1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Phát triển kinh tế xã hội gắn với việc bảo tồn các giá trị văn hóa của dân tộc thái ở huyện quế phong, tỉnh nghệ an

76 23 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Phát Triển Kinh Tế - Xã Hội Gắn Với Việc Bảo Tồn Các Giá Trị Văn Hóa Của Dân Tộc Thái Ở Huyện Quế Phong, Tỉnh Nghệ An
Tác giả Lang Văn Sáng
Người hướng dẫn ThS. Phan Quốc Huy
Trường học Trường Đại Học Vinh
Chuyên ngành Cử Nhân Chính Trị - Luật
Thể loại Khóa Luận Tốt Nghiệp
Năm xuất bản 2012
Thành phố Nghệ An
Định dạng
Số trang 76
Dung lượng 704,86 KB

Cấu trúc

  • A. MỞ ĐẦU (7)
    • 1. Tính cấp thiết của đề tài (7)
    • 2. Tình hình nghiên cứu đề tài (8)
    • 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu (9)
    • 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (10)
    • 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu (10)
    • 6. Đóng góp khoa học (10)
    • 7. Kết cấu của đề tài (11)
  • B. NỘI DUNG (12)
  • CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, TÀI NGUYÊN VÀ TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI HUYỆN QUẾ PHONG, TỈNH NGHỆ (12)
    • 1.1. Đặc điểm về tự nhiên huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An (12)
    • 1.2. Đặc trưng văn hóa dân tộc Thái ở huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An (15)
      • 1.2.1. Giá trị văn hóa vật chất (15)
      • 1.2.2. Giá trị văn hoá tinh thần (21)
  • CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI GẮN VỚI VIỆC BẢO TỒN CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC THÁI Ở HUYỆN QUẾ PHONG, TỈNH NGHỆ AN (39)
    • 2.1. Thành tựu phát triển kinh tế-xã hội huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An giai đoạn 2006-2010 (39)
    • 2.2. Sự kết hợp phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo tồn các giá trị văn hóa dân tôc Thái ở huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An (47)
      • 2.2.1. Về văn hóa vật chất (47)
      • 2.2.2. Các giá trị văn hóa tinh thần (53)
      • 2.2.3. Các giá trị văn hóa với tư cách là các thiết chế xã hội (58)
      • 2.3.1. Một số định hướng lớn nhằm phát triển kinh tế-xã hội gắn với bảo tồn các giá trị văn hoá của dân tộc Thái ở huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An (60)
      • 2.3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển kinh tế-xã hội gắn với bảo tồn các giá trị văn hóa của dân tộc Thái ở huyện Quế phong (64)
    • C. KẾT LUẬN (74)
    • D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO (76)

Nội dung

NỘI DUNG

1.1 Đặc điểm về tự nhiên huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An

Huyện Quế Phong được thành lập theo Quyết định số 52/CP ngày 19 tháng 4 năm 1963, tách ra từ huyện Quỳ Châu cũ, bao gồm 03 huyện: Quỳ Châu, Quỳ Hợp và Quế Phong Khi mới thành lập, huyện Quế Phong có 6 xã: Châu Kim, Châu Thôn, Cắm Muộn, Châu Hùng, Châu Long và Thông Thụ Huyện nằm ở miền núi biên giới phía Tây Bắc tỉnh Nghệ An, với 73,10 km đường biên giới giáp huyện Sầm Tớ, tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào Hiện nay, huyện Quế Phong có 13 xã và 01 thị trấn, được chia thành 3 vùng dân cư.

Vùng Tây Bắc gồm các xã: Thông Thụ, Đồng Văn và Hạnh Dịch

Vùng Tây Nam gồm các xã: Tri Lễ, Nậm Nhoóng, Cắm Muộn, Quang Phong, Châu Thôn và Nậm Giải

Vùng trung tâm gồm: Thị trấn Kim Sơn, Mường Nọc, Châu Kim, Quế Sơn và Tiền Phong

Tính đến tháng 2 năm 2012, huyện có dân số hơn 6.500 người, với mật độ 34 người/km², bao gồm các dân tộc Thái, Kinh, Mông, Khơ Mú và Thổ, trong đó dân tộc thiểu số chiếm 90,6% Khoảng 78% dân số sống ở vùng nông thôn, chủ yếu làm nông nghiệp, và tỷ lệ hộ nghèo là 50,53%, cho thấy đời sống của người dân còn nhiều khó khăn.

Huyện Quế Phong nằm ở phía tây bắc tỉnh Nghệ An, tọa độ từ 19°26' đến 20° vĩ độ bắc và từ 104°32' đến 105°10' kinh đông Huyện này giáp ranh với tỉnh Thanh Hóa ở phía bắc, huyện Tương Dương ở phía nam, huyện Quỳ Châu ở phía đông, và huyện Sầm Tớ, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ở phía tây.

KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, TÀI NGUYÊN VÀ TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI HUYỆN QUẾ PHONG, TỈNH NGHỆ

Đặc điểm về tự nhiên huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An

Huyện Quế Phong được thành lập theo Quyết định số 52/CP ngày 19 tháng 4 năm 1963, tách từ huyện Quỳ Châu cũ, bao gồm 03 huyện mới: Quỳ Châu, Quỳ Hợp và Quế Phong Ban đầu, huyện có 6 xã: Châu Kim, Châu Thôn, Cắm Muộn, Châu Hùng, Châu Long và Thông Thụ Nằm ở khu vực miền núi biên giới phía Tây Bắc tỉnh Nghệ An, huyện có 73,10 km đường biên giới tiếp giáp với huyện Sầm Tớ, tỉnh Hủa Phăn, Lào Hiện tại, Quế Phong có 13 xã và 01 thị trấn, được chia thành 3 vùng dân cư.

Vùng Tây Bắc gồm các xã: Thông Thụ, Đồng Văn và Hạnh Dịch

Vùng Tây Nam gồm các xã: Tri Lễ, Nậm Nhoóng, Cắm Muộn, Quang Phong, Châu Thôn và Nậm Giải

Vùng trung tâm gồm: Thị trấn Kim Sơn, Mường Nọc, Châu Kim, Quế Sơn và Tiền Phong

Tính đến tháng 2 năm 2012, huyện có dân số hơn 6.500 người, với mật độ 34 người/km², bao gồm các dân tộc Thái, Kinh, Mông, Khơ Mú, Thổ, trong đó dân tộc thiểu số chiếm 90,6% Khoảng 78% dân số sinh sống ở vùng nông thôn, chủ yếu làm nông nghiệp, và tỷ lệ hộ nghèo đạt 50,53%, cho thấy đời sống của người dân còn nhiều khó khăn.

Huyện Quế Phong tọa lạc ở phía tây bắc tỉnh Nghệ An, với tọa độ từ 19°26' đến 20° vĩ độ bắc và từ 104°32' đến 105°10' kinh đông Huyện này giáp với tỉnh Thanh Hóa ở phía bắc, huyện Tương Dương ở phía nam, huyện Quỳ Châu ở phía đông, và huyện Sầm Tớ của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ở phía tây.

Vùng phía tây Quế Phong nổi bật với dãy núi trùng điệp như Huôi Ho, Con Cặm và Pú Canh Quái, trong đó đỉnh Phả Cà Tủn cao 2452m thuộc xã Nậm Giải Các dãy núi cao bao quanh xã Châu Kim và Mường Nọc tạo nên khung cảnh hùng vĩ, trong khi các dãy đá vôi ở Cắm Muộn và Quang Phong kết nối với dãy Pú Hụng, nơi có đỉnh Pú Huống cao trên 1600m, phân chia Quế Phong với huyện Tương Dương và kéo dài về Quý Châu, Quỳ Hợp Dãy Pú Quạnh, cao 1080m, ngăn cách Châu Thôn và Nậm Nhoóng Địa hình núi đồi và lèn đá tạo thành nhiều khu vực khác nhau theo các thung lũng sông như Nậm Sắm, Nậm Hạt, Nậm Tiến, Nậm Việc, Nậm Giải, Nậm Chọt, và Nậm Quang, nơi có những cánh đồng lúa nước rộng lớn cùng các bản làng đông đúc của cộng đồng các dân tộc Mường với bản sắc văn hóa đa dạng và phong phú.

Quế Phong có tổng diện tích tự nhiên 189.543,43 ha, trong đó nông nghiệp chiếm 5.373,22 ha, đất lâm nghiệp 121.080,60 ha, đất ở 337,30 ha và 62.048,15 ha đất chưa sử dụng Vùng Mường Nọc và Châu Kim nổi bật với cánh đồng lúa nước và các bản làng đông đúc, từng là trung tâm văn hóa và kinh tế của huyện Quang Phong và Cắm Muộn là khu vực lúa nước thứ hai, nổi tiếng với nhiều hang động đẹp và là nơi diễn ra các lễ hội truyền thống lâu đời như hang Thăm Mẹ Mọn và Thăm Chám.

Vùng đất này chủ yếu có thổ nhưỡng là đất latêrít vàng đỏ, với độ cao từ 400 đến 800m chứa nhiều đá phirít và đất latơritích Thảm thực vật phong phú với hơn 84 họ cây và 500 loại khác nhau, bao gồm nhiều loại quý như Pơ mu, Lát hoa, và kim giao Ngoài ra, khu vực còn có nhiều loại tre nứa, song mây, cùng các dược liệu quý như mật ong, quế và hà thủ ô Động vật nơi đây cũng rất đa dạng, với nhiều loài quý hiếm như gấu, hổ, và các loài chim như phượng hoàng đất Về khoáng sản, khu vực này có vàng, thiếc và thạch anh, cùng với các mỏ đá vôi phân bổ khắp huyện, tạo ra nguồn vật liệu xây dựng phong phú chưa được khai thác.

Quế Phong có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhưng khu vực núi cao lại mang khí hậu á ôn đới Nơi đây trải qua bốn mùa trong năm: mùa xuân mát mẻ với nhiều sương mù và độ ẩm cao, cùng với những đợt gió mùa đông bắc; mùa hè thì nóng bức.

Từ tháng 4 đến tháng 9 Phơn tây nam (gió Lào) rất nóng bức, có ngày lên tới

Mùa thu tại Quế Phong có lượng mưa nhiều, chủ yếu tập trung vào tháng 8 và tháng 9 âm lịch, trong khi mùa đông lại lạnh giá với gió đông bắc và có thể xảy ra hiện tượng nước đóng băng Mặc dù khu vực này ít bị bão, nhưng thường xuyên gặp gió lốc bất ngờ gây thiệt hại Từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa giảm đáng kể, trung bình chỉ còn khoảng 250mm.

Hệ thống sông suối Quế Phong không chỉ cung cấp nước cho sinh hoạt và tưới tiêu nông nghiệp mà còn là nguồn thủy năng và thủy sản quan trọng, đồng thời bù đắp phù sa màu mỡ cho các cánh đồng ven suối Tuy nhiên, sông ngòi nơi đây gặp nhiều khó khăn như thác ghềnh, đá ngầm, thủy chế thất thường với mùa mưa gây lũ và mùa khô sông cạn, ảnh hưởng đến giao thông Sông lớn nhất là sông Chu (Nậm Sắm) chảy từ Lào qua hai xã Thông Thụ, Đồng Văn sang Thanh Hóa, trong khi sông Nậm phát nguyên từ sườn đông dãy Trường Sơn, chảy qua xã Hành Dịch, Tiền Phong và là phụ lưu của Sông Hiếu với lưu lượng lớn Hệ thống sông suối dày đặc cùng địa hình cao tạo cơ hội phát triển thủy điện, hiện tại huyện có 06 công trình thủy điện với tổng công suất gần 280 MW, trong đó 02 công trình đã hòa vào lưới điện quốc gia Thác Sao Va cũng là điểm đến lý tưởng cho du khách khám phá vẻ đẹp tự nhiên của huyện Quế Phong.

Đặc trưng văn hóa dân tộc Thái ở huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An

Dân tộc Thái Quế Phong, như nhiều dân tộc khác trong cộng đồng Việt Nam, là một phần của dòng máu Việt Nam, đã cùng 54 dân tộc anh em trong quá trình hình thành và phát triển để xây dựng và bảo vệ tổ quốc Bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở huyện Quế Phong không chỉ mang đậm những giá trị văn hóa chung của dân tộc Việt Nam như truyền thống yêu nước, sự kiên cường và lòng tôn sư trọng đạo, mà còn chứa đựng những đặc điểm riêng biệt của địa phương Văn hóa dân tộc Thái là hệ thống các giá trị văn hóa do chính cộng đồng tạo ra, bao gồm nhiều lĩnh vực như văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.

1.2.1 Giá trị văn hóa vật chất

Nông nghiệp lúa nước là nguồn sống chính của đồng bào Thái ở huyện Quế Phong, nơi canh tác lúa nước được coi trọng hơn so với trồng trọt trên nương, chăn nuôi và thủ công nghiệp Ngoài ra, săn bắn và hái lượm sản vật tự nhiên cũng đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế của người Thái tại đây Nông nghiệp lúa nước của người Thái ở huyện Quế Phong có thể được khái quát qua các lĩnh vực chính.

Trong đời sống kinh tế và tâm thức của người Thái, ruộng nước có vị trí quan trọng, được thể hiện qua câu tục ngữ "Hày tím tá bờ tò hờ ná quang" Hệ thống dẫn nước từ sông suối vào ruộng đồng, như "guồng nước", là một sáng tạo độc đáo của người Thái, góp phần đảm bảo nguồn nước tưới cho lúa nước Tuy nhiên, do sức ép dân số, việc trồng lúa nước không đủ đáp ứng nhu cầu lương thực, khiến người Thái ở Quế Phong phải quay sang canh tác nương rẫy Dù nương rẫy có vai trò quan trọng trong cơ cấu nông nghiệp, nhưng nó cũng tiềm ẩn nguy cơ mất cân bằng sinh thái, đặc biệt trong bối cảnh dân số tăng nhanh Trên nương, ngoài lúa nếp, người Thái còn trồng nhiều loại cây khác như ngô, sắn, bông, chàm, bầu bí, đậu, tạo nên sự đa dạng trong sản xuất nông nghiệp.

Chăn nuôi đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu kinh tế của người dân, bên cạnh nông nghiệp trồng trọt, với các loại vật nuôi truyền thống như trâu, lợn, gà, vịt, và gần đây là bò, dê Mục tiêu chính của chăn nuôi là cung cấp sức kéo cho nông nghiệp và thực phẩm cho gia đình Hình thức chăn nuôi chủ yếu là chăn thả tự nhiên, dẫn đến sự phát triển hạn chế của đàn gia súc, gia cầm, với sản phẩm chủ yếu đáp ứng nhu cầu gia đình mà chưa trở thành hàng hóa thương mại Hầu hết các gia đình người Thái vẫn duy trì phương pháp chăn nuôi truyền thống, không sử dụng thức ăn công nghiệp, nhờ đó thực phẩm không chỉ ngon mà còn tốt cho sức khỏe Những sản phẩm nổi tiếng như lợn nít, vịt bầu, và gà đồi đã khẳng định chất lượng của chăn nuôi người Thái.

Người Thái ở huyện Quế Phong không chỉ chú trọng vào trồng trọt và chăn nuôi mà còn phát triển nhiều hoạt động kinh tế phụ như đan lát, thêu, và dệt thổ cẩm Họ có khả năng tự sản xuất trang phục thiết yếu hàng ngày như váy, áo, khăn piêu, niệm, chăn, màn, gối cùng các sản phẩm thổ cẩm với hoa văn tinh tế Bên cạnh đó, nghề mộc cũng phát triển mạnh mẽ, cho phép người Thái xây dựng những ngôi nhà sàn đồ sộ, vững chắc mà không cần sử dụng sắt trong thiết kế.

Người Thái không chỉ chú trọng đến kinh tế sản xuất mà còn khai thác hiệu quả nguồn lợi tự nhiên sẵn có như săn bắt muông thú, đánh bắt cá và thu hái rau củ quả để phục vụ cho đời sống hàng ngày Bên cạnh việc sử dụng nguồn lợi này làm thực phẩm, họ còn khai thác nhiều loại dược liệu quý từ rừng nhằm chữa bệnh.

Nền kinh tế của dân tộc Thái huyện Quế Phong trước đây chủ yếu là tự nhiên và tự cấp tự túc, trong đó nông nghiệp đóng vai trò quan trọng nhất Chăn nuôi chưa trở thành nghề chính, và thủ công nghiệp chỉ là nghề phụ trong gia đình Tuy nhiên, với điều kiện thiên nhiên thuận lợi và tài nguyên phong phú, huyện Quế Phong có tiềm năng phát triển nông nghiệp toàn diện.

Nhà ở truyền thống của người Thái được xây dựng bằng gỗ, tre, nứa và lợp cỏ tranh, phản ánh nét văn hóa đặc trưng của dân tộc Tại huyện Quế Phong, nhà sàn không sử dụng sắt mà thay vào đó là hệ thống dây chằng tinh xảo từ lạt tre, giang, mây và vỏ cây Các cột kèo được nối bằng đòn dầm, tạo sự chắc chắn cho ngôi nhà, giúp chống chọi với thời tiết khắc nghiệt Cấu trúc nhà gồm ba tầng: tầng dưới dành cho gia súc, tầng giữa là nơi ở của con người, và tầng trên cùng gọi là "Than" để chứa thóc lúa và đồ dùng cần thiết Thiết kế này phù hợp với quan niệm vũ trụ của người Thái, bao gồm ba tầng: Mường Phạ (mường trời), Mường lùm (trần gian) và Mường Booc đai (mường dưới đất).

Trang phục cổ truyền của dân tộc Thái huyện Quế Phong rất phong phú và đa dạng, thể hiện sự phân biệt theo giới tính Các loại trang phục được sử dụng cho nhiều dịp khác nhau, bao gồm trang phục thường ngày, lễ phục, trang phục khi qua đời và để tang, cũng như trang phục khi làm việc ngoài đồng, nương rừng Bên cạnh đó, trang phục cũng thay đổi theo mùa, từ những bộ đồ mát mẻ cho mùa hè đến những trang phục ấm áp cho những tháng đông lạnh giá.

Trang phục truyền thống của người Thái mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Nam giới thường mặc quần áo thổ cẩm màu chàm xanh hoặc chàm đen, nhưng trong vài thập kỷ qua, họ đã chuyển sang sử dụng âu phục Phụ nữ Thái, khi trưởng thành, thường mặc váy khâu liền dài chấm gót chân, chủ yếu có màu đen, với mép dưới được táp dải vải màu đỏ, xanh, vàng hoặc hoa, nhưng tuyệt đối không phải màu trắng Đầu váy có cạp khâu bằng dải vải màu đỏ, trắng hoặc xanh để tạo sự nổi bật và dễ dàng thắt lưng Áo của phụ nữ Thái thường là áo cỏn màu trắng, xanh hoặc đen, ôm sát với hàng khuy bạc trắng, đi kèm với khăn Piêu thêu hoa văn nhiều màu sắc Đồ trang sức của họ chủ yếu là xà tích, vòng bạc, hoa tai bằng bạc hoặc vàng, tạo nên vẻ đẹp truyền thống đặc trưng.

Công cụ sản xuất của dân tộc sống bằng nghề lúa nước và làm rẫy chủ yếu mang đậm yếu tố nông nghiệp, bao gồm các dụng cụ như cày, bừa và mạc phương (dùng để dập rạ trước khi cày) Ngoài ra, còn có vanh, pạ, mịt để chặt và cắt, lô (vên), chả (cuốc), bạch (cuốc nhỏ hơn dùng để làm nương), hai (dùng để gặt lúa nước), hẹp (để ngắt từng bông lúa trên nương), bán (dùng để chặt cây) và cọn pông.

(được làm bằng gỗ, dùng thay cho búa), lim (nêm) cũng được làm bằng gỗ, có hình giống rìu tứ giác, dùng để chẻ củi

Văn hóa ẩm thực của người Thái phản ánh sự tận dụng hiệu quả từ thiên nhiên với nguồn động thực vật phong phú Các món ăn được chế biến đơn giản, dễ làm và không tốn nhiều thời gian hay gia vị nhưng vẫn mang đến hương vị thơm ngon đặc trưng Một số món ăn độc đáo của người Thái có thể kể đến như

Phắc chúp, một món rau trộn hấp dẫn, được chế biến từ nhiều loại rau như ngọn bầu, bí, khoai lang và măng Các nguyên liệu này được luộc chín, trộn đều với muối, mì chính, tỏi và lạc giã nhỏ để gia tăng hương vị Sau khi để ngấm gia vị trong vài phút, món ăn được nêm nếm lại cho vừa ăn và dọn ra đĩa Phắc chúp mang đến hương thơm đặc trưng của rau và tỏi, rất phù hợp để thưởng thức cùng cơm nóng.

Cánh ột là món canh phổ biến trong bữa ăn của người Thái ở huyện Quế Phong, được chế biến với nhiều loại rau khác nhau, có thể đơn giản hoặc lộn xộn Để nấu cánh ột, đầu tiên cần đun sôi nước, sau đó cho bột gạo giã nhỏ vào và khuấy đều để tránh dính Tiếp theo, cho thịt như cá hoặc nòng nọc vào nấu chín, rồi thêm rau và nêm gia vị với muối và mì chính Món canh yêu cầu rau chín kỹ nhưng vẫn giữ được màu xanh và hương vị thơm ngon Đối với canh măng, cần luộc măng trước rồi mới cho bột gạo vào và thực hiện các bước tương tự.

- Món chẹo: Có nhiều món chẹo được gọi theo tên nguyên liệu của nó

Chẹo pá, chẹo mờ nhau, và chẹo lạc là những món ăn đơn giản nhưng đặc trưng của người Thái ở huyện Quế Phong Để chế biến chẹo pá, cần nướng cá cho chín kỹ và khô, sau đó giã nhỏ với muối, mì chính và ớt Món này thường được ăn kèm với xôi hoặc pha với nước sôi nguội để làm nước chấm, rất phù hợp khi thưởng thức cùng măng và rau luộc Chẹo không chỉ là món ăn ngon mà còn là phần không thể thiếu trong mâm cơm của người Thái.

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI GẮN VỚI VIỆC BẢO TỒN CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC THÁI Ở HUYỆN QUẾ PHONG, TỈNH NGHỆ AN

Ngày đăng: 16/09/2021, 16:40

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
[1] Thành Duy (2006), Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa văn hóa Việt Nam mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa văn hóa Việt Nam mấy vấn đề lý luận và thực tiễn
Tác giả: Thành Duy
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia
Năm: 2006
[2] Phạm Văn Đồng (1995), Văn hóa và đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hóa và đổi mới
Tác giả: Phạm Văn Đồng
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia
Năm: 1995
[3] Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội [4] Uỷ ban quốc gia về thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa (1992): Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa, Bộ văn hóa thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: (1995), Toàn tập, "Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội [4] Uỷ ban quốc gia về thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa (1992)": Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa, Bộ văn hóa thông tin
Tác giả: Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội [4] Uỷ ban quốc gia về thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia
Năm: 1992
[5] Thanh Lê (2005), Hành trang văn hóa, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hành trang văn hóa
Tác giả: Thanh Lê
Nhà XB: Nxb Khoa học xã hội
Năm: 2005
[6] Nguyễn Hồng Sơn, Trương Minh Dục (Chủ biên) (1996), Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa Tây Nguyên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa Tây Nguyên
Tác giả: Nguyễn Hồng Sơn, Trương Minh Dục (Chủ biên)
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia
Năm: 1996
[7] Hồ Sĩ Vịnh (chủ biên) (1993), "Tìm về bản sắc dân tộc của văn hóa", Tạp chí VHNTXD, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tìm về bản sắc dân tộc của văn hóa
Tác giả: Hồ Sĩ Vịnh (chủ biên)
Năm: 1993
[8] Văn Tân, Nguyễn Đạm (1994), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: ), Từ điển Tiếng Việt
Tác giả: Văn Tân, Nguyễn Đạm
Nhà XB: Nxb Khoa học xã hội
Năm: 1994
[9] Ngô Đức Thịnh, Cầm Trọng (1999), Luật tục Thái ở Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật tục Thái ở Việt Nam
Tác giả: Ngô Đức Thịnh, Cầm Trọng
Nhà XB: Nxb Văn hóa dân tộc
Năm: 1999
[10] Hoàng Vinh (1996), Một số vấn đề lý luận văn hóa thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề lý luận văn hóa thời kỳ đổi mới
Tác giả: Hoàng Vinh
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia
Năm: 1996
[11] Nguyễn Khoa Điềm (2002), Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
Tác giả: Nguyễn Khoa Điềm
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia
Năm: 2002
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện hội nghị BCH Trung ương lần thứ 5, khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện hội nghị BCH Trung ương lần thứ 5, khóa VIII
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia
Năm: 2001
[14] "Văn hoá và lịch sử các dân tộc trong nhóm ngôn ngữ Thái Việt Nam", nhà xuất bản văn hoá thông tin 2002 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hoá và lịch sử các dân tộc trong nhóm ngôn ngữ Thái Việt Nam
Nhà XB: nhà xuất bản văn hoá thông tin 2002
[15] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện hội nghị BCH Trung ương lần thứ 5, khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện hội nghị BCH Trung ương lần thứ 5, khóa VIII
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia
Năm: 2001
[16] Văn kiện Đại hội XI nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội năm 2011 Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w