Mướp đắng (Momordica charantia L.): Thân
Lấy thân cân Mướp đắng, cả cây Vòi voi nấu lên lấy nước uống trong vòng
7 ngày, mỗi ngày một lần nấu
2 Bệnh sái khớp: Ông Lương Văn Tâm, 88 tuổi Bản Khe Chi – Thạch Giám Lấy lá Tắc kè đá đâm nát, nướng lên bọc vào khớp
3 Mỏi thần kinh, đau khớp xương: Ông Lô Văn Hối, 82 tuổi Bản Phòng – Thạch Giám
Sâm rừng (oerhavia diffusu (L.)): Rế, thân
Dùng rễ và thân cây Sâm rừng ngâm rượu uống hàng ngày, uống với liều lượng vừa đủ
4 Đau xương sống: Ông Lô Văn Hối, 82 tuổi Bản Phòng – Thạch Giám
Ba chạc (Euodia lepta (Spreing) Merr): Cả cây
Chua ngút (Embelia ribes Burm.f.): Thân
Lấy cây Ba chạc cùng với cây Chua ngút nấu nước uống hàng ngày, mỗi ngày uống 3 lần sau khi ăn cơm
5 Phong thấp, đau xương: Ông Lương Xuân Quang, 85 tuổi Bản Mác – Thạch Giám
Sử dụng vỏ thân và thân cây Chân chim (Schefflera Octophylla (Lour.) Harms) ngâm rượu uống hàng ngày
6 Bệnh thấp khớp: Bác Lữ Thị Xuân, 58 tuổi Bản Khe Chi – Thạch Giám
Cỏ xước (Achyranthes aspera L.): Rễ
Thổ phục linh (Smilax glabra Roxb.): Thân
Cây Xấu hổ (Mimosa pudica L.): Thân
Thiên niên kiện (Homalomena occulta (Lour.) Schott): Ca
Cỏ vòi voi (Heliotropium indicum L.): Cả cây
Sử dụng các bộ phận của các loài cây trên ngâm rượu uống hàng ngày
7 Gãy xương: Bà Lữ Thị Xuân, 76 tuổi Bản Lau – Thạch Giám
Tắc kè đá (Drynaria bonii Christ ): Lá Ớt (Capsicum frutescens L.): Lá
Lá lốt (Piper lolot C DC.): Lá
Dã chung cả 3 loại lá trên, cho lên xoong chảo hơ nóng rồi bọc vào chỗ xương bị gãy
8 Chữa đau đầu: Ông Lương Văn Hải, 75 tuổi Bản Nhẫn – Thạch Giám Lấy cả cây Ngải cứu (Artemisia vulgris L), rửa sạch đâm nát lấy nước uống, bã đắp lên trán
III NHÓM BỆNH NGOÀI DA
1 Nấm da: Bác Vũ Đình Tuân, 69 tuổi Bản Mác – Thạch Giám
Sử dụng lá cây khế rừng (Rourea minor (Gaertha.) Leenth.) nấu sôi và để nguội, sau đó dùng nước này để tắm Trong quá trình tắm, hãy chà sát lá khế vào những vùng da bị nấm để hỗ trợ điều trị.
2 Nước ăn chân tay: Bác Lô Thị Xoan, 48 tuoir Bản Lau – Thạch Giám Dùng lá cây mả voi bôi vào chỗ ngứa bị nước ăn, trà xát thật mạnh và thực hiện nhiều lần trong ngày cho tới khi khỏi bệnh
3 Ghẻ lở: Bác Lữ Thị Tọt, 52 tuổi Bản Lau – Thạch Giám
Cỏ mần trầu (Elensine indica (L.) Gaernt.f.): Cả cây
Cỏ may (Chrysopogon aciculatus (Rrtz.) Trin.): Cả cây
Lấy 2 loại cỏ trên nấu nước sôi, để nguội không được pha thêm nước, sau đó tắm Làm hàng ngày cho tới khi hết ghẻ
4 Dị ứng, mẩn ngứa: Bác Lương Xuân Thành, 66 tuổi Bản Phòng – Thạch Giám
Thiên niên kiện (Homalomena occulta (Lour.) Schott): Rễ
Gừng (Zingiber officinale Rosc.): Củ
Lấy rễ cây Thiên niên kiện và củ Gừng nấu nước lên uống hàng ngày
IV NHÓM BỆNH VỀ MẮT
Bài 1: Bác Hữu Xuân Quế, 68 tuổi Bản Lau – Thạch Giám
Để sử dụng cây dây bướm, bạn cần lấy rễ hoặc thân cây cho vào 2 ống nứa, sau đó đổ nước vào và đun sôi Một ống sẽ được hơ lên mắt, trong khi ống còn lại để nguội, dùng nước trong ống để rửa mắt.
Bài 2: Bác Lương Xuân Thìn, 68 tuổi Bản Lau – Thạch Giám
Dâm bụt (Hibiscus Rosa – Sinensis L.): Lá
Dành dành (Gardenia Jasminoides Ellis): Lá
Lấy lá dâm bụt đâm chung với lá dành dành, vắt lấy nước uống, bã đắp vào mắt đau
V NHÓM BỆNH CHẢY MÁU CAM
Bài 1: Bác Hữu Xuân Quế, 69 tuổi Bản Lau – Thạch Giám
Để thực hiện phương pháp này, bạn cần cho dây Kim cang thanh lịch vào ống nứa, sau đó đổ nước vào và đốt nóng ống nứa cho đến khi nước sôi Tiếp theo, hãy bọc ống nứa bằng một lớp vải màn mỏng và đưa lên mũi để hơ.
Bài 2: Bác Vàng Văn Cần, 72 tuổi Bản Cây Me – Thạch Giám
Dùng củ Nghệ khô tán nhỏ lấy bột, cho bột nghệ vào nước sôi để nguội uống hàng ngày
1 Cảm đa sợi: Bác Lò Văn Quân, 65 tuổi Bản Chắn – Thạch Giám
Cây Vông hoa hẹp (Erythrina stricta Roxb.), cây Bỏng nẻ (Serissa japonica Thunb.), thân cây Quế rừng (Cinnamomum liangii Allen.), dây Bông báo (Thunbergia grandiflora Roxb.), cây Thồm lồm gai (Polygonum perfoliatum L.) và cây Kê (Setaria italica (L.) P.beauv) có thể được sử dụng để tạo ra một loại bột Sau khi mài tất cả các thành phần này bằng đá mài, bạn hãy hòa bột vào nước sôi để nguội và uống hàng ngày để tận dụng các lợi ích sức khỏe từ chúng.
2 Cảm cúm: Bà Vi Thị Tần, 68 tuổi Bản Phòng – Thạch Giám
Lấy củ Tỏi (Allium sativum L.) bóc sạch vỏ ăn sống trong ngày, mỗi ngày
VII NHÓM BỆNH ĐẬU MÙA
Bà Vi Thị Cảnh, 81 tuổi Bản Cây Me – Thạch Giám
Cây Vông hoa hẹp, cây Bỏng nẻ (Serissa japonica Thunb.), thân cây Quế rừng (Cinnamomum liangii Allen.), dây Bông xanh (Thunbergia grandiflora
The article discusses several plants known for their medicinal properties, including Roxb., Thồm lồm gai (Polygonum perfoliatum L.), Kê (Setaria italica (L.) P beauv), Re hương (Cinnamomum parthenoxylon), Ké hoa đào (Urena lobata L.), and Lựu (Punica granatum L.) It suggests grinding these plants into a fine powder using a stone grinder and mixing the powder with cooled boiled water for daily consumption.
VIII NHÓM BỆNH RĂNG MIỆNG
1 Nhiệt mồm: Ông Lương Văn Tâm, 88 tuổi Bản Khe Chi – Thạch Giám Lấy rễ lá lốt (Piper lolot C DC.) ngâm rượu ngậm hàng ngày để giải nhiệt
2 Đau răng: Bà Lương Thị Tấm, 72 tuổi Bản Phòng – Thạch Giám
Dùng vỏ cây Sữa (Alstonia Scholaris (L.)), rễ và thân cây lá lốt sắc đặc ngậm hàng ngày
IX ĐIỀU HÒA KINH NGUYỆT
Bác Lương Thị Xuân, 77 tuổi Bản Lau – Thạch Giám
Lấy cả cây Cỏ roi ngựa (Verbena officinalist L.) rửa sạch, đâm nát rồi uống cùng với rượu, uống 3 lần/ngày
X NHÓM BỆNH VỀ ĐƯỜNG HÔ HẤP
Bệnh ho: Bác Lương Văn Hồng, 65 tuổi Bản Cây Me – Thạch Giám
Lấy quả chanh (Citrus limonia Osbeck) cắt thành miếng nhỏ rồi ngậm với muối hột nuốt nước
4.2.2 Đa dạng về các nhóm bệnh được chữa trị
Quá trình điều tra cho thấy mỗi loài cây thuốc có tác dụng với nhiều bệnh khác nhau, và để chữa một bệnh cụ thể, thường cần sử dụng nhiều loại cây Dựa trên tài liệu của các tác giả như Đỗ Huy Bích, Đỗ Tất Lợi và Võ Văn Chi, chúng tôi phân loại việc sử dụng cây thuốc dân tộc theo các nhóm bệnh khác nhau.
Bảng 8: Sự đa dạng về thành phần loài cây làm thuốc dùng chữa trị các nhóm bệnh
STT Các nhóm bệnh Số lượng loài
Tỷ lệ % so với tổng số
1 Nhóm bệnh về đường tiêu hoá 3 6,12
2 Nhóm bệnh về khớp - xương - thần kinh 16 32,65
5 Nhóm bệnh chảy máu cam 2 4,08
10 Nhóm bệnh về đường hô hấp 1 2,04
Kết quả từ bảng 8 cho thấy sự khác biệt trong việc sử dụng cây thuốc của đồng bào dân tộc Thái tại xã Thạch Giám đối với các nhóm bệnh Cụ thể, bệnh về khớp, xương và thần kinh có tỷ lệ sử dụng cây thuốc dân tộc cao nhất, đạt 32,65% Tiếp theo là nhóm bệnh đậu mùa với 16,33%, bệnh cảm với 14,29%, trong khi các nhóm bệnh khác như đường tiêu hóa, ngoài da, mắt, chảy máu cam, răng miệng, điều hòa kinh nguyệt và hô hấp chỉ chiếm từ 2,04% đến 12,24% (Xem biểu đồ 6).
Hệ cây thuốc tại xã Thạch Giám có khả năng chữa trị hầu hết các bệnh thông thường như tiêu hóa, bệnh do thời tiết, bệnh đường hô hấp và bệnh thần kinh, trong khi các bệnh nan y như ung thư rất hiếm gặp Điều này phần nào phản ánh điều kiện sống của người dân nơi đây, khi họ sống xa trung tâm và chủ động sử dụng cây cỏ làm thuốc để phòng và chữa bệnh Qua thời gian, các lương y đã tích lũy được nhiều bài thuốc quý với hiệu quả cao Ngoài ra, môi trường sống trong lành và ít ô nhiễm cũng góp phần làm giảm tỷ lệ mắc các bệnh tật nguy hiểm, dẫn đến việc sử dụng cây thuốc trong nhóm này chiếm tỷ lệ thấp.
Kinh nguyệt Đường hô hấp
Biểu đồ 6: Biểu đồ thể hiện sự đa dạng các loài thực vật làm thuốc dùng để chữa trị các nhóm bệnh.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
Từ những kết quả thu được trong quá trình điều tra, nghiên cứu chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
Xã Thạch Giám – Tương Dương có diện tích 9422,4 ha, đã điều tra và ghi nhận 44 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 43 chi và 31 họ, trong đó ngành Magnoliophyta chiếm ưu thế với 43 loài thuộc 42 chi, 30 họ, tương đương 97,73% Ngành Polypodiophyta chỉ có 1 loài thuộc 1 chi, 1 họ, chiếm 2,27% Điều này cho thấy sự đa dạng và phong phú của các loài thực vật trong ngành Magnoliophyta.
Môi trường sống của các loài cây thuốc tại xã Thạch Giám rất đa dạng, với môi trường nương rẫy có số loài phong phú nhất, chiếm 43,14% tổng số loài Tiếp theo là môi trường sống trên đồi núi với 14 loài (27,45%), môi trường rừng có 12 loài (23,53%), và môi trường khe suối là nơi có ít nhất 3 loài (5,88%).
Trong số các cây thuốc, có 13 loài được sử dụng chủ yếu ở dạng thân, chiếm 29,5% tổng số loài Các dạng cây thuốc này chủ yếu là thân bụi, tiếp theo là cây thân thảo và cây thân gỗ.
Trong số các loài cây, có 12 loài (27,3%) thuộc dạng thân thảo, trong khi 7 loài (15,9%) là dạng thân leo Bộ phận được sử dụng nhiều nhất trong các bài thuốc là thân cây với 18 loài (36,73%), tiếp theo là lá với 11 loài (22,45%) Cả cây được sử dụng trong 7 loài (14,29%), rễ có 6 loài (12,24%), củ có 4 loài (8,16%), trong khi vỏ chỉ có 2 loài (4,08%) và quả chỉ có 1 loài (2,04%).
Các cây thuốc được thống kê có tác dụng chữa trị nhiều loại bệnh khác nhau Trong đó, bệnh về khớp, xương và thần kinh chiếm tỷ lệ cao nhất với 16 loài (32,65%) Tiếp theo là bệnh đậu mùa với 8 loài (16,33%), bệnh cảm với 7 loài (14,29%), và bệnh ngoài da với 6 loài (12,24%) Bệnh về đường tiêu hóa và mắt có 3 loài (6,12%), trong khi bệnh máu cam và răng miệng mỗi loại có 2 loài.
(chiếm 4,08%); Ít nhất là nhóm bệnh về phụ nữ và bệnh về đường hô hấp chỉ có 1 loài (chiếm 2,04%).
Kiến nghị
Tương Dương và Thạch Giám sở hữu nguồn tài nguyên cây thuốc phong phú, do đó, các cấp chính quyền và hiệp hội thuốc cần chú trọng nghiên cứu và sưu tầm các cây thuốc cũng như bài thuốc dân tộc từ các đồng bào thiểu số Việc bảo tồn những kinh nghiệm quý báu này là rất cần thiết, vì mỗi cây thuốc và bài thuốc đã được lưu truyền qua nhiều thế hệ, tạo thành tài sản vô giá phục vụ cho việc chữa bệnh cho cộng đồng.
Các cơ quan chủ quyền như y tế, tài nguyên - môi trường, nông nghiệp - phát triển nông thôn và các hiệp hội thuốc cần xây dựng chính sách và biện pháp hiệu quả để bảo tồn các loài cây thuốc và bài thuốc dân gian của đồng bào dân tộc Thái tại xã Thạch Giám và miền núi Việc bảo tồn các loài cây thuốc đang có nguy cơ tuyệt chủng là rất quan trọng, vì mất đi một loài cây thuốc hay bài thuốc dân gian đồng nghĩa với việc mất một tài sản quý giá cho hiện tại và tương lai Bảo tồn cây thuốc và các bài thuốc không chỉ là bảo tồn vật thể mà còn là bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể của cộng đồng dân tộc thiểu số tại tỉnh Nghệ An và toàn quốc.