1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Pháp luật Cộng đồng ASEAN về phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia và thực tiễn thực hiện tại Việt Nam.

322 14 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 322
Dung lượng 9,37 MB

Cấu trúc

  • 3.1. Các nguyên tắc phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia trong ASEAN (129)
    • 3.1.1. Các nguyên tắc chung (129)
    • 3.1.2. Các nguyên tắc đặc thù (131)
  • 3.2. Các quy định hợp tác nhằm phòng ngừa tội phạm (140)
    • 3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật (140)
    • 3.2.2. Trao đổi thông tin, phát hiện cảnh báo sớm (144)
    • 3.2.3. Kiểm soát vũ khí, biên giới (148)
    • 3.2.4. Xây dựng cơ sở dữ liệu khu vực (151)
    • 3.2.5. Các biện pháp khác (153)
  • 3.3. Các quy định hợp tác nhằm trừng trị tội phạm (153)
    • 3.3.1. Xác lập quyền tài phán (153)
    • 3.3.2. Truy nã tội phạm (157)
    • 3.3.3. Tương trợ tư pháp hình sự (158)
    • 3.3.4. Dẫn độ tội phạm (165)
  • 3.4. Thiết chế pháp lí của ASEAN phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia (167)
    • 3.4.1. Hội nghị bộ trưởng ASEAN về tội phạm xuyên quốc gia (AMMTC) 100 (169)
    • 3.4.2. Hội nghị quan chức cấp cao các nước ASEAN về tội phạm xuyên quốc gia (SOMTC) (173)
    • 3.4.3. Tổng giám đốc ASEAN phụ trách vấn đề nhập cư và người đứng đầu cơ quan lãnh sự thuộc Bộ Ngoại giao (DGICM) (176)
    • 3.4.4. Hội nghị Bộ trưởng ASEAN về các vấn đề liên quan đến ma túy (177)
    • 3.4.5. Hội nghị quan chức cao cấp ASEAN về các vấn đề liên quan đến ma túy (ASOD) (177)
    • 3.4.6. Hội nghị tư lệnh cảnh sát các nước ASEAN (ASEANAPOL) (178)
    • 3.4.7. Hội nghị Bộ trưởng Tư pháp ASEAN (ALAWMM) (182)
    • 3.5.1. Tội khủng bố (182)
    • 3.5.2. Tội buôn bán người (184)
    • 3.5.3. Tội phạm ma túy (190)
    • 3.5.4. Tội phạm cướp biển (192)
  • 3.6. Đánh giá Pháp luật Cộng đồng ASEAN về phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia (196)
    • 3.6.1. Thành tựu (196)
    • 3.6.2. Hạn chế (199)
    • 3.6.3. Giải pháp (203)
  • KẾT LUẬN (67)
    • CHƯƠNG IV VIỆT NAM VỚI VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT CỘNG ĐỒNG ASEAN VỀ PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM XUYÊN QUỐC GIA (21)
      • 4.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về hợp tác quốc tế phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia (211)
      • 4.2. Thực tiễn thực hiện Pháp luật Cộng đồng ASEAN về phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia tại Việt Nam (218)
        • 4.2.1. Xây dựng hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lí (220)
        • 4.2.2. Xây dựng hệ thống thiết chế pháp lí (238)
        • 4.2.3. Các biện pháp thực hiện nghĩa vụ thành viên khác (249)
      • 4.3. Thực hiện pháp luật Cộng đồng ASEAN về phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia tại một số quốc gia thành viên khác (259)
        • 4.3.1. Campuchia (259)
        • 4.3.2. Philippines (276)
      • 4.4. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia ở Việt Nam nhằm thực thi Pháp luật Cộng đồng ASEAN (293)

Nội dung

Pháp luật Cộng đồng ASEAN về phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia và thực tiễn thực hiện tại Việt Nam.Pháp luật Cộng đồng ASEAN về phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia và thực tiễn thực hiện tại Việt Nam.Pháp luật Cộng đồng ASEAN về phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia và thực tiễn thực hiện tại Việt Nam.Pháp luật Cộng đồng ASEAN về phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia và thực tiễn thực hiện tại Việt Nam.Pháp luật Cộng đồng ASEAN về phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia và thực tiễn thực hiện tại Việt Nam.

Các nguyên tắc phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia trong ASEAN

Các nguyên tắc chung

Các nguyên tắc chung điều chỉnh hợp tác của ASEAN, đặc biệt trong lĩnh vực phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia, được ghi nhận trong các văn kiện pháp lý nền tảng như Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông Nam Á (TAC) và Hiến chương ASEAN năm 2007 Những nguyên tắc này cũng được phản ánh trong các tài liệu hợp tác chuyên ngành của Cộng đồng chính trị - an ninh ASEAN (APSC), bao gồm Bản Kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng chính trị - an ninh ASEAN 2009 và 2015.

Năm 2015, các nguyên tắc trong APSC Blueprints 2015 – 2025 nhấn mạnh tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc dân tộc của mọi quốc gia Mỗi quốc gia có quyền tồn tại mà không bị can thiệp, lật đổ hoặc áp lực từ bên ngoài Các quốc gia không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và giải quyết bất đồng hoặc tranh chấp bằng biện pháp hòa bình Họ cần từ bỏ việc đe dọa hoặc sử dụng vũ lực, hợp tác hiệu quả và tôn trọng các quyền tự do cơ bản, đồng thời thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền cùng công bằng xã hội.

Các nguyên tắc đặc thù

Nhóm các nguyên tắc đặc thù là những quy định riêng áp dụng cho việc điều chỉnh quan hệ hợp tác của ASEAN trong lĩnh vực phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia Các nguyên tắc này được ghi nhận trong các văn kiện pháp lý liên quan đến phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia trong khu vực.

3.1.2.1 Không cho phép một quốc gia thành viên thực thi quyền tài phán và các hoạt động tố tụng khác trên lãnh thổ quốc gia thành viên khác

Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác và tôn trọng quyền bình đẳng về chủ quyền là nền tảng của luật quốc tế, được ghi nhận trong Điều 2 Hiến chương Liên hợp quốc và các văn kiện pháp lý của ASEAN Trong hợp tác phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia, các quốc gia thành viên ASEAN phải tuân thủ nguyên tắc này, không cho phép một quốc gia thực hiện quyền tài phán trên lãnh thổ của quốc gia khác Điều 4 Công ước ASEAN năm 2007 về phòng, chống khủng bố (ACCT) quy định rõ ràng rằng các bên phải thực hiện nghĩa vụ trên cơ sở bình đẳng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.

Nguyên tắc không cho phép một quốc gia thành viên thực thi quyền tài phán và các hoạt động tố tụng khác trên lãnh thổ quốc gia thành viên khác được quy định rõ ràng tại Điều 4 Công ước ASEAN về phòng, chống buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em (ACTIP) Cụ thể, các bên phải thực hiện nghĩa vụ theo quy định của Công ước này với nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác Điều này cũng được nhấn mạnh trong Khoản 2 Điều 2 Hiệp định Tương trợ Tư pháp hình sự ASEAN năm 2004, khẳng định rằng không quốc gia thành viên nào được thực hiện quyền tài phán hay các chức năng thuộc thẩm quyền của cơ quan có thẩm quyền của quốc gia thành viên khác trên lãnh thổ của họ.

3.1.2.2 Nguyên tắc đối xử công bằng (Fair Treatment)

Nguyên tắc đối xử công bằng trong xét xử có nguồn gốc từ quyền được xét xử công bằng, lần đầu tiên được đề cập trong các Điều 10 và 11 của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 (UDHR) Theo Điều 10 UDHR, mọi người đều có quyền bình đẳng được xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án độc lập, nhằm xác định quyền và nghĩa vụ của họ, cũng như bất kỳ sự buộc tội nào đối với họ Điều 11 bổ sung rằng mọi người bị cáo buộc về hình sự đều được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo pháp luật tại một phiên tòa xét xử.

74 Xem: Điều 3 Công U ̛ớc ASEAN năm 2007 về phòng, chống khủng bố.

Công ước ASEAN về chống buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em năm 2016, nhấn mạnh quyền được bảo vệ và các điều kiện cần thiết để tự bào chữa Không ai bị coi là phạm tội nếu hành vi của họ không cấu thành tội hình sự theo pháp luật quốc gia hoặc quốc tế tại thời điểm thực hiện Các quy định này được củng cố trong các Điều 14, 15 và 11 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR) Nguyên tắc đối xử công bằng trong pháp luật ASEAN không chỉ đảm bảo quyền được xét xử công bằng và công khai cho người bị tình nghi mà còn bảo vệ quyền lợi của họ theo quy định pháp luật quốc gia và luật nhân quyền quốc tế trong mọi giai đoạn tố tụng.

Bảo đảm quyền lợi cho người tình nghi phạm tội là điều cần thiết, đồng thời cũng cần hướng tới việc bảo vệ quyền lợi của nạn nhân Các quyền này được áp dụng một cách công bằng, không phân biệt đối xử giữa công dân các quốc gia thành viên ASEAN Theo Điều 8 của ACCT, mọi người bị tạm giam hoặc chịu các thủ tục tố tụng theo Công ước này đều được đảm bảo đối xử công bằng và hưởng các quyền theo pháp luật của quốc gia nơi họ đang có mặt, cũng như các quy định của luật nhân quyền quốc tế Hơn nữa, Khoản 2 Điều 1 của ACTIP nhấn mạnh rằng các biện pháp trong Công ước phải được hiểu và áp dụng phù hợp với các nguyên tắc quốc tế và khu vực về không phân biệt đối xử, bao gồm cả nạn nhân bị buôn bán.

3.1.2.3 Nguyên tắc loại trừ tội phạm chính trị (Political Offences Exception)

Một nguyên tắc quan trọng trong luật pháp quốc tế là không thực hiện tương trợ tư pháp hình sự đối với những người thực hiện tội phạm chính trị Nguyên tắc này xuất phát từ quan niệm rằng những người phạm tội chính trị vì "động cơ cao quý" không thể bị đối xử như những người phạm tội thông thường Do đó, họ không thể bị dẫn độ Pháp luật của Cộng đồng ASEAN về hợp tác phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia cũng tuân thủ nguyên tắc này, ví dụ, Khoản 1 Điều 3 Hiệp định Tương trợ Tư pháp Hình sự ASEAN năm 2004 quy định rằng: "Quốc gia được yêu cầu từ chối việc tương trợ nếu xét thấy "

Yêu cầu tương trợ liên quan đến điều tra, truy tố hoặc trừng phạt một người vì tội phạm mang tính chất chính trị có thể bị từ chối nếu có đủ căn cứ cho rằng mục đích yêu cầu là nhằm gây khó khăn cho người đó vì lý do chủng tộc, tôn giáo, giới tính, nguồn gốc dân tộc, quốc tịch hoặc quan điểm chính trị Tuy nhiên, cách hiểu và định nghĩa về tội phạm chính trị khác nhau giữa các quốc gia, dẫn đến việc đánh giá hành vi phạm tội có mang tính chính trị hay không thuộc quyền quyết định của quốc gia được yêu cầu Do chưa có khái niệm chính xác về các tội phạm chính trị, động cơ chính trị theo quan điểm của quốc gia được yêu cầu có thể tạo ra cản trở trong việc dẫn độ hoặc tương trợ tư pháp hình sự Để hạn chế điều này, ASEAN đã liệt kê những tội phạm không bị coi là tội phạm mang tính chất chính trị nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác giữa các quốc gia.

(a) Tội xâm phạm tính mạng hoặc thân thể của nguyên thủ quôc gia hoặc thành viên gia đình trực tiếp của nguyên thủ quôc gia;

Tội xâm phạm tính mạng hoặc thân thể của người đứng đầu chính phủ trung ương hoặc Bộ trưởng của Chính phủ trung ương là một hành vi nghiêm trọng, vi phạm các quy định pháp luật và có thể dẫn đến hậu quả nặng nề.

Tội phạm được quy định theo công ước quốc tế mà các quốc gia yêu cầu và quốc gia được yêu cầu là thành viên Theo công ước này, các quốc gia có nghĩa vụ dẫn độ hoặc truy tố người bị cáo buộc phạm tội.

Bất kỳ hành vi cố gắng, xúi giục, hoặc đồng phạm nhằm thực hiện các tội phạm quy định từ điểm (a) đến điểm (c) đều bị nghiêm cấm Đặc biệt, đối với nhóm tội phạm xuyên quốc gia, các hành vi này có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng trong khu vực.

Bài viết của Nguyễn Ngọc Chí và Nguyễn Thị Ly nghiên cứu về vấn đề dẫn độ tội phạm và đề xuất các định hướng nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự tại Việt Nam Tác giả chỉ ra những hạn chế hiện tại trong hệ thống pháp luật và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải cách để đảm bảo tính hiệu quả và công bằng trong quá trình tố tụng Nghiên cứu này không chỉ cung cấp cái nhìn sâu sắc về thực trạng pháp luật mà còn gợi ý các giải pháp thiết thực nhằm nâng cao chất lượng công tác dẫn độ tội phạm trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

Hiệp định Tương trợ tư pháp hình sự ASEAN năm 2004 quy định rõ về các tội phạm như buôn bán người, nhằm xây dựng một khuôn khổ pháp lý chung giữa các quốc gia thành viên Điều 19 của Hiệp định xác định rằng mọi hành vi phạm tội được nêu tại Điều 5 sẽ được coi là có thể dẫn độ theo các điều ước hiện có giữa các bên Đồng thời, Điều 18 nhấn mạnh rằng các quốc gia sẽ phối hợp tối đa trong việc điều tra và thực hiện các thủ tục tố tụng hình sự đối với các tội phạm xuyên quốc gia, đặc biệt là tội phạm buôn bán người.

Riêng đối với tội khủng bố, một tội phạm đặc thù mà ngƯời thực hiện

THƯờng gắn với mục đích chính trị (chủng tộc, sắc tộc hay tôn giáo…), Công

Điều XIV của Công ước ASEAN về phòng, chống khủng bố quy định rõ ràng rằng các tội phạm liên quan đến khủng bố không được coi là tội phạm chính trị Điều này có nghĩa là yêu cầu dẫn độ hoặc tương trợ pháp lý trong các vấn đề hình sự không thể bị từ chối chỉ vì lý do liên quan đến tội phạm chính trị Do đó, các quốc gia thành viên phải cung cấp sự tương trợ tối đa cho nhau trong việc điều tra, truy tố và trừng trị các hành vi khủng bố Khoản 1 Điều XII của Công ước nhấn mạnh rằng các bên sẽ hợp tác tối đa trong các điều tra và tố tụng hình sự đối với các tội phạm được quy định tại Điều II của Công ước.

Công ước này sẽ được coi là những tội phạm có thể

3.1.2.4 dẫn độ trong bất kỳ Điều ước nào về dẫn độ hiện có giữa các bên trước khi Công ước này có hiệu lực Các bên cam kết coi các tội phạm như vậy là tội phạm có thể bị dẫn độ trong tất cả các Điều ước về dẫn độ mà các bên sẽ ký kết với nhau sau này.”Nguyên tắc tội phạm kép (double criminality)

Các quy định hợp tác nhằm phòng ngừa tội phạm

Hoàn thiện hệ thống pháp luật

Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật là rất quan trọng nhằm đảm bảo hiệu quả trong công tác phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia Theo Tuyên bố ASEAN về phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia 2015 và Kế hoạch hành động ASEAN 2016 – 2025, mục tiêu chính trong giai đoạn sau xây dựng Cộng đồng ASEAN là cải thiện khung pháp lý, tập trung vào các nội dung cụ thể để tăng cường khả năng hợp tác và đấu tranh với tội phạm xuyên quốc gia trong khu vực.

1 Tiếp tục ký kết, phê chuẩn và/hoặc tham gia cũng nhƯ thực hiện các công cụ quôc tế co hiệu qua liên quan đến tội phạm xuyên quôc gia;

2 Thực hiện co hiệu qua ACCT, ACTIP;

3 Tìm kiếm, phát triển các công cụ pháp lí khu vực mới trong lĩnh vực

81 Xem: Điểm e khoan 1 Điều 3 Hiệp định TU ̛ Ơ ng trợ TU ̛ pháp hình sự ASEAN năm 2004.

1 phòng, chông tội phạm xuyên quôc gia dƯới sự điều phối của AMMTC và SOMTC;

4 Hài hòa các chính sách, luật và quy định quôc gia co liên quan giữa các nƯớc thành viên ASEAN để tăng CƯờng hơn nữa các nỗ lực của khu vực nhằm ngăn chặn và chông lại tội phạm xuyên quôc gia;

5 Hình sự hoá hành vi buôn bán trái phép động vật hoang dã và gỗ để ngăn chặn và chông buôn lậu động vật hoang dã và gỗ một cách hiệu qua, phù hợp với luật pháp quôc tế co liên quan;

6 Hình sự hoá hành vi đƯa ngƯời trái phép qua biên giới để ngăn chặn, phòng, chông một cách hiệu qua;

7 Hỗ trợ công tác của ALAWMM hƯớng tới nâng cấp Hiệp định tƯơng trợ tƯ pháp hình sự ASEAN và xây dựng khung pháp lí về vấn đề dẫn độ khu vực;

8 Nghiên cứu về kha năng tạo ra chƯơng trình khu vực về bao vệ nhân chứng và nạn nhân của tội phạm xuyên quôc gia từ việc tra đũa các nhom tội phạm co tổ chức 82

Trong giai đoạn tới, các quốc gia thành viên ASEAN cần hoàn thiện công cụ pháp lý để đảm bảo hiệu quả trong việc hợp tác phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia Một trong những nhiệm vụ quan trọng là xây dựng điều luật phù hợp.

Vấn đề dẫn độ khu vực vẫn còn bỏ ngỏ về mặt pháp lý Mặc dù ASEAN đã xây dựng Hiệp định Tương trợ Tư pháp hình sự ASEAN từ năm 2004, nhưng văn kiện này lại không bao gồm hoạt động dẫn độ Do đó, các quốc gia thành viên đang nỗ lực xây dựng điều ước chung về vấn đề này, tuy nhiên vẫn gặp nhiều khó khăn do sự khác biệt giữa các quốc gia.

ASEAN yêu cầu các quốc gia thành viên hài hòa hóa pháp luật để giảm bớt sự khác biệt và tránh xung đột trong luật pháp liên quan đến phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia Khu vực này đang tập trung vào 8 loại tội phạm chính, bao gồm tội khủng bố, buôn bán người, tội phạm ma túy, tội phạm công nghệ cao, tội rửa tiền, tội cướp biển, tội phạm kinh tế, và tội buôn lậu vũ khí Ngoài ra, ASEAN đã bổ sung ba nhóm tội phạm mới: tội buôn lậu gỗ, động vật hoang dã, và tội đưa người di cư trái phép qua biên giới.

Phần V của Tuyên bố ASEAN về phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia giai đoạn 2016 - 2025 yêu cầu các quốc gia thành viên phải thực hiện hình sự hóa các hành vi phạm tội Hình sự hóa là nghĩa vụ cơ bản được ghi nhận trong các văn kiện pháp lý về phòng, chống tội phạm Cụ thể, tại ACTIP, các quốc gia thành viên ASEAN đã quy định trong Chương II về việc hình sự hóa các hành vi buôn bán người, nhằm tạo ra sự thống nhất trong quy định pháp luật của từng quốc gia thành viên.

Chương II ACTIP quy định rằng mỗi Bên cần áp dụng các biện pháp lập pháp và biện pháp khác để coi những hành vi được nêu tại Điều 2 là tội phạm khi có ý định thực hiện Đồng thời, các Bên cũng phải quy định là tội phạm các hành vi chưa đạt được quy định, tham gia với vai trò đồng phạm, cũng như tổ chức hoặc chỉ đạo người khác thực hiện các tội phạm này.

3 Mỗi Bên sẽ áp dụng các biện pháp lập pháp và các biện pháp khác khi thích hợp để những người có hành vi phạm tội phải chịu mức hình phạt nghiêm khắc hơn so với trường hợp phạm tội thông thường nếu có một trong các tình tiết tăng nặng sau: a Khi tội phạm gây tổn thương nghiêm trọng hoặc cái chết cho nạn nhân hay người khác, bao gồm trường hợp người đó chết do tự sát; b Khi tội phạm liên quan đến nạn nhân là người đặc biệt dễ bị tổn thương như trẻ em hoặc người không có đủ khả năng tự chăm sóc hoặc bảo vệ bản thân vì khuyết tật hoặc điều kiện về thể chất hoặc tâm thần; c Tội phạm làm cho nạn nhân nhiễm các bệnh nguy hiểm đến tính mạng, kể cả bệnh HIV/AIDS; d Phạm tội với nhiều nạn nhân; e Khi tội phạm được thực hiện là một phần hoạt động của nhóm tội phạm có tổ chức; f Khi người phạm tội đã từng bị kết án về cùng tội danh hoặc tội phạm tương tự; g Khi người phạm tội là công chức lạm dụng chức vụ hoặc quyền hạn để phạm tội”…

Các quy định cụ thể và chi tiết trong ACTIP đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự hài hòa pháp luật tại ASEAN, đặc biệt liên quan đến hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia Ngoài ACTIP, nhiều văn kiện pháp lý hợp tác phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia trong ASEAN cũng có những quy định tương tự, như Công ước.

Theo Ước ASEAN về phòng, chống khủng bố năm 2007, Điều 9 quy định rằng các bên phải ban hành pháp luật quốc gia nhằm đảm bảo các tội phạm khủng bố được nêu tại Điều II của Công ước không thể biện minh bằng bất kỳ lý do nào.

Trao đổi thông tin, phát hiện cảnh báo sớm

Để hoạt động phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia trong khu vực ASEAN diễn ra hiệu quả, việc trao đổi thông tin giữa các quốc gia thành viên là rất cần thiết, góp phần nâng cao năng lực xử lý những thách thức an ninh chung của khối.

Vấn đề trao đổi thông tin về phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia luôn được đề cập trong các văn kiện quan trọng của ASEAN Tùy thuộc vào từng loại tội phạm cụ thể, các quốc gia sẽ tiến hành trao đổi thông tin liên quan để phát hiện và ngăn chặn kịp thời.

Công ước ACTIP nhấn mạnh tầm quan trọng của việc trao đổi thông tin để nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trong cuộc chiến chống tội phạm Mỗi quốc gia cần áp dụng các biện pháp hiệu quả để chia sẻ thông tin về các phương thức và biện pháp mà tội phạm sử dụng, bao gồm lộ trình, phương tiện vận chuyển và việc sử dụng thẻ căn cước giả Đồng thời, việc tăng cường trao đổi thông tin và phối hợp các biện pháp hành chính là cần thiết để xác định các tội phạm nằm trong phạm vi điều chỉnh của Công ước này.

Bên cạnh đo, ACCT quy định các quốc gia thành viên phải tuân thủ luật quốc gia tương ứng với Công ước này.

83 Xem: Khoan 1 Điều 9 Công U ̛ớc ASEAN về phòng, chống khủng bô năm 2007.

84 Điều 20 ACTIP đề xuất các biện pháp thích hợp nhằm tăng cường trao đổi thông tin tình báo về tội phạm khủng bố, tổ chức của họ và phương thức hoạt động Điều này tạo điều kiện cho các nước thành viên tiếp cận phỏng vấn các phần tử khủng bố bị bắt giữ theo thỏa thuận Việc chia sẻ thông tin giữa các quốc gia thành viên có thể thực hiện qua việc thiết lập các kênh thông tin liên lạc giữa các cơ quan có thẩm quyền, nhằm thuận lợi hóa việc trao đổi thông tin để ngăn chặn tội phạm Mới đây, Kế hoạch hành động của ASEAN về phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia được thông qua tại Manila, Philippines vào ngày 20 tháng 9 năm 2017 cũng nhấn mạnh về việc trao đổi thông tin giữa các quốc gia thành viên ASEAN để giải quyết hiệu quả các tội phạm xuyên quốc gia Các quốc gia thành viên ASEAN cần chủ động và tăng cường hợp tác trong vấn đề này.

Sử dụng cơ sở dữ liệu quốc tế và khu vực hiện có giúp tạo điều kiện và phân tích thông tin tình báo quan trọng, bao gồm những người bị bắt và bị truy nã, các nhóm hoạt động theo mô hình hoạt động, cùng với các tội phạm hạng hai.

Sử dụng các công cụ của INTERPOL, như I-24/7, nhằm tạo điều kiện thuận lợi và trao đổi thông tin để giải quyết hiệu quả các tội phạm xuyên quốc gia.

Cải tiến việc trao đổi thông tin và chia sẻ cơ chế thông tin giữa Trưởng các đơn vị chuyên trách về buôn bán người là cần thiết để hỗ trợ các cơ quan thực thi pháp luật trong việc điều tra, truy tố và xét xử nạn buôn người một cách hiệu quả.

- Tăng CƯờng hợp tác với các Tổng cục tRƯởng Cục Xuất nhập canh và

TRƯởng Lãnh sự của Bộ Ngoại giao (DGICM) bằng cách trao đổi thông tin để ngăn chặn và ngăn chặn các tội phạm xuyên quôc gia;

Việc thành lập một kho lưu trữ khu vực nhằm xây dựng luật pháp quốc gia và pháp luật cộng đồng ASEAN liên quan đến tội phạm xuyên quốc gia tại Ban là rất cần thiết Kho lưu trữ này sẽ hỗ trợ trong việc thu thập, phân tích và chia sẻ thông tin về tội phạm, từ đó nâng cao hiệu quả hợp tác giữa các quốc gia trong khu vực Hệ thống pháp luật đồng bộ sẽ giúp các quốc gia ASEAN đối phó tốt hơn với các thách thức về an ninh và bảo vệ lợi ích chung.

ThƯ ký ASEAN, và bằng cách tăng CƯờng các chức năng của Ban ThƯ ký ASEAN;

Xác định các điểm liên lạc quốc gia liên quan, bao gồm các cơ quan trung ương của quốc gia về hỗ trợ pháp lý trong các vụ án hình sự và yêu cầu dẫn độ; các cơ quan/đơn vị tình báo tài chính (FIUs); và các cơ quan thực thi pháp luật.

Tăng cường ứng dụng công nghệ viễn thông hiện đại là cần thiết để cải thiện việc trao đổi thông tin nhanh chóng về các tội phạm, phương pháp, bắt giữ, văn bản pháp luật và yêu cầu trợ giúp, đảm bảo tính bảo mật và an toàn Hiện nay, các quốc gia thành viên ASEAN vẫn luôn đề cao và thúc đẩy việc này.

Cường hoạt động trao đổi thông tin là yếu tố quan trọng trong việc phát hiện, ngăn chặn và ứng phó kịp thời với tội phạm xuyên quốc gia Trong các văn kiện quan trọng của ASEAN về phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia, việc trao đổi thông tin luôn được đặt lên hàng đầu.

Kiểm soát vũ khí, biên giới

Kiểm soát vũ khí và biên giới là vấn đề phức tạp và cấp bách đối với các quốc gia thành viên ASEAN, đặc biệt trong bối cảnh biên giới Đông Nam Á là một trong những vùng biên phức tạp nhất thế giới với nguy cơ cao về tội phạm và khủng bố Do đó, việc kiểm soát biên giới và ngăn chặn di chuyển của những đối tượng vi phạm là cần thiết để bảo đảm an ninh cho các quốc gia thành viên Các văn kiện pháp lý của ASEAN, như Tuyên bố Kuala Lumpur năm 2007, đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao hợp tác xuyên biên giới và chia sẻ thông tin trong công tác kiểm soát biên giới Điều 6 của ACCT cũng quy định các lĩnh vực hợp tác liên quan đến vấn đề này.

86 Malaysia và Indonesia là những quốc gia co sô LU ̛ợng ng U ̛ời theo đạo Hồi lớn nhất thế giới, cùng với nhiều

Nước Hồi giáo trên thế giới đã thực hiện cơ chế miễn thị thực nhập cảnh, khiến Kuala Lumpur trở thành "trạm trung chuyển" và nơi "hội tụ - phân tán" của các phần tử Hồi giáo cấp tiến, đặc biệt sau sự gia tăng hoạt động của các nhóm Hồi giáo cực đoan ở Trung Đông Lực lượng an ninh Malaysia đã từng bắt giữ hơn 40 thành viên vũ trang từ các nước Hồi giáo khác Bên cạnh đó, Malaysia cũng trở thành "hành lang" cho người Duy Ngô Nhĩ từ vùng Tân Cương, Trung Quốc nhập cảnh trái phép Tại Thái Lan, vào đầu tháng 5 năm 2015, cảnh sát đã phát hiện ít nhất 26 thi thể ở tỉnh Songkhla, gần biên giới Perlis, miền bắc Malaysia.

Malaysia đã phát hiện 30 ngôi mộ lớn chứa hàng trăm người ở hai khu vực thuộc Perlis, nơi biên giới Malaysia - Thái Lan trở thành điểm dừng trong tuyến đường buôn người đến Đông Nam Á Các trại lớn có thể chứa tới 1.000 người, chủ yếu là người Rohingya theo đạo Hồi từ Myanmar và người Bangladesh tìm việc Thái Lan đóng vai trò quan trọng như một trung chuyển và điểm đến cho các hoạt động tội phạm xuyên quốc gia Theo Bộ Ngoại giao Mỹ, Thái Lan được xác định là một trong những trung tâm tồi tệ nhất thế giới về nạn buôn người Về vấn nạn buôn bán thuốc phiện, UNODC cảnh báo rằng việc trồng cây thuốc phiện tại Tam giác vàng đang gia tăng, với tội phạm tổ chức xuyên quốc gia trong khu vực ASEAN tạo ra hơn 100 tỷ USD mỗi năm.

Để ngăn chặn tội phạm xuyên quốc gia, đặc biệt là khủng bố và buôn bán người, các quốc gia trong khu vực ASEAN cần tăng cường kiểm soát biên giới và quản lý việc cấp giấy tờ tùy thân Việc kiểm soát này giúp ngăn chặn sự di chuyển của các đối tượng tội phạm, đồng thời tạo ra môi trường hợp tác hiệu quả giữa các cơ quan chức năng ACTIP đã quy định về hợp tác biên giới và hiệu lực của các giấy tờ, khuyến khích các cơ quan kiểm soát biên giới phối hợp trong việc phát hiện và phòng ngừa tội phạm Bằng cách thiết lập và duy trì các kênh liên lạc trực tiếp, cùng với việc chia sẻ thông tin nghiệp vụ, các quốc gia có thể xây dựng một mạng lưới an ninh vững chắc, góp phần tích cực vào cuộc chiến chống tội phạm xuyên quốc gia.

Để ngăn chặn sự di chuyển của những người có hành vi buôn bán và các nạn nhân bị buôn bán, cần đưa ra những biện pháp hiệu quả Các quốc gia cũng cần áp dụng các biện pháp phòng ngừa nhằm ngăn chặn tình trạng giả mạo, làm giả hoặc sử dụng gian dối các giấy tờ căn cước và thông hành.

Hiện tại, trong hoạt động của các thiết chế của ASEAN vẫn luôn đề cao

Điều 13 ACTIP nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kiểm soát biên giới trong quá trình ngăn ngừa tội phạm xuyên quốc gia Hợp tác giữa các quốc gia trong lĩnh vực này luôn được thúc đẩy và nhận được sự quan tâm đặc biệt Kiểm soát biên giới không chỉ liên quan đến việc chống khủng bố và tội phạm buôn người mà còn ảnh hưởng đến tất cả các loại tội phạm xuyên quốc gia, góp phần quan trọng vào việc hạn chế sự bành trướng của tội phạm.

Xây dựng cơ sở dữ liệu khu vực

Thiết lập hệ thống cơ sở dữ liệu đóng vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi thông tin tình báo một cách nhanh chóng và an toàn, với độ chính xác cao Điều này đặc biệt cần thiết trong bối cảnh các cuộc tấn công liều chết, sự thâm nhập của chủ nghĩa cực đoan và tội phạm xuyên quốc gia, những thách thức lớn đối với lực lượng thực thi pháp luật trong khu vực Thông qua việc sử dụng cơ sở dữ liệu hình sự, các quốc gia thành viên ASEAN có thể dễ dàng nắm bắt thông tin về tình trạng các loại tội phạm xuyên quốc gia, bao gồm danh tính, xu hướng và phương thức hoạt động của chúng.

Tình hình hoạt động của tội phạm xuyên quốc gia ngày càng phức tạp với những thủ đoạn tinh vi Một chiến dịch chống tội phạm mạng do INTERPOL và các điều tra viên từ 7 quốc gia ASEAN thực hiện vào tháng 4/2017 đã phát hiện gần 9.000 máy chủ nhiễm mã độc và hàng trăm trang mạng bị tấn công Nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng này là do quá trình hội nhập diễn ra nhanh chóng trong khi công tác kiểm soát biên giới còn lỏng lẻo và công nghệ thông tin bùng nổ Vì vậy, việc chỉ dựa vào nguồn nhân lực của riêng các quốc gia để giải quyết loại tội phạm này là không đủ.

Cần thiết phải tăng cường hợp tác khu vực ASEAN thông qua việc xây dựng cơ sở dữ liệu khu vực nhằm phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia.

Hội nghị Tư lệnh cảnh sát các quốc gia ASEAN (ASEANAPOL) lần thứ 37 diễn ra từ ngày 12 - 14/9/2017 đã thống nhất khởi động e-ADS (Electronic ASEANAPOL database) phiên bản 2.0, nhằm hỗ trợ lực lượng cảnh sát các nước trong khu vực.

Interpol's recent operation uncovered nearly 9,000 infected servers across Southeast Asia, highlighting the importance of enhanced information sharing and collaboration among countries to combat transnational crime effectively and efficiently.

E-ADS là một hệ thông cơ sở dữ liệu chia sẻ thông tin dựa trên trang mạng (website), cho phép các lực lƯợng Canh sát ASEAN trao đổi, đối chiếu, phổ biến thông tin tình báo và hoạt động của tội phạm Phiên bản e-ADS 2.0 vừa đƯợc tung ra là một nâng cấp của e-ADS ban đầu, đƯợc giới thiệu lần đầu tiên vào năm 2006 trong khuôn khổ ASEANAPOL tại Kuala Lumpur Theo đó, e-ADS 2.0 bao gồm những tính năng mới nhƯ thƯ Viện điện tử ASEANAPOL, diễn đàn thao luận trao đổi ý kiến và bình luận giữa các nhân viên Canh sát, lịch sự kiện và cổng thông báo, cho phép kết nôi nhanh hơn giữa lực lƯợng canh sát ASEAN 89

Sự ra đời của e-ADS phiên bản 2.0 đã nâng cao khả năng phòng, chống các loại tội phạm xuyên quốc gia ngày càng tinh vi và phức tạp của cảnh sát khu vực Tội phạm công nghệ cao đang gia tăng và gây thiệt hại nghiêm trọng trên toàn cầu, đặc biệt là tại ASEAN Các mạng lưới tội phạm xuyên quốc gia phát triển nhanh chóng trong khu vực này, theo cảnh báo từ Tổ chức Liên hiệp quốc Tinh thần đổi mới và hợp tác liên tục giữa các nước ASEAN sẽ giúp ứng phó hiệu quả với những thách thức này, đảm bảo an toàn và an ninh lâu dài cho khu vực.

Các biện pháp khác

Bên cạnh các biện pháp cơ bản về phòng ngừa tội phạm, pháp luật Cộng đồng ASEAN cũng đề ra các biện pháp hỗ trợ tích cực và hiệu quả trong quá trình phòng ngừa tội phạm xuyên quốc gia Những biện pháp này bao gồm hợp tác ngoại khối, nâng cao năng lực cán bộ, công chức, giáo dục và tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng, cũng như hợp tác với người dân và khu vực tư nhân trong công tác phòng, chống tội phạm.

Các quy định hợp tác nhằm trừng trị tội phạm

Xác lập quyền tài phán

Để hợp tác phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia một cách triệt để, các quốc gia thành viên ASEAN không chỉ tuân thủ các văn kiện pháp lý trong khuôn khổ ASEAN mà còn tham gia tích cực vào các điều ước quốc tế của Liên Hợp Quốc liên quan đến vấn đề này.

Tất cả các quốc gia thành viên ASEAN đã tham gia Công ước của Liên hợp quốc về Chống tội phạm tổ chức xuyên quốc gia (Công ước Palermo) năm 2000 Theo Khoản 1 Điều 15 của Công ước Palermo, một quốc gia có thẩm quyền tài phán đối với một hành vi phạm tội khi

- Hành vi phạm tội đƯợc thực hiện trên lãnh thổ của quôc gia thành viên đo; hoặc

Hành vi phạm tội được thực hiện trên tàu mang cờ của quốc gia thành viên hoặc trên máy bay đăng ký theo luật của quốc gia thành viên đó tại thời điểm xảy ra hành vi phạm tội.

Ngoài các trường hợp đã nêu, các hành vi sau cũng thuộc thẩm quyền tài phán của quốc gia nếu có sự đồng ý của quốc gia nơi tội phạm được thực hiện, theo các nguyên tắc bình đẳng chủ quyền, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.

- Hành vi phạm tội đƯợc thực hiện nhằm chông lại một công dân của quôc gia thành viên đo;

Hành vi phạm tội được thực hiện bởi một công dân của quốc gia thành viên hoặc một người không quốc tịch thường trú trên lãnh thổ của quốc gia đó.

Hành vi tham gia nhóm tội phạm có tổ chức theo khoản 1 Điều 5 được thực hiện ngoài lãnh thổ quốc gia nhằm thực hiện một hành vi phạm tội nghiêm trọng trong lãnh thổ quốc gia đó.

Các quốc gia thành viên có quyền tài phán nếu người bị tình nghi thực hiện tội phạm, thuộc thẩm quyền xét xử của quốc gia khác, có mặt tại lãnh thổ của quốc gia đó và quốc gia này không thực hiện việc dẫn độ.

Theo quy định của các công ước quốc tế và ASEAN về phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia, quyền tài phán được xác định rõ ràng Cụ thể, trong ACTIP, mỗi quốc gia thành viên có quyền tài phán đối với các tội phạm xảy ra trên lãnh thổ của mình, trên tàu thủy mang cờ quốc gia hoặc trên máy bay được đăng ký theo luật pháp quốc gia Quốc gia thành viên cũng có quyền tài phán đối với công dân hoặc người không quốc tịch thường trú trên lãnh thổ của họ khi thực hiện tội phạm Hơn nữa, quốc gia có thể thiết lập quyền tài phán nếu tội phạm được thực hiện nhằm chống lại công dân của quốc gia đó hoặc nếu hành vi tham gia vào tổ chức tội phạm diễn ra bên ngoài lãnh thổ nhưng nhằm thực hiện tội phạm nghiêm trọng trong lãnh thổ quốc gia đó.

Theo quy định của ACCT, các nước thành viên ASEAN có trách nhiệm thực hiện quyền tài phán trong một số trường hợp cụ thể, bao gồm: khi tội phạm khủng bố xảy ra trên lãnh thổ của nước đó, trên tàu mang cờ của nước đó, hoặc do công dân của nước đó thực hiện Ngoài ra, quyền tài phán cũng có thể được thực hiện trong các trường hợp khác theo quy định tại Điểm 2 Điều 7 của Công ước ASEAN về chống khủng bố.

Thẩm quyền tài phán của quốc gia được thể hiện rõ ràng, thể hiện sự tôn trọng thỏa thuận giữa các quốc gia Điều này giúp việc xét xử và trừng trị tội phạm trở nên dễ dàng và thuận lợi hơn.

Truy nã tội phạm

Các đối tượng phạm tội xuyên quốc gia thường lẩn trốn ở các quốc gia khác nhau và có xu hướng tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội của mình, gây ra nguy cơ cao về mất an ninh, trật tự và an toàn trong khu vực Do đó, việc phối hợp quốc tế để truy bắt các tội phạm này là điều vô cùng cần thiết đối với các quốc gia trong khu vực.

Hoạt động truy nã tội phạm xuyên quốc gia trong khuôn khổ Cộng đồng ASEAN được thể hiện rõ nhất qua sự hợp tác của Hiệp hội Cảnh sát các nước ASEAN (ASEANAPOL) ASEANAPOL cung cấp môi trường và trao đổi thông tin để truy nã tội phạm, xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin cảnh sát cho các nước thành viên và nâng cấp thành hệ thống cơ sở dữ liệu điện tử khu vực Hệ thống này chứa đựng thông tin chính xác, an toàn, liên tục cập nhật, đáp ứng nhu cầu từ cảnh sát các nước thành viên Khi có yêu cầu truy nã từ một quốc gia thành viên gửi đến ASEANAPOL, thông tin sẽ được cập nhật trên hệ thống, và các quốc gia thành viên khác sẽ tiến hành truy nã trong lãnh thổ của mình Thông tin về tội phạm sẽ được gửi lại đến cơ sở dữ liệu của ASEANAPOL và chuyển về cho quốc gia yêu cầu ban hành lệnh truy nã Mặc dù ASEANAPOL không có lực lượng cảnh sát riêng để thực hiện điều tra, nhưng trong khuôn khổ pháp luật Cộng đồng ASEAN, các quốc gia thành viên còn tham gia Hiệp định Tương trợ Tư pháp về hình sự, cho phép họ không chỉ hợp tác truy nã tội phạm mà còn thực hiện các hoạt động tương trợ tư pháp khác như bắt giữ và dẫn độ tội phạm.

ASEANAPOL đã hợp tác với INTERPOL để tiến hành truy nã quốc tế các tội phạm xuyên quốc gia Khi nhận yêu cầu từ các cơ quan cảnh sát quốc tế, INTERPOL phối hợp với các cơ quan cảnh sát quốc gia để truy bắt tội phạm INTERPOL duy trì hệ thống cơ sở dữ liệu truy nã tội phạm và phát lệnh truy nã theo các cấp độ cho các nước thành viên Khi một đối tượng bị phát hiện, thông tin sẽ được chuyển về Ban tổng thư ký INTERPOL và thông báo cho nơi đề nghị truy nã INTERPOL không tham gia vào việc bắt giữ hay can thiệp vũ trang, mà các hoạt động này do cơ quan cảnh sát quốc gia thực hiện Tuy nhiên, INTERPOL có thể hỗ trợ các tổ chức cảnh sát địa phương trong việc theo dõi và truy tìm các kẻ bị truy nã.

ASEANAPOL sẽ cung cấp môi trường và trao đổi thông tin để hỗ trợ truy nã tội phạm, mặc dù không tham gia trực tiếp vào việc bắt giữ Tổ chức này sẽ tiến hành các hoạt động tư pháp khác dựa trên hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự trong khu vực, đồng thời phối hợp chặt chẽ với INTERPOL trong các hoạt động liên quan.

Tương trợ tư pháp hình sự

Trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc chủ quyền quốc gia trong luật quốc tế, các hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan tư pháp quốc gia chỉ có thẩm quyền tài phán trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, trừ trường hợp giữa các quốc gia có ký kết các điều ước quốc tế Để giải quyết vụ án hình sự, các quốc gia phải hợp tác với nhau, và các hành vi tố tụng liên quan phải được tiến hành theo đúng quy định trên lãnh thổ nước ngoài thông qua con đường tương trợ tư pháp Nhận thức được tầm quan trọng của tương trợ tư pháp về hình sự đã tạo điều kiện cho hoạt động này diễn ra hiệu quả Đại đa số các quốc gia thành viên ASEAN đã nhất trí ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự vào ngày 29/11/2004, đánh dấu điều ước quốc tế đa phương đầu tiên về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự giữa các nước ASEAN, thể hiện quyết tâm chung của các nước Đông Nam Á trong phòng, chống tội phạm khu vực Việc ký kết Hiệp định này đã tạo cơ sở pháp lý để các quốc gia ASEAN tiến hành các hoạt động hợp tác trong lĩnh vực đấu tranh, phòng, chống tội phạm.

Thứ nhất, về phạm vi tương trợ tư pháp về hình sự

Theo quy định tại Điều 1 Hiệp định các hoạt động tƯơng trợ tƯ pháp bao gồm:

Chuyển giao và tiếp nhận lời khai, thu thập chứng cứ, tài liệu và giấy tờ liên quan đến vụ án hình sự là những bước quan trọng trong quá trình điều tra Đồng thời, việc tổng hợp giấy tờ và tài liệu tư pháp cũng cần được thực hiện một cách nghiêm túc để đảm bảo tính hợp pháp và chính xác của thông tin.

- Cung cấp ban chính hoặc ban sao co xác nhận tài liệu, hồ sơ, chứng cứ co liên quan;

-Xác định hoặc truy tìm tài san do phạm tội mà co và phƯơng tiện phạm tội;

Hạn chế giao dịch đôi với tài sản hoặc phong tỏa tài sản có được từ việc thực hiện tội phạm có thể bị thu hồi hoặc tịch thu.

Xác minh địa chỉ và nhận dạng người làm chứng, người bị tình nghi là một phần quan trọng trong quá trình hợp tác tư pháp giữa các quốc gia thành viên Các quốc gia này có thể thỏa thuận các biện pháp hỗ trợ tư pháp khác nếu phù hợp với mục đích của Hiệp định và pháp luật của quốc gia được yêu cầu Việc xác định phạm vi hỗ trợ tư pháp chỉ áp dụng cho quan hệ giữa các quốc gia thành viên và không tạo ra quyền cho bất kỳ cá nhân nào thu thập, che giấu hoặc từ chối chứng cứ Theo nguyên tắc Pacta sunt servanda, các quốc gia thành viên có nghĩa vụ tôn trọng và hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình điều tra, xét xử và đưa ra phán quyết về các vụ án hình sự.

Bên cạnh việc xác định rõ ràng phạm vi tương trợ tư pháp, các quốc gia thành viên Hiệp định cũng ghi nhận các trường hợp cụ thể không áp dụng các quy định của Hiệp định Các vấn đề pháp lý quan trọng như dẫn độ tội phạm, chuyển giao người phạm tội để thi hành án, và chuyển giao việc xét xử hình sự sẽ không thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định Đồng thời, không cho phép bất kỳ quốc gia thành viên nào thực hiện quyền tài phán hay các chức năng thuộc thẩm quyền tuyệt đối của các cơ quan có thẩm quyền của quốc gia thành viên khác theo quy định của pháp luật của quốc gia đó Quy định này nhấn mạnh tới việc tôn trọng nguyên tắc chủ quyền quốc gia trong quan hệ quốc tế.

Thứ hai, một số vấn đề về yêu cầu tương trợ tư pháp hình sự

Theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Hiệp định, yêu cầu tương trợ tư pháp phải được soạn thảo bằng văn bản Tuy nhiên, trong các trường hợp khẩn cấp, nhằm đáp ứng tính kịp thời trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, yêu cầu có thể được thể hiện dưới hình thức không phải văn bản, nhưng trong khoảng thời gian 5 ngày phải chuyển sang hình thức viết.

Văn bản yêu cầu tương trợ tư pháp cần chứa đựng đầy đủ các nội dung thiết yếu theo yêu cầu của quốc gia được yêu cầu, bao gồm thông tin liên quan đến cơ quan yêu cầu và cơ quan có thẩm quyền, mục đích và tính chất của yêu cầu, cũng như mô tả vấn đề hình sự và tình trạng hiện tại Ngoài ra, tùy từng trường hợp, văn bản có thể bao gồm đặc điểm nhận dạng, quốc tịch và nơi ở của đối tượng điều tra, cùng thông tin về người cần thu thập chứng cứ và phương thức lấy lời khai Nếu thông tin trong văn bản không đầy đủ để thực hiện tương trợ, quốc gia được yêu cầu có quyền đề nghị bổ sung thông tin Ngôn ngữ sử dụng trong văn bản và các tài liệu liên quan phải là tiếng Anh, kèm theo bản dịch sang tiếng của quốc gia được yêu cầu nếu cần thiết.

90 Khoan 3 Điều 6 Hiệp định TU ̛ Ơ ng trơ TU ̛ pháp hình sự năm 2004

Tất cả các yêu cầu và tài liệu giấy tờ liên quan đến tương trợ tư pháp sẽ được chuyển giao trực tiếp giữa các cơ quan trung ương theo quy định của quốc gia thành viên Trong các hoàn cảnh đặc biệt, việc chuyển giao này sẽ được thực hiện thông qua hai tổ chức cảnh sát quốc tế là INTERPOL và ASEANAPOL Quốc gia được yêu cầu sẽ tiến hành hoạt động tương trợ tư pháp theo phương thức đã được quy định trong luật hoặc thực tiễn quốc gia của mình Tuy nhiên, quốc gia yêu cầu có thể đề xuất các phương thức tương trợ khác, miễn là phù hợp với pháp luật và thực tiễn của quốc gia được yêu cầu Hiệp định cũng quy định nghĩa vụ bảo mật thông tin giữa hai quốc gia liên quan, trong đó quốc gia yêu cầu phải áp dụng các biện pháp giữ bí mật thông tin và chứng cứ mà quốc gia được yêu cầu cung cấp, trừ khi cần thiết cho mục đích trong yêu cầu tương trợ, đồng thời đảm bảo rằng thông tin và chứng cứ được bảo vệ khỏi mất mát, tiếp cận, sử dụng, thay đổi, tiết lộ trái phép hoặc các hành vi lạm dụng khác.

Tóm lại, tất cả các vấn đề pháp lý liên quan đến yêu cầu tương trợ tư pháp sẽ được các quốc gia thành viên thực hiện một cách tận tâm và thiện chí, trong khuôn khổ các quy định của Hiệp định cũng như pháp luật quốc gia của các nước này.

Thứ ba, nội dung tương trợ tư pháp hình sự

Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan thực thi pháp luật trong việc đấu tranh và phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia, các quốc gia thành viên đã nhất trí ghi nhận những nội dung tương trợ tư pháp rất cụ thể, bao gồm các vấn đề pháp lý nổi bật của hoạt động tương trợ tư pháp trong hợp tác quốc tế.

Vấn đề thu thập chứng cứ là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong hoạt động tương trợ tư pháp Các quốc gia cần phải tuân thủ pháp luật của mình để đảm bảo việc thu thập chứng cứ, bao gồm cả lời khai có tuyên thệ và các tài liệu được xác nhận.

91 Khoan 2 Điều 5 Hiệp định TU ̛ Ơ ng trơ TU ̛ pháp hình sự năm 2004

92 Điều 9 Hiêp định TU ̛ơng trơ TU ̛ pháp hình sự năm 2004

Hiệp định Tương trợ tư pháp hình sự năm 2004 quy định về việc chuyển giao hồ sơ từ người làm chứng phục vụ cho các vụ án hình sự Hiệp định cho phép sử dụng các phương thức thu thập chứng cứ linh hoạt, bao gồm kết nối truyền hình trực tiếp, phù hợp với pháp luật của quốc gia yêu cầu Quốc gia yêu cầu không có quyền tuyệt đối trong việc sử dụng chứng cứ, và cần có sự đồng ý của quốc gia được yêu cầu Đồng thời, quốc gia yêu cầu có thể hỗ trợ trong việc bố trí người có mặt tại quốc gia đó để phục vụ điều tra hoặc tham gia các thủ tục tố tụng, trừ trường hợp người đó là bị cáo.

95 Đối với tRƯờng hợp ngƯời bị giam giữa tại quốc gia đƯợc yêu cầu mà sự hiện diện của ngƯời này là cần thiết tại quôc gia yêu cầu thì quôc gia ĐƯỢC yêu cầu sẽ co thể đồng ý cho phép tạm thời chuyển giao ngƯời này cho quôc gia yêu cầu 96 NhƯ vậy, trong ca hai tRƯởng hợp thì mọi hoạt động dẫn giải cá nhân co liên quan phai đƯợc thực hiện theo đúng pháp luật và thực tiễn của quốc gia đƯợc yêu cầu, đồng thời phải đƯợc sự đồng ý của đƯơng sự Các quy định của Điều này không ngăn cản việc sử dụng truyền hình trực tiếp hoặc phƯơng tiện truyền thông thích hợp khác theo pháp luật và thực tiễn của Quôc gia đƯợc yêu cầu nếu việc đo là vì công lí 97

Bên cạnh những nội dung quan trọng của tương trợ tư pháp đã được đề cập, Hiệp định còn quy định về các vấn đề pháp lý khác như hoàn trả chứng cứ cho quốc gia được yêu cầu (Điều 19), xác định và nhận dạng người có liên quan (Điều 20), cũng như cung cấp tài liệu với nội dung tổng đạt giấy.

94 Điều 8 Hiệp định TU ̛ơng trơ TU ̛ pháp hình sự năm 2004

95 Điều 14 Hiệp định TU ̛ Ơ ng trơ TU ̛ pháp hình sự năm 2004 96 Khoan

1 Điều 15 Hiệp định TU ̛ơng trơ TU ̛ pháp hình sự năm 2004 97 Khoan

7 Điều 15 Hệp định TU ̛ Ơ ng trơ TU ̛ pháp hình sự năm 2004 tờ co liên quan vụ án hình sự đƯợc ban hành (Điều 21), …

Hiệp định Tương trợ Tư pháp về hình sự giữa các quốc gia thành viên ASEAN đánh dấu một bước tiến quan trọng trong hợp tác quốc tế nhằm phòng, chống tội phạm ở khu vực Đông Nam Á Sự ra đời của hiệp định này không chỉ thể hiện tinh thần hòa hợp và hữu nghị mà còn góp phần vào tiến trình phát triển bền vững của ASEAN.

Dẫn độ tội phạm

Tội phạm xuyên quốc gia là một trong những mối đe dọa lớn đối với an ninh và ổn định của các quốc gia trong khu vực, với ảnh hưởng không chỉ giới hạn trong một quốc gia mà còn lan rộng ra nhiều quốc gia khác, bao gồm cả những quốc gia ngoài khu vực Để đối phó với loại tội phạm phức tạp này, các quốc gia ASEAN cần hợp tác chặt chẽ, đặc biệt là trong lĩnh vực dẫn độ Dẫn độ là hành vi tương trợ pháp lý giữa các quốc gia, dựa trên các quy định của luật quốc tế, cho phép một quốc gia thực hiện việc chuyển giao cá nhân đang hiện diện trên lãnh thổ của mình cho quốc gia yêu cầu nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành bản án đã có hiệu lực pháp luật đối với cá nhân đó.

Năm 1976, ASEAN đã công bố Tuyên bô Hòa hợp ASEAN (Bali Concord I), kêu gọi tăng cường hợp tác giữa các quốc gia thành viên và các tổ chức quốc tế nhằm ngăn chặn và chấm dứt nạn buôn bán ma túy Tuyên bố này cũng nhấn mạnh việc nghiên cứu khả năng hợp tác tư pháp, bao gồm xây dựng một hiệp ước ASEAN về dẫn độ.

Trong bối cảnh ASEAN chưa xây dựng được văn kiện pháp lý chung về dẫn độ, các quốc gia thành viên thực hiện hoạt động này thông qua các điều ước song phương mà các bên đã ký kết.

Ước song phƯơng đo là cơ sở pháp lí quan trọng cho hoạt động phòng, chông tội phạm xuyên quôc gia trong ASEAN Các nƯớc ASEAN đã ký nhiều Hiệp định dẫn độ, bao gồm Hiệp định giữa Thái Lan và Malaysia (1971), Hiệp định giữa Thái Lan và Philippines (1981), và Hiệp định giữa Philippines và Indonesia (1976) Những hiệp định này thể hiện sự hợp tác chặt chẽ giữa các quốc gia trong khu vực nhằm nâng cao hiệu quả trong việc đối phó với tội phạm xuyên quốc gia.

Các hiệp định dẫn độ quan trọng trong khu vực Đông Nam Á bao gồm Hiệp định giữa Thái Lan và Indonesia vào năm 1996, Hiệp định giữa Thái Lan và Campuchia năm 1999, Hiệp định giữa Thái Lan và Lào năm 2005, và Hiệp định giữa Indonesia và Singapore năm 2007 Những hiệp định này đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường hợp tác pháp lý và an ninh giữa các quốc gia trong khu vực.

Trong các trường hợp giữa các quốc gia chưa tồn tại điều ước song phương hay đa phương về dẫn độ, nguyên tắc “Có đi có lại” được áp dụng, hiểu đơn giản là hành động đáp lại tương xứng những gì mà quốc gia này đã nhận được từ quốc gia khác Xuất phát từ chủ quyền quốc gia, các quốc gia sẽ không đơn phương đáp ứng yêu cầu của quốc gia khác nếu không đảm bảo rằng quyền lợi của mình cũng sẽ được đáp ứng một cách tương xứng Nguyên tắc này đóng vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế và hợp tác về dẫn độ Việc thừa nhận và áp dụng nguyên tắc “Có đi có lại” trong thực tiễn dẫn độ giúp các nước thực hiện hiệu quả quyền tài phán hình sự đối với người phạm tội đang lẩn trốn ở nước ngoài, kể cả trong trường hợp giữa nước yêu cầu và nước được yêu cầu không có cơ sở pháp lý quốc tế để dẫn độ Đến năm 2004, Kế hoạch an ninh cộng đồng ASEAN đã được thông qua, và các nước ASEAN đã nhất trí về chủ trương xây dựng Hiệp định dẫn độ giữa các nước này Họp nghị Bộ trưởng Tư pháp các nước ASEAN (ALAWMM) lần thứ 6 đã đồng ý thành lập một Nhóm Công tác về xây dựng Hiệp định dẫn độ, dù tồn tại hai quan điểm khác nhau về cách tiếp cận do sự khác biệt trong hệ thống pháp luật của các nước thành viên ASEAN.

- Một là, xây dựng Hiệp định về dẫn độ trong ASEAN.

Hãy tạm thời xây dựng một hiệp định mẫu về dẫn độ trong ASEAN, làm cơ sở cho việc hình thành một hiệp định chính thức trong tương lai.

Hiện nay, Nhóm Công tác về xây dựng Hiệp định dẫn dõi ASEAN, bao gồm đại diện của các nước ASEAN, đang tiếp tục thảo luận để đưa ra một dự thảo Hiệp định trình lên các cấp có thẩm quyền quyết định trong thời gian tới.

Thiết chế pháp lí của ASEAN phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia

Đánh giá Pháp luật Cộng đồng ASEAN về phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia

Ngày đăng: 14/09/2021, 07:59

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Nguyễn Ngọc Anh (chủ biên) (2007), Hợp tác quốc tế đấu tranh phòng, chống tội phạm của lực lượng Cảnh sát nhân dân Việt Nam, Nxb. T U ̛ pháp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hợp tác quốc tế đấu tranh phòng,chống tội phạm của lực lượng Cảnh sát nhân dân Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Ngọc Anh (chủ biên)
Nhà XB: Nxb. TƯpháp
Năm: 2007
2. Nguyễn Ngọc Anh (chủ biên) (2011), Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống khủng bố - Những vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb. Công an nhân dân Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoàn thiện pháp luật về phòng,chống khủng bố - Những vấn đề lí luận và thực tiễn
Tác giả: Nguyễn Ngọc Anh (chủ biên)
Nhà XB: Nxb. Công an nhândân
Năm: 2011
3. Nguyễn Ngọc Anh (chủ biên) (2013), Công ước ASEAN về chống khủng bố và sự tham gia của Việt Nam (Tài liệu tập huấn chuyên sâu), Vụ Pháp chế- Bộ công an Sách, tạp chí
Tiêu đề: Công ước ASEAN về chống khủngbố và sự tham gia của Việt Nam (Tài liệu tập huấn chuyên sâu)
Tác giả: Nguyễn Ngọc Anh (chủ biên)
Năm: 2013
5. Bộ Công an (2013), Sổ tay về công tác chuyển giao người bị kết án phạt tù, Nxb. Lao động, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sổ tay về công tác chuyển giao người bị kết án phạttù
Tác giả: Bộ Công an
Nhà XB: Nxb. Lao động
Năm: 2013
6. Bộ Công an (2013), Sổ tay về công tác dẫn độ, Nxb. Lao động, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sổ tay về công tác dẫn độ
Tác giả: Bộ Công an
Nhà XB: Nxb. Lao động
Năm: 2013
7. Bộ Công an (2013), Sổ tay về công tác tương trợ tư pháp hình sự, Nxb.Lao động, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sổ tay về công tác tương trợ tư pháp hình sự
Tác giả: Bộ Công an
Nhà XB: Nxb.Lao động
Năm: 2013
8. Bộ Công an (2014), Các văn kiện của Liên hợp quốc và khu vực ASEAN về phòng, chống khủng bố (tập 1, 2), Nxb. Lao động Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các văn kiện của Liên hợp quốc và khu vực ASEANvề phòng, chống khủng bố (tập 1, 2)
Tác giả: Bộ Công an
Nhà XB: Nxb. Lao động
Năm: 2014
9. Bộ Công an (2014), Tuyển tập các văn kiện pháp lí quốc tế có liên quan đến phòng, chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia (Tập 1, 2), Nxb. Lao động, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tuyển tập các văn kiện pháp lí quốc tế có liên quanđến phòng, chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia mà Việt Nam đã kýkết hoặc tham gia (Tập 1, 2)
Tác giả: Bộ Công an
Nhà XB: Nxb. Lao động
Năm: 2014
10. Bộ Công an (2015), Đàm phán, ký kết Hiệp định chuyển giao người bị kết án phạt tù giữa Việt Nam với các nước - Thực tiễn và kinh nghiệm, Nxb.Lao động, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đàm phán, ký kết Hiệp định chuyển giao người bị kếtán phạt tù giữa Việt Nam với các nước - Thực tiễn và kinh nghiệm
Tác giả: Bộ Công an
Nhà XB: Nxb.Lao động
Năm: 2015
11. Bộ Công an, Đàm phán, ký kết Hiệp định về dẫn độ (2016) - Thực tiễn và kinh nghiệm, Nxb. Lao động, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đàm phán, ký kết Hiệp định về dẫn độ (2016) - Thực tiễn vàkinh nghiệm
Nhà XB: Nxb. Lao động
15. Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên) (2012), Giáo trình Luật Hình sự quốc tế, Nxb. Chính trị Quôc gia - Sự thật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật Hình sự quốc tế
Tác giả: Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên)
Nhà XB: Nxb. Chính trị Quôc gia - Sự thật
Năm: 2012
16. Luận Thuy D U ̛ơng, Kênh đối thoại không chính thức về an ninh và chính trị - Kênh 2 của ASEAN, Nxb. Chính trị Quôc gia, Hà Nội, 2010 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kênh đối thoại không chính thức về an ninh và chính trị - Kênh 2 của ASEAN
Nhà XB: Nxb. Chính trị Quôc gia
17. Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp (chủ biên) (2013), Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, Khoa QHQT – Đại học KHXH&NV TPHCM, tr, 46 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế
Tác giả: Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp (chủ biên)
Năm: 2013
18. D U ̛ơng Minh Hào, Nguyễn Quôc Tuấn, Nguyễn Tiến Đạt (2009), Các loại tội phạm xuyên quốc gia, Nxb. Công an nhân dân Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cácloại tội phạm xuyên quốc gia
Tác giả: D U ̛ơng Minh Hào, Nguyễn Quôc Tuấn, Nguyễn Tiến Đạt
Nhà XB: Nxb. Công an nhân dân
Năm: 2009
19. Nguyễn Huy Hoàng (chủ biên) (2013), Đánh giá thực hiện cam kết xây dựng Cộng đồng ASEAN, Nxb.Từ điển Bách Khoa, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đánh giá thực hiện cam kết xâydựng Cộng đồng ASEAN
Tác giả: Nguyễn Huy Hoàng (chủ biên)
Nhà XB: Nxb.Từ điển Bách Khoa
Năm: 2013
20. Trần Văn Hoà (2011), An toàn thông tin và công tác phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, Nxb. Công an nhân dân Sách, tạp chí
Tiêu đề: An toàn thông tin và công tác phòng, chống tộiphạm sử dụng công nghệ cao
Tác giả: Trần Văn Hoà
Nhà XB: Nxb. Công an nhân dân
Năm: 2011
21. Nguyễn Thị Ph U ̛ơng Hoa (2014), Luật hình sự quốc tế với việc đảm bảo quyền con người, Nxb. Đại học Quôc gia TP. Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật hình sự quốc tế với việc đảm bảoquyền con người
Tác giả: Nguyễn Thị Ph U ̛ơng Hoa
Nhà XB: Nxb. Đại học Quôc gia TP. Hồ Chí Minh
Năm: 2014
22. Trần Khánh (chủ biên) (2003), Hiện thực hoá Cộng đồng chính trị - an ninh ASEAN: Vấn đề và triển vọng, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hiện thực hoá Cộng đồng chính trị - anninh ASEAN: Vấn đề và triển vọng
Tác giả: Trần Khánh (chủ biên)
Nhà XB: Nxb. Khoa học xã hội
Năm: 2003
23. Nguyễn Hùng Sơn, Luận Thùy D U ̛ơng, Khổng Thị Bình, Hà Anh Tuấn, 150 câu hỏi và đáp về ASEAN - Hiến chương ASEAN và Cộng đồng ASEAN, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2010 Sách, tạp chí
Tiêu đề: 150 câu hỏi và đáp về ASEAN - Hiến chương ASEAN và Cộng đồngASEAN
Nhà XB: Nxb. Thế giới
24. Nguyễn Thị Thuận (chủ biên) (2007), Luật hình sự quốc tế (sách chuyên khảo), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật hình sự quốc tế (sách chuyênkhảo)
Tác giả: Nguyễn Thị Thuận (chủ biên)
Nhà XB: Nxb. Công an nhân dân
Năm: 2007

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w