1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Đường cơ sở của việt nam sự phù hợp với công ước của liên hợp quốc về luật biển năm 1982

70 25 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 70
Dung lượng 0,92 MB

Cấu trúc

  • A. PHẦN MỞ ĐẦU (6)
    • 1. Tính cấp thiết của đề tài (6)
    • 2. Tình hình nghiên cứu (8)
    • 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài (9)
    • 4. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu (9)
    • 5. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn (10)
    • 6. Bố cục của đề tài (10)
  • B. PHẦN NỘI DUNG (11)
  • Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ LUẬT BIỂN QUỐC TẾ; CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN NĂM 1982; ĐƯỜNG CƠ SỞ THEO CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN NĂM 1982 (11)
    • 1.1. Khái quát chung về luật biển quốc tế (11)
    • 1.2. Khái quát chung về Công ước của Liên hợp quốc về luật biển năm 1982 (17)
    • 1.3. Đường cơ sở theo Công ước của Liên hợp quốc về luật biển năm 1982 (21)
      • 1.3.1. Khái niệm đường cơ sở (21)
      • 1.3.2. Phương pháp xác định đường cơ sở (22)
      • 1.3.3. Ý nghĩa của chế độ pháp lí đối với đường cơ sở (33)
  • Chương 2. THỰC TIỄN ĐƯỜNG CƠ SỞ CỦA VIỆT NAM, SỰ PHÙ HỢP VỚI CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN NĂM 1982 (37)
    • 2.1. Lịch sử đường cơ sở của Việt Nam (37)
    • 2.2. Đường cơ sở của Việt Nam theo Tuyên bố 1982 (41)
    • 2.3. Đánh giá đường cơ sở của Việt Nam (46)
    • 3.1. Những thuận lợi và khó khăn liên quan đến việc hoàn thiện đường cơ sở của Việt Nam (55)
      • 3.1.1. Thuận lợi (55)
      • 3.1.2. Khó khăn (60)
    • 3.2. Phương hướng hoàn thiện (63)
    • C. PHẦN KẾT LUẬN (67)
    • D. TÀI LIỆU THAM KHẢO (69)

Nội dung

PHẦN MỞ ĐẦU

Tính cấp thiết của đề tài

Biển từ lâu đã giữ vai trò thiết yếu trong sự sống của con người, cung cấp nguồn tài nguyên quý giá Tuy nhiên, khi các nguồn tài nguyên biển ngày càng cạn kiệt, việc hướng ra biển trở thành xu hướng tất yếu, dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia có biển và không có biển.

Biển Đông có vị trí chiến lược quan trọng, là trung tâm kết nối các vịnh, biển và đại dương khác, đồng thời là đầu mối giao thông hàng hải và hàng không giữa Châu Âu, Trung Đông, và các nước Đông Nam Á Sự quan trọng này đã khiến "Cuộc chiến biển Đông" trở thành vấn đề nóng bỏng hiện nay Hơn nữa, việc các quốc gia ký kết điều ước quốc tế về biển cũng ảnh hưởng lớn đến việc tuân thủ và thực thi luật biển quốc tế.

Việt Nam có bờ biển tiếp liền với biển Đông, có vùng biển rộng trên

Việt Nam có diện tích 1.000.000 km² và bờ biển dài trên 3.260 km, với khoảng 1 km bờ biển cho mỗi 100 km² đất liền, gấp 6 lần tỷ lệ trung bình thế giới Không nơi nào cách biển hơn 500 km, và ven bờ có khoảng 3.000 đảo lớn nhỏ, chủ yếu ở vịnh Bắc Bộ Biển đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, quốc phòng và bảo vệ môi trường Các vấn đề pháp lý liên quan đến biển cần được quy định chặt chẽ theo pháp luật quốc gia và luật quốc tế Biển đảo là phần thiêng liêng trong chủ quyền Tổ quốc, góp phần vào sự sinh tồn và phát triển của dân tộc Việt Nam, nằm ở rìa biển Đông, có tầm chiến lược biển cao trong việc xác định quyền chủ quyền Đường cơ sở là yếu tố cốt lõi để xác định các vùng biển, và từ năm 1976, Việt Nam đã có tuyên bố chính thức về đường cơ sở và các vùng biển Tuy nhiên, việc xác định đường cơ sở vẫn còn nhiều tranh cãi, đặc biệt liên quan đến các hiệp định lịch sử với Trung Quốc và Campuchia Chính vì vậy, tôi chọn nghiên cứu về “Đường cơ sở của Việt Nam - sự phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về luật biển năm 1982” để làm rõ vấn đề này.

Tình hình nghiên cứu

Với vị trí chiến lược của biển, vấn đề đường cơ sở quốc gia đã thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia, đặc biệt là những nước có tiềm lực mạnh như Trung Quốc và Anh Mỗi quốc gia đều mong muốn thiết lập một đường cơ sở có lợi cho lợi ích của mình Nhiều nghiên cứu từ cả trong và ngoài nước đã được thực hiện để tìm hiểu về vấn đề này, trong đó có một số công trình nghiên cứu đáng chú ý.

Trong số các công trình nghiên cứu nổi bật trong nước, không thể không nhắc đến "Toàn tập thiên nam chí lộ đồ thư" của Đỗ Bá và cuốn "Phủ biên tạp lục" do Lê Quí Đôn biên soạn vào năm 1776, trong đó ông đã mô tả chi tiết về địa lý và tài nguyên tại Trường Sa và Hoàng Sa cũng như hoạt động khai thác của Chúa Nguyễn Gần đây, bài thuyết trình của NCS Ths Ngô Hữu Phước, Trưởng bộ môn Công pháp quốc tế tại Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, với chủ đề "Cách xác định và chế độ pháp lí của các vùng biển theo Công ước của Liên hợp quốc về luật biển năm 1982" cũng đã góp phần quan trọng vào lĩnh vực này, cùng với nhiều đề tài nghiên cứu khác từ các tác giả Việt Nam.

Những công trình nghiên cứu của các tác giả Phương Tây như:

Bài viết của M.C Gendreau, Chủ tịch Hội Luật gia Châu Âu, về "Sovereignty over the Spratly Islands" cùng với tác phẩm của Beazley, P.B về "Các đường cơ sở lãnh hải" đăng trên tạp chí Thủy đạc quốc tế số 48, đã cung cấp nhiều thông tin quan trọng Ngoài ra, nhiều hội thảo khoa học trong nước và quốc tế cũng đã thảo luận về vấn đề hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa Những tài liệu này là nguồn tư liệu quý giá mà tôi đã tham khảo để nghiên cứu đề tài khóa luận, đồng thời hỗ trợ các tác giả khác tiếp cận vấn đề một cách dễ dàng hơn.

Mục đích và nhiệm vụ của đề tài

Mục tiêu của nghiên cứu này là phân tích và đánh giá đường cơ sở của Việt Nam, nhằm chứng minh sự phù hợp của việc xác định đường cơ sở này với Công ước Liên hợp quốc về luật biển năm 1982 Thông qua việc nghiên cứu, bài viết sẽ làm rõ các cơ sở lý luận liên quan đến vấn đề này.

- Tìm hiểu về đường cơ sở của Việt Nam theo Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1982

Khóa luận sẽ tập trung vào việc xác định và khắc phục một số khó khăn, hạn chế cần hoàn thiện Để đạt được mục tiêu này, các nhiệm vụ cụ thể sẽ được thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề tồn tại.

- Tìm hiểu các văn bản pháp luật liên quan đến cách xác định đường cơ sở của Việt Nam

- Tìm hiểu các quá trình thảo luận, các Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam liên quan đến đường cơ sở

- Đánh giá về đường cơ sở của Việt Nam, cách xác định đường cơ sở của Việt Nam hiện nay

- Chỉ ra một số hạn chế và phương hướng hoàn thiện đường cơ sở.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu

a Đối tượng Đối tượng nghiên cứu của đề tài là đường cơ sở của Việt Nam thông qua

Bài viết này trình bày Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đường cơ sở năm 1982 Để hiểu rõ hơn về nội dung đề tài khóa luận, tôi đã áp dụng nhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó phương pháp tổng hợp được sử dụng chủ yếu trong quá trình thu thập tài liệu Khóa luận còn áp dụng các phương pháp khoa học như phương pháp thống kê, phương pháp so sánh luật học, với phương pháp tổng hợp và phân tích là hai phương pháp chính Bên cạnh đó, việc sử dụng phương pháp sưu tầm giúp thu thập tài liệu liên quan đến đề tài một cách hiệu quả.

Ý nghĩa lí luận và thực tiễn

Đề tài này không chỉ là cơ sở lý luận cho việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về biển mà còn là tài liệu tham khảo hữu ích cho nghiên cứu, giảng dạy và tìm hiểu các vấn đề liên quan đến đường cơ sở của Việt Nam Bên cạnh đó, nó cung cấp thông tin cần thiết về đường cơ sở, chỉ ra những điểm cần cải thiện, từ đó giúp Nhà nước xây dựng chính sách biển chính xác và phù hợp với luật quốc tế cũng như đặc điểm quốc gia.

Bố cục của đề tài

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài còn có phần nội dung gồm 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề lí luận chung về luật biển quốc tế; Công ước của Liên hợp quốc về luật biển năm 1982; Đường cơ sở theo Công ước của Liên hợp quốc về luật biển năm 1982 Chương 2: Thực tiễn đường cơ sở của Việt Nam - sự phù hợp với

Công ước của Liên hợp quốc về luật biển năm 1982

Chương 3: Những vấn đề pháp lí liên quan đến việc hoàn thiện đường cơ sở của Việt Nam.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ LUẬT BIỂN QUỐC TẾ; CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN NĂM 1982; ĐƯỜNG CƠ SỞ THEO CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN NĂM 1982

Khái quát chung về luật biển quốc tế

Không gian sống của con người trên trái đất bao gồm ba phần chính: đất, biển và trời, trong đó biển có vai trò quan trọng trong thương mại quốc tế Việc trao đổi hàng hóa qua biển đã diễn ra từ lâu, dẫn đến sự hình thành pháp luật quốc tế về biển Khởi đầu từ Sắc chỉ ‘Inter Coctera’ của Giáo hoàng Alexandre VI vào ngày 4 tháng 5 năm 1493, pháp luật này đã phát triển qua các tập quán của một số quốc gia và được củng cố qua bốn hội nghị quốc tế hiện đại.

Hội nghị pháp điển hóa luật quốc tế LaHaye năm 1930 đã đạt được hai thành công quan trọng: công nhận quyền lãnh hải của các quốc gia với chiều rộng tối thiểu là ba hải lý và xác lập một vùng tiếp giáp lãnh hải.

Hội nghị lần 1 của Liên hợp quốc về luật biển diễn ra vào năm 1956 tại Geneva, Thụy Sĩ, đã đạt được bốn Hiệp định quan trọng vào năm 1958, bao gồm: Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp (có hiệu lực từ 10 tháng 9 năm 1964), Công ước về thềm lục địa (có hiệu lực từ 10 tháng 6 năm 1964), Công ước về hải phận quốc tế (có hiệu lực từ 30 tháng 9 năm 1962), và Công ước về nghề cá và bảo tồn tài nguyên sống ở hải phận quốc tế (có hiệu lực từ 20 tháng 3 năm 1966) Mặc dù hội nghị này được coi là thành công, nhưng vẫn còn nhiều vấn đề quan trọng chưa được giải quyết, đặc biệt là bề rộng của vùng lãnh hải.

Hội nghị lần 2 của Liên hợp quốc về luật biển diễn ra vào năm 1960 tại Geneva, nhưng không đạt được tiến triển nào đáng kể sau sáu tuần thảo luận Các nước đang phát triển chủ yếu tham gia với vai trò khách mời, trong khi các quốc gia như Mỹ và Liên minh châu Âu chiếm ưu thế trong các cuộc đàm phán.

Xô mà không nói lên được tiếng nói của mình

Hội nghị lần thứ 3 của Liên hợp quốc về luật biển được tổ chức tại New York vào năm 1973, với mục tiêu giảm thiểu sự thống trị của các nhóm quốc gia trong đàm phán bằng cách áp dụng quy trình đồng thuận thay vì bỏ phiếu đa số Sự kiện này thu hút hơn 160 quốc gia tham gia và kéo dài đến năm 1982, góp phần giải quyết nhiều vấn đề pháp lý liên quan đến biển Quan trọng nhất, hội nghị đã thông qua Công ước 1982 về luật biển tại Montegobay, Jamaica, vào ngày 10 tháng 12 năm 1982, với 320 điều khoản, 17 phần và 9 phụ lục Công ước này được coi là bản hiến pháp về biển của cộng đồng quốc tế, bao quát toàn diện các vấn đề pháp lý, kinh tế, khoa học kỹ thuật, hợp tác và giải quyết tranh chấp.

Luật biển, một ngành luật quốc tế quan trọng, đã phát triển từ những tập quán cổ xưa và ngày càng hoàn thiện qua thời gian hợp tác giữa các quốc gia Nó điều chỉnh việc sử dụng và quản lý không gian biển, quy định quyền hạn và nghĩa vụ của các quốc gia, bao gồm cả quốc gia có biển và không có biển Luật biển không chỉ liên quan đến việc thực thi chủ quyền mà còn mở rộng các chức năng cộng đồng như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học và khai thác tài nguyên Sự phát triển này đã tạo ra một hệ thống pháp lý vững chắc, góp phần vào việc thực hiện chủ quyền của các quốc gia trên toàn cầu.

Luật biển có thể được định nghĩa là tập hợp các nguyên tắc và quy phạm pháp lý quốc tế do các chủ thể của luật quốc tế thống nhất xây dựng, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong khai thác, sử dụng và quản lý biển Sự hình thành của luật biển quốc tế không chỉ góp phần duy trì hòa bình và an ninh toàn cầu, mà còn yêu cầu các chủ thể của luật quốc tế tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của luật này.

Các nguyên tắc của luật biển quốc tế:

Nguyên tắc trong luật biển quốc tế là những tư tưởng chỉ đạo quan trọng, bao trùm toàn bộ hệ thống quan hệ pháp luật liên quan đến biển Các chủ thể phải tuân thủ không chỉ những nguyên tắc chung của luật quốc tế như bình đẳng về chủ quyền, cấm đe dọa hay sử dụng vũ lực, hòa bình giải quyết tranh chấp, không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác, nghĩa vụ hợp tác giữa các quốc gia, quyền tự quyết của dân tộc, và thực hiện cam kết quốc tế một cách thiện chí, mà còn phải tuân thủ các quy định riêng biệt trong lĩnh vực luật biển.

Nguyên tắc tự do biển cả là quyền cơ bản của con người khi tham gia các hoạt động trên biển Theo Điều 86 của Công ước Luật Biển 1982, biển cả được định nghĩa là các vùng biển không thuộc lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế hay nội thủy của một quốc gia, cũng như không nằm trong vùng nước của quốc gia quần đảo Nguyên tắc này được công nhận là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của luật biển quốc tế, như quy định tại Điều 87 của Công ước.

Năm 1982, các quốc gia được công nhận quyền tự do biển cả với 6 quyền cơ bản: quyền tự do hàng hải, hàng không, đặt cáp hoặc ống dẫn ngầm, xây dựng đảo nhân tạo, đánh bắt hải sản, và nghiên cứu khoa học Biển được coi là tài sản chung, do đó nguyên tắc tự do biển cả áp dụng cho tất cả các quốc gia, bao gồm cả những quốc gia không có biển, với mục đích khai thác và sử dụng biển vì hòa bình và phát triển Tuy nhiên, các quốc gia cần tôn trọng quyền lợi và tự do biển cả của nhau, vì nguyên tắc này không cho phép bất kỳ quốc gia nào áp đặt chủ quyền lên một phần nào đó của biển cả Nguyên tắc này áp dụng không chỉ ở biển cả mà còn trong các vùng biển đặc thù của quốc gia, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các quốc gia và cộng đồng quốc tế, từ biển cả vào đất liền và dừng lại trước nội thủy, đảm bảo sự công bằng cho tất cả các quốc gia.

Nguyên tắc đất thống trị biển thể hiện học thuyết Resnullius, cho phép quốc gia ven biển mở rộng chủ quyền ra biển Theo Điều 2 của Công ước luật biển năm 1982, lãnh thổ là điều kiện tiên quyết để mở rộng chủ quyền quốc gia ra vùng nước lãnh hải và các vùng khác Chủ quyền của quốc gia quần đảo trên các đảo của mình là cơ sở để cộng đồng quốc tế công nhận và mở rộng quyền lực ra vùng nước quần đảo, bất kể khoảng cách xa bờ Tuy nhiên, việc mở rộng chủ quyền không phải là vô hạn, nhằm bảo đảm sự tồn tại của vùng biển quốc tế Nguyên tắc này cũng yêu cầu không làm thay đổi tự nhiên trong phân định biển, cho phép mỗi quốc gia hưởng phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ ra biển Nguyên tắc đất thống trị biển từ nội thủy đến biển cả thể hiện sự cân bằng giữa quyền lực quốc gia và tự do biển cả.

Nguyên tắc di sản chung của loài người, theo nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc tháng 12 năm 1970, xác định tài sản không thể phân chia thuộc quyền sở hữu của cộng đồng quốc tế, áp dụng cho vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển ngoài quyền tài phán quốc gia Nguyên tắc này nhấn mạnh rằng vùng biển này không thuộc quyền sở hữu của bất kỳ quốc gia hay tổ chức nào, tài nguyên trong vùng không được chiếm hữu và phải được sử dụng vào mục đích hòa bình Các hoạt động trong vùng cần được thực hiện vì lợi ích toàn thể loài người, với việc thăm dò và khai thác tài nguyên thông qua cơ quan quyền lực quốc tế Nguyên tắc này đặc biệt có lợi cho các quốc gia đang phát triển, tạo điều kiện cho họ tham gia quản lý và sử dụng tài nguyên vùng đáy biển, vốn trước đây chỉ thuộc về các quốc gia công nghiệp Việc quy định nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành và thực hiện chế độ pháp lý về khai thác tài nguyên thiên nhiên ở đáy biển và lòng đất dưới đáy biển.

Nguyên tắc công bằng trong luật biển quốc tế khẳng định rằng biển cả không thuộc chủ quyền của bất kỳ quốc gia nào, đồng thời thừa nhận quyền sử dụng biển của các quốc gia không có biển Điều này đảm bảo rằng mọi quốc gia, dù có biển hay không, đều có quyền khai thác tài nguyên biển vào mục đích hòa bình mà không phân biệt Nguyên tắc này cũng nhấn mạnh rằng việc phân định biển cần công bằng, dựa trên các hoàn cảnh cụ thể, nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các quốc gia ven biển Hơn nữa, vùng đáy biển được xem là di sản chung của nhân loại, yêu cầu sự đồng thuận của cộng đồng quốc tế trong việc khai thác Do đó, để nguyên tắc công bằng phát huy hiệu quả, cần có sự hợp tác thiện chí giữa các quốc gia hướng tới mục tiêu công bằng và phát triển bền vững cho nhân loại.

Bốn nguyên tắc cơ bản của luật biển quốc tế, mỗi nguyên tắc mang ý nghĩa pháp lý riêng, thể hiện sự nhận thức về tầm quan trọng của biển Những quy tắc này yêu cầu các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế tuân thủ nghiêm túc Luật biển quốc tế phản ánh cuộc đấu tranh giữa nguyên tắc đất thống trị biển và nguyên tắc tự do biển cả.

Khái quát chung về Công ước của Liên hợp quốc về luật biển năm 1982

Công ước Liên hiệp quốc về luật biển, hay còn gọi là UNCLOS, được thông qua vào năm 1982 tại Hội nghị quốc tế lần thứ 3 về biển, là một văn kiện quan trọng trong việc quản lý và khai thác biển Công ước này tạo ra khuôn khổ pháp lý cho sự hợp tác giữa các quốc gia và các chủ thể khác trong luật quốc tế, nhằm giải quyết các vấn đề liên quan đến biển Với 320 điều khoản được chia thành 17 phần, UNCLOS thể hiện nỗ lực của cộng đồng quốc tế trong việc pháp điển hóa các quy định về luật biển.

Công ước luật biển, có hiệu lực từ ngày 16 tháng 11 năm 1994, được phê chuẩn bởi nước thứ 60 - Guyana vào ngày 16 tháng 11 năm 1993, đã thu hút sự tham gia của 108 quốc gia vào tháng 11 năm 1996 Hiệp định 1994, điều chỉnh phần IX của Công ước, cũng có hiệu lực từ ngày 28 tháng 7 năm 1995, trở thành một phần không thể tách rời của Công ước Công ước này quy định quyền và trách nhiệm của các quốc gia trong việc sử dụng biển, đồng thời thiết lập các hướng dẫn rõ ràng cho hoạt động kinh doanh, bảo vệ môi trường và quản lý tài nguyên thiên nhiên đại dương.

Công ước Luật Biển năm 1982 thiết lập các nguyên tắc và quy phạm pháp luật quốc tế điều chỉnh chế độ pháp lý của các vùng biển Nội dung công ước bao gồm các điều khoản quan trọng về giới hạn biển, giao thông đường biển, trạng thái đảo, chế độ quá cảnh, vùng đặc quyền kinh tế, quyền tài phán thềm lục địa, khai thác tài nguyên lòng biển sâu, bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học và giải quyết tranh chấp Công ước cũng quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của các quốc gia có biển và không có biển trong việc sử dụng, khai thác và bảo vệ môi trường biển.

Công ước qui định giới hạn cho các vùng, khu vực, tính từ đường cơ sở và được định nghĩa rõ ràng Bao gồm:

Nội thủy là vùng biển và đường thủy nằm bên trong đường cơ sở, nơi quốc gia ven biển có quyền tự do áp đặt luật và kiểm soát việc sử dụng tài nguyên Trong khu vực này, các tàu thuyền nước ngoài không được phép tự do đi lại.

Lãnh hải là vùng biển nằm ngoài đường cơ sở với chiều rộng 12 hải lý, nơi quốc gia ven biển có quyền tự do ban hành luật và kiểm soát việc khai thác tài nguyên Tàu thuyền nước ngoài được phép "đi qua không gây hại" mà không cần xin phép, tuy nhiên, các hoạt động như đánh cá, gây ô nhiễm, sử dụng vũ khí và do thám không được coi là "không gây hại" Nước chủ cũng có quyền tạm thời cấm việc "qua lại không gây hại" ở một số khu vực trong lãnh hải để bảo vệ an ninh quốc gia.

Vùng tiếp giáp lãnh hải là vành đai rộng 12 hải lý nằm ngoài giới hạn 12 hải lý của lãnh hải Tại khu vực này, quốc gia ven biển có quyền thi hành luật pháp đối với các hoạt động như buôn lậu và nhập cư bất hợp pháp.

Vùng đặc quyền kinh tế là khu vực rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở, nơi quốc gia ven biển có quyền độc quyền khai thác tất cả các tài nguyên thiên nhiên Trong vùng này, các nước khác được phép tự do di chuyển bằng đường thủy và đường không, nhưng phải tuân thủ sự kiểm soát của quốc gia ven biển Ngoài ra, nước ngoài cũng có quyền lắp đặt các đường ống ngầm và cáp ngầm trong khu vực này.

Thềm lục địa là vùng lãnh thổ mở rộng của đất liền ra tới mép lục địa hoặc 200 hải lý từ đường cơ sở, tùy theo giá trị nào lớn hơn Thềm lục địa của một quốc gia có thể kéo dài ra ngoài 200 hải lý cho đến mép tự nhiên của lục địa, nhưng không được vượt quá 350 hải lý và không được ra ngoài đường đẳng sâu 2500m trong khoảng cách quá 100 hải lý Tại khu vực này, quốc gia chủ quản có quyền khai thác độc quyền khoáng sản và các nguyên liệu không phải sinh vật sống.

Trong giai đoạn đầu khi Công ước luật biển chưa có hiệu lực, các quốc gia đã áp dụng rộng rãi các điều luật trong Công ước, vì chúng được xây dựng trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên và một số tập quán quốc tế được công nhận, đã được pháp điển hóa thành điều luật Các quốc gia đã thừa nhận và vận dụng những quy định này vào bối cảnh của mình.

Công ước luật biển năm 1982 thể hiện mong muốn của các quốc gia trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến luật biển thông qua sự hiểu biết và hợp tác Các vấn đề về biển được xem xét đồng bộ, nhằm duy trì hòa bình, công lý và tiến bộ cho tất cả các dân tộc Công ước đóng góp vào việc thiết lập trật tự pháp lý cho các biển và đại dương, giúp sử dụng công bằng và hiệu quả tài nguyên, bảo tồn nguồn lợi sinh vật, và bảo vệ môi trường biển Nó cũng hướng tới việc thiết lập một trật tự kinh tế quốc tế công bằng, xem xét lợi ích và nhu cầu của toàn nhân loại, đặc biệt là của các nước đang phát triển, dù có biển hay không.

Công ước luật biển 1982 được đánh giá là một văn bản pháp lý công bằng và tiến bộ, phản ánh sự cân bằng giữa hai trường phái: tự do biển cả và chủ quyền quốc gia Nó không chỉ cung cấp cơ sở pháp lý quốc tế quan trọng cho các quốc gia trong việc quản lý, khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên biển, mà còn là nền tảng pháp lý để giải quyết các tranh chấp liên quan đến biển.

Công ước luật biển 1982 không phải là một văn bản tĩnh, mà luôn có sự phát triển và hoàn thiện Trong suốt thời gian tồn tại, nhiều công ước và thỏa thuận quốc tế đã được bổ sung, như Thỏa thuận ngày 29/7/1994 về thực hiện phần XI của Công ước, cũng như các công ước liên quan đến bảo tồn và quản lý các đàn cá xuyên biên giới và di cư Ngoài ra, Nghị định thư về trấn áp các hành động không hợp pháp chống lại an toàn hàng hải cũng được ban hành năm 1999 Việc thực thi Công ước luật biển 1982 đã trở thành nghĩa vụ của các quốc gia, đặc biệt là những quốc gia có biển.

Đường cơ sở theo Công ước của Liên hợp quốc về luật biển năm 1982

1.3.1 Khái niệm đường cơ sở Đường cơ sở là một khái niệm pháp lý, quyết định ở đâu thì chủ quyền và quyền chủ quyền của một quốc gia bắt đầu và kết thúc Theo cách hiểu chung nhất về đường cơ sở thì đường cơ sở của một quốc gia là đường cơ bản mà quốc gia ven biển có thể đơn phương xác định dùng làm căn cứ để tính chiều rộng lãnh hải và các vùng biển khác Như vậy, các quốc gia có biển có thể tự xác định đường cơ sở của nước mình một cách hợp pháp nhưng phải tuân thủ những qui định và nguyên tắc của luật quốc tế Theo qui định về đường cơ sở trong Công ước luật biển 1982, có thể hình dung về đường cơ sở theo sơ đồ sau:

Đường cơ sở, hay còn gọi là "đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải", là ranh giới phía trong của lãnh hải và phía ngoài của nội thủy, được quy định bởi các quốc gia ven biển và quốc gia quần đảo theo Công ước của Liên hợp quốc về luật biển năm 1982 Đường cơ sở không chỉ là căn cứ để xác định ranh giới lãnh hải mà còn là cơ sở để xác định phạm vi quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia đối với các vùng biển như vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Sự khác biệt giữa đường cơ sở của quốc gia ven biển và quốc gia quần đảo chủ yếu do sự khác nhau về địa hình và lãnh thổ, đồng thời việc qui định đường cơ sở của quốc gia quần đảo cũng là cơ sở để xác định chế độ pháp lý của vùng nước quần đảo Hệ thống đường cơ sở thống nhất giúp giới hạn phạm vi chủ quyền của quốc gia ven biển đối với các đại dương.

1.3.2 Phương pháp xác định đường cơ sở

Để phù hợp với địa hình thực tế của từng quốc gia và tuân thủ luật quốc tế, hiện nay, phương pháp xác định đường cơ sở được phân chia thành nhiều loại.

2 loại phổ biến nhất, đó là đường cơ sở thông thường và đường cơ sở thẳng a Phương pháp đường cơ sở thông thường

Theo Điều 5 của Công ước Luật Biển, đường cơ sở thông thường được xác định là ngấn nước triều thấp nhất dọc theo bờ biển, như được ghi trên các hải đồ tỉ lệ lớn được quốc gia ven biển công nhận Đường cơ sở này phản ánh chính xác hơn về đường bờ biển thực tế và được áp dụng cho cả các đảo san hô hoặc đảo có đá ngầm ven bờ Phương pháp này giúp hạn chế sự mở rộng các vùng biển thuộc quyền tài phán của quốc gia ven biển.

Quốc gia ven biển xác định đường cơ sở bằng cách chọn một ngày, tháng, năm khi mực nước thủy triều xuống thấp nhất dọc bờ biển Dựa vào các điểm và tọa độ tại thời điểm đó, quốc gia sẽ tuyên bố đường cơ sở của mình Phương pháp này áp dụng cho các quốc gia có bờ biển thẳng, bằng phẳng, không có đoạn lồi lõm, với thủy triều ổn định và rõ ràng.

Tuy nhiên, xác định đường cơ sở theo phương pháp thông thường có một số hạn chế sau:

Các quốc gia thường xác định đường cơ sở của mình dựa trên các điểm tọa độ thể hiện ngấn nước thủy triều xuống thấp nhất dọc theo bờ biển Tuy nhiên, điều này có thể dẫn đến việc các quốc gia đưa ra tuyên bố không chính xác nhằm mở rộng nội thủy của mình Do đó, độ chính xác của các tọa độ và điểm xác định dựa vào ngấn nước thủy triều thường không cao.

Cộng đồng quốc tế sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc xác minh tính chính xác của các điểm và tọa độ mà các quốc gia ven biển đã công bố.

Theo phương pháp đường cơ sở thông thường, các quốc gia ven biển chỉ có một vùng nội thủy hẹp, điều này giải thích tại sao nhiều quốc gia không muốn hoàn toàn áp dụng phương pháp này, mặc dù nó được quy định trong Công ước luật biển.

1982 là hoàn toàn phù hợp b Phương pháp đường cơ sở thẳng Điều 7 Công ước luật biển 1982 qui định về đường cơ sở thẳng như sau:

“ĐIỀU 7 Đường cơ sở thẳng

1 Ở nơi nào bờ biển bị khoét sâu và lồi lõm hoặc nếu có một chuỗi đảo nằm sát ngay và chạy dọc theo bờ biển, phương pháp đường cơ sở thẳng nối liền các điểm thích hợp có thể được sử dụng để kẻ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải

2 Ở nơi nào bờ biển cực kỳ không ổn định do có một châu thổ và những đặc điểm tự nhiên khác, các điểm thích hợp có thể được lựa chọn dọc theo ngấn nước triều thấp nhất có chuyển dịch vào phía trong bờ, các đường cơ sở đã được vạch ra vẫn có hiệu lực cho tới khi các quốc gia ven biển sửa đổi đúng theo Công ước

3 Tuyến các đường cơ sở không được đi chệch quá xa hướng chung của bờ biển, và các vùng biển ở bên trong các đường cơ sở này phải gắn với đất liền đủ đến mức đạt được chế độ nội thủy

4 Các đường cơ sở thẳng không được kéo đến hoặc xuất phát từ các bãi cạn lúc nổi lúc chìm, trừ trường hợp ở đó có những đèn biển hoặc các thiết bị tương tự thường xuyên nhô trên mặt nước hoặc việc vạch các đường cơ sở thẳng đó đã được sự thừa nhận chung của quốc tế

5 Trong những trường hợp mà phương pháp kẻ đường cơ sở thẳng được áp dụng theo khoản 1, khi ấn định một số đoạn đường cơ sở có thể tính đến những lợi ích kinh tế riêng biệt của khu vực đó mà thực tế và tầm quan trọng của nó đã được một quá trình sử dụng lâu dài chứng minh rõ ràng

6 Phương pháp đường cơ sở thẳng do một quốc gia áp dụng không được làm cho lãnh hải của một quốc gia khác bị tách khỏi biển cả hoặc một vùng đặc quyền kinh tế” [3,5]

Theo Điều 7 của Công ước luật biển, đường cơ sở thẳng được xác định là đường nối liền các điểm thích hợp, áp dụng ở những khu vực bờ biển bị khoét sâu và lồi lõm hoặc có chuỗi đảo gần bờ Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều đường cơ sở thẳng không tuân thủ quy định của Công ước 1982, với các trường hợp như: đường cơ sở tại bờ biển không bị khoét sâu (Australia, Iceland), không có chuỗi đảo (Italy), đi chệch hướng bờ biển (Cuba, Mexico), vùng biển bên trong không liên kết với đất liền (Myanmar, Cuba), và sử dụng bãi cạn không phù hợp (Đức, Sudan) Một số thuật ngữ trong Công ước cũng cần được làm rõ để hiểu đúng nội dung.

- Bờ biển bị khoét sâu và lồi lõm:

THỰC TIỄN ĐƯỜNG CƠ SỞ CỦA VIỆT NAM, SỰ PHÙ HỢP VỚI CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN NĂM 1982

Ngày đăng: 16/09/2021, 17:31

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Beazley, P.B (1971), “Các đường cơ sở lãnh hải”. Tạp chí Thủy đạc quốc tế số 48 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Các đường cơ sở lãnh hải”
Tác giả: Beazley, P.B
Năm: 1971
7. Luật biển của Liên Hợp Quốc, Đường cơ sở, Văn phòng biển(1989) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đường cơ sở
10. Nguyễn Hồng Thao (1997). Giáo trình chuyên khảo về luật biển quốc tế. Nxb Đại Học Huế Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình chuyên khảo về luật biển quốc tế
Tác giả: Nguyễn Hồng Thao
Nhà XB: Nxb Đại Học Huế
Năm: 1997
11. Nguyễn Hồng Thao (1998). Luật biển và chính sách biển của Việt Nam trong việc thực thi Công ước của Liên Hợp Quốc về luật biển năm 1982.Viện Thông tin khoa học xã hội, Trung tâm khoa học, xã hội nhân văn Quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật biển và chính sách biển của Việt Nam trong việc thực thi Công ước của Liên Hợp Quốc về luật biển năm 1982
Tác giả: Nguyễn Hồng Thao
Năm: 1998
12. Nguyễn Hồng Thao. “Những điều cần biết về luật biển”, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1997 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những điều cần biết về luật biển
Nhà XB: Nxb. Công an nhân dân
13. Nguyễn Hồng Thao (2005). Một số vấn đề cơ bản trong xây dựng dự thảo luật các vùng biển Việt Nam. Tham luận tại hội thảo các chính sách pháp luật về biển và sự phát triển bền vững, Hạ Long tháng 7/2005 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề cơ bản trong xây dựng dự thảo luật các vùng biển Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Hồng Thao
Năm: 2005
15. Nguyễn Trung Tín (2005). Giáo trình luật biển quốc tế. Nxb Công an nhân dân Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình luật biển quốc tế
Tác giả: Nguyễn Trung Tín
Nhà XB: Nxb Công an nhân dân
Năm: 2005
16. Nguyễn Văn Âu (2000). Địa lý tự nhiên biển đông. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Địa lý tự nhiên biển đông
Tác giả: Nguyễn Văn Âu
Nhà XB: Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 2000
17. Reisman.W.M, và Westerman, G.S (1992). Đường cơ sở thẳng trong phân định biên giới quốc tế, London. Macmillan Sách, tạp chí
Tiêu đề: ). Đường cơ sở thẳng trong phân định biên giới quốc tế
Tác giả: Reisman.W.M, và Westerman, G.S
Năm: 1992
18. Sohn.L.B (1993), “Xem xét đường cơ sở’, Charney và Alexander, Biên giới biển quốc tế, Tập 4, Nxb Martinus Nijhoff Dordrecht/ Boston/London, tr 153- 161 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Xem xét đường cơ sở’
Tác giả: Sohn.L.B
Nhà XB: Nxb Martinus Nijhoff Dordrecht/ Boston/ London
Năm: 1993
19. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008). Giáo trình Luật quốc tế. Nxb Công an nhân dân Sách, tạp chí
Tiêu đề: ). Giáo trình Luật quốc tế
Tác giả: Trường Đại học Luật Hà Nội
Nhà XB: Nxb Công an nhân dân
Năm: 2008
22. Các trang web tham khảo:  http://biengioilanhtho.gov.vn/vie/duongcosolagi-co-nd-cb117a3a.aspx Link
3. Công ước quốc tế của Liên Hợp Quốc về luật biển (1996). Nxb Tp.Hồ Chí Minh, Tp Hồ Chí Minh Khác
4. Hiệp định về vùng nước lịch sử chung giữa Việt Nam - Campuchia ngày 7 tháng 7 năm 1982 Khác
5. Hiệp định phân định lãnh hải, cùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa Việt Nam - Trung Quốc ngày 25 tháng 12 năm 2000 Khác
9. Nghị quyết về việc phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về luật biển năm 1982, được Quốc Hội Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam khóa IX kì họp thứ V thông qua ngày 23/6/1994 Khác
20. Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam (12/11/1982) Khác
21. Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 12 tháng 5 năm 1977 về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa Việt Nam Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 1. Tọa độ cỏc điểm nối đường cơ sở của Việt Nam - Đường cơ sở của việt nam   sự phù hợp với công ước của liên hợp quốc về luật biển năm 1982
Bảng 1. Tọa độ cỏc điểm nối đường cơ sở của Việt Nam (Trang 43)
Theo tuyờn bố về đường cơ sở và bảng tọa độ cỏc điểm nối đường cơ sở của Việt Nam, cú thể hỡnh dung tuyến đường cơ sở của nước ta theo bản  đồ sau:  - Đường cơ sở của việt nam   sự phù hợp với công ước của liên hợp quốc về luật biển năm 1982
heo tuyờn bố về đường cơ sở và bảng tọa độ cỏc điểm nối đường cơ sở của Việt Nam, cú thể hỡnh dung tuyến đường cơ sở của nước ta theo bản đồ sau: (Trang 44)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w