1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Nghệ thuật trần thuật trong hồi ký của ma văn kháng (qua tác phẩm năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương)

109 24 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 109
Dung lượng 1,02 MB

Cấu trúc

  • 1. Lí do chọn đề tài (4)
  • 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu (5)
  • 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (8)
  • 4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu (9)
  • 5. Phương pháp nghiên cứu (9)
  • 6. Cấu trúc của luận văn (9)
  • Chương 1 VỊ TRÍ CỦA HỒI KÝ TRONG SỰ NGHIỆP CỦA MA VĂN KHÁNG (10)
    • 1.1 Nhìn chung về sự nghiệp sáng tác của Ma Văn Kháng (10)
      • 1.1.1 Tiểu sử Ma Văn Kháng (10)
      • 1.1.2 Sự nghiệp sáng tác của Ma Văn Kháng (12)
    • 1.2 Hồi kí - một phương diện mới trong sự nghiệp văn chương của Ma Văn Kháng (14)
      • 1.2.1 Khái niệm hồi ký (14)
      • 1.2.2. Tổng quan về sự phát triển của thể hồi ký trong văn học Việt Nam (18)
      • 1.2.3. Nhìn chung về hồi ký của Ma Văn Kháng (26)
  • Chương 2. ĐIỂM NHÌN VÀ NHỊP ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG HỒI KÝ CỦA MA VĂN KHÁNG (31)
    • 2.1. Khái niệm điểm nhìn trần thuật và nhịp điệu trần thuật (31)
      • 2.1.1. Khái niệm điểm nhìn trần thuật (31)
      • 2.1.2. Khái niệm nhịp điệu trần thuật (34)
    • 2.2. Điểm nhìn trần thuật trong hồi kí của Ma Văn Kháng (36)
      • 2.2.1. Điểm nhìn chủ quan và điểm nhìn khách quan (36)
      • 2.2.2 Điểm nhìn bên ngoài và điểm nhìn bên trong (46)
      • 2.2.3. Sự dịch chuyển, phối hợp các điểm nhìn (52)
    • 2.3. Nhịp điệu trần thuật trong hồi kí của Ma Văn Kháng (54)
      • 2.3.1. Nhịp điệu khoan thai, nhẹ nhàng (54)
      • 2.3.2. Nhịp điệu dồn dập, khẩn trương (58)
    • 3.1. Khái niệm giọng điệu trần thuật và ngôn ngữ trần thuật (63)
      • 3.1.1 Khái niệm giọng điệu trần thuật (63)
    • 3.2. Giọng điệu trần thuật trong hồi ký của Ma Văn Kháng (67)
      • 3.2.1. Giọng ngợi ca, trang trọng (67)
      • 3.2.2 Giọng xót xa, ngậm ngùi (77)
      • 3.2.3 Giọng triết lí, suy tư (84)
    • 3.3. Ngôn ngữ trần thuật trong hồi kí của Ma Văn Kháng (91)
      • 3.3.1. Ngôn ngữ đời thường, giản dị (92)
      • 3.3.2 Ngôn ngữ giàu chất thơ, giàu hình ảnh và sức gợi cảm (98)
  • KẾT LUẬN (103)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (105)

Nội dung

Lịch sử vấn đề nghiên cứu

2.1 Nghiên cứu về sự nghiệp văn chương của Ma Văn Kháng nói chung

Ma Văn Kháng là một nhà văn nổi bật với nhiều tác phẩm xuất sắc trong các thể loại như tiểu thuyết, truyện ngắn và tạp văn Ông đã có những đóng góp quan trọng cho văn học Việt Nam, đặc biệt là trong việc phản ánh cuộc sống của người dân miền núi và thành phố miền Bắc sau năm 1975 Các tác phẩm của ông, từ những tác phẩm đầu tay như "Mưa mùa hạ", "Mùa lá rụng trong vườn", "Đám cưới không có giấy giá thú" đến những tác phẩm gần đây như "Chuyện của Lý", đã thu hút sự quan tâm lớn từ độc giả cũng như giới nghiên cứu và phê bình.

Ma Văn Kháng, với những tác phẩm như "Đồng bạc trắng hoa xòe," "Mưa mùa hạ," và "Mùa lá rụng trong vườn," đã khắc họa những nhân vật đầy trăn trở và đau khổ trước thực tại xã hội Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện về ông, trong đó có các bài viết tiêu biểu của Trần Đăng Xuyền, như "Đọc Đồng bạc trắng hoa xòe" (Báo Văn nghệ, 8/12/1979), "Một cách nhìn cuộc sống hôm nay" (Báo Văn Nghệ, 9/4/1985), và "Phải chăm lo cho từng người" (Báo Văn nghệ, 15/10/1985) Những bài viết này đã đưa ra những đánh giá sâu sắc về các tác phẩm của Ma Văn Kháng, làm nổi bật hiện tượng văn học của ông trong bối cảnh xã hội.

Ngoài ra, cần nhắc đến các bài viết đánh giá về văn nghiệp và phong cách của Ma Văn Kháng, đặc biệt là những tác phẩm như "Ma Văn Kháng", "Con đường", và "Hồi ức".

Hồ Anh Thái; Ma Văn Kháng và dòng chảy văn chương của Anh Chi

Bài viết "Trữ lượng Ma Văn Kháng" đăng trên báo Văn nghệ, số 20, 21 tháng 5 năm 2005, của nhà nghiên cứu Phong Lê đã đưa ra cái nhìn tổng quan về các tác phẩm của Ma Văn Kháng Đặc biệt, khi đọc "Đám cưới không có giấy giá thú" của Lê Ngọc Y, người đọc càng thấy rõ những ý kiến khẳng định thành công của cuốn tiểu thuyết này.

Các bài viết về tiểu thuyết của Ma Văn Kháng: Bài viết Đổi mới tư duy về nghệ thuật trong sáng tác của Ma Văn Kháng những năm 1980 của

Nguyễn Thị Huệ, Tạp chí Văn học, 1999; Khi nhà văn đào bới bản thể ở chiều sâu tâm hồn, Lã Nguyên, Tạp chí Văn học số 9/1999

Trần Đăng Xuyền trong bài viết trên báo Văn nghệ số 15 năm 1979 đã thể hiện một cái nhìn sâu sắc về cuộc sống hôm nay Cùng lúc đó, Trần Bảo Hưng với tác phẩm "Mùa lá rụng trong vườn" đã nêu bật những vấn đề của cuộc sống gia đình và vai trò của phụ nữ Việt Nam vào năm 1986 Ngoài ra, giáo sư Phong Lê cũng đóng góp quan điểm qua bài viết "Ma Văn Kháng với Côi cút giữ cảnh đời", làm nổi bật những khía cạnh của cuộc sống hiện thực.

Một vài suy nghĩ khi đọc Côi cút giữa cảnh đời của Ma Văn Kháng; Tác giả

Vũ Thị Oanh và Lã Thị Bắc Lý đã có bài viết "Đọc Chó Bi đời lưu lạc" được đăng trên Tạp chí Tác phẩm mới, số 6, năm 1990 Ngoài ra, Hồ Anh Thái cũng có tác phẩm "Ma Văn Kháng - Ngược dòng nước lũ".

Ngoài các bài viết, các công trình phê bình như luận án và luận văn cũng nghiên cứu sâu rộng về sự nghiệp và tác phẩm của nhà văn tài hoa này.

Có thể kể đến: Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Ma Văn Kháng, Phạm Mai

Luận văn thạc sĩ tại Đại học Sư phạm Hà Nội nghiên cứu nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của Ma Văn Kháng trong thời kỳ đổi mới, đồng thời cũng có luận văn thạc sĩ từ Đại học Thái.

Nguyên; Truyện ngắn Ma Văn Kháng từ nửa sau những năm 80 đến nay,

Nguyễn Thị Thúy Hà, Luận văn thạc sĩ Đại học Vinh; Sáng tác của Ma Văn

Kháng từ thập kỷ 80 lại nay, Hoàng Thị Thúy, Luận văn thạc sĩ Đại học Vinh

2.2 Nghiên cứu về hồi kí của Ma Văn Kháng

Trong những năm gần đây, thể loại hồi ký đã thu hút sự chú ý của giới nghiên cứu phê bình, nhưng tác phẩm hồi ký của Ma Văn Kháng vẫn chưa nhận được sự quan tâm đầy đủ Thông thường, ông chỉ được nhắc đến qua những nhận xét ngắn gọn liên quan đến cuộc đời và sáng tác của mình.

Trên nhiều tạp chí và trang web, có nhiều bài viết giới thiệu và nghiên cứu về hồi ký của Ma Văn Kháng Trong số đó, bài viết của Nguyễn được chú ý đặc biệt.

Ngọc Thiện trong cuốn hồi ký - tự truyện "Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương" đã khẳng định rằng tác phẩm của ông không chỉ đơn thuần là hồi ký mà còn là một tác phẩm văn học sâu sắc Ông mô tả cuốn sách không chỉ là sự kể lại trung thực mà còn là một bức tranh sống động về đời sống xã hội, phản ánh mối quan hệ đa dạng giữa tác giả và những nhân vật xung quanh Với ngôn từ và phong cách viết tài hoa, Ngọc Thiện đã tạo ra một tác phẩm mang tính nghệ thuật cao, thể hiện cái nhìn sâu sắc của một nhà văn về cuộc sống trong suốt gần một thế kỷ.

Còn nhà văn Hồ Anh Thái, trong Ma Văn Kháng, Con đường- hồi ức

Bài viết trên báo Tiền Phong ngày 17 tháng 10 năm 2009 đã nhận xét rằng tác phẩm phản ánh một cuộc đời phong phú với nhiều sự kiện và trải nghiệm Qua số phận cá nhân, độc giả có thể cảm nhận được bối cảnh lịch sử của một thời đại Những trang nhật ký về Tây Bắc gợi nhớ và dễ dàng liên tưởng đến các tác phẩm tiểu thuyết biên cương của tác giả Đặc biệt, ông đã hồi tưởng về những kỷ niệm với học trò, đồng nghiệp trong ngành giáo dục, cũng như bạn bè Tác giả hối hả liệt kê nhiều tên tuổi, thể hiện sự trân trọng và không muốn bỏ sót bất kỳ ai trong ký ức của mình.

Trong bài viết “Cùng hồi tưởng về Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương”, tác giả Bùi Bình Thi nhận định rằng cuốn hồi ký này không chỉ phản ánh chân thực đời sống mà còn chứa đựng chất trữ tình sâu sắc Đọc tác phẩm, người đọc dễ dàng liên tưởng đến cuộc đời của những nhà văn vĩ đại như Giắc Lơn, Platodiop, Lép Tônxtoi và Đôxtôyevsky.

Trong bài viết "Hồi ký - tự truyện Ma Văn Kháng" trên Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, tác giả Lê Thị Lệ Thủy đã nhận xét rằng mỗi độc giả đều có thể tìm thấy một phần của chính mình trong tác phẩm, tạo nên sự gần gũi và thân tình Hơn nữa, gần nửa số trang của cuốn hồi ký được tác giả tỉ mỉ ghi lại những chuyến đi với thái độ chân thành và nồng hậu.

Trong bài viết của Đinh Hương Bình về hồi ký của Ma Văn Kháng, tác giả nhận xét rằng ông không sử dụng hình thức viết cầu kỳ mà thể hiện cảm xúc chân thật qua từng câu chuyện Ma Văn Kháng viết để giải bày tâm tư, không nhằm mục đích thu hút độc giả như nhiều hồi ký khác Ông sắp xếp những ghi chép của mình một cách có trật tự, tạo nên một hành trình thú vị cho độc giả khi khám phá hình ảnh của văn nhân ẩn hiện sau những trang sách.

Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích của nghiên cứu này là khám phá nghệ thuật trần thuật trong hồi ký của Ma Văn Kháng, nhằm khẳng định tài năng và sự đa dạng trong phong cách viết của một tác giả nổi bật trong văn học Việt Nam đương đại.

Luận văn hướng đến các nhiệm vụ:

- Xác định vị trí của thể tài hồi kí trong sự nghiệp văn chương của Ma Văn Kháng

- Khảo sát điểm nhìn trần thuật và nhịp điệu trần thuật trong hồi kí Ma Văn Kháng

- Khảo sát giọng điệu trần thuật và ngôn ngữ trần thuật trong hồi kí Ma Văn Kháng.

Phương pháp nghiên cứu

Trong luận văn, chúng tôi sử dụng chủ yếu các phương pháp sau:

- Phương pháp cấu trúc – hệ thống

- Phương pháp so sánh- đối chiếu

- Phương pháp phân loại - thống kê

- Phương pháp phân tích - tổng hợp.

Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo, cấu trúc của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Vị trí của hồi kí trong sự nghiệp của Ma văn Kháng

Chương 2: Điểm nhìn và nhịp điệu trần thuật trong hồi kí Ma Văn Kháng Chương 3: Giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật trong hồi kí Ma Văn Kháng.

VỊ TRÍ CỦA HỒI KÝ TRONG SỰ NGHIỆP CỦA MA VĂN KHÁNG

Nhìn chung về sự nghiệp sáng tác của Ma Văn Kháng

1.1.1 Tiểu sử Ma Văn Kháng

Nhà văn Ma Văn Kháng, tên thật là Đinh Trọng Đoàn, sinh ngày 01 tháng 12 năm 1936, là một trong những tác giả nổi bật của văn học Việt Nam Ông sinh ra tại Phường Kim Liên, quận Đống Đa, Hà Nội, và là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.

Sinh ra trong một gia đình có truyền thống cắt tóc và buôn bán nhỏ, ông đã rời quê hương lên trấn Sơn Lộc, Sơn Tây để sinh sống và làm ăn Tại đây, ông chứng kiến những biến động lịch sử như Nhật đảo chính Pháp và cuộc cách mạng tháng 8 Dù không tham gia trực tiếp vào các hoạt động cách mạng, ông vẫn thể hiện tấm lòng yêu nước và ủng hộ mạnh mẽ cho sự nghiệp cách mạng.

Năm 1948, ông vào học trường thiếu nhi của Bộ Nội vụ rồi trở về học tại trường Thiếu sinh quân Việt Nam Năm 1952, ông là giáo sinh của khoa

Xã hội trường Sư phạm trung cấp đóng tại khu học xá Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc

Sau hai năm học tập ở nước ngoài, Ma Văn Kháng trở về với khát vọng xây dựng quê hương trong thời kỳ kháng chiến Ông tình nguyện lên miền núi phía Bắc, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời Ông chia sẻ rằng mình ra đi theo mốc lịch sử 1954, khi hòa bình trở lại, và thế hệ thanh niên miền Bắc đã đáp ứng tiếng gọi của đất nước Tại tỉnh Lào Cai, nơi ông cảm thấy có nhiều duyên nợ, ông đã dạy học tại trường cấp I, II và đảm nhiệm chức vụ hiệu trưởng từ năm 1955 đến 1959 Trong thời gian này, ông còn tham gia thu thuế nông nghiệp và tuyên truyền chính sách của Đảng và Nhà nước đến đồng bào dân tộc trong những kỳ nghỉ hè.

Năm 1961, Đinh Trọng Đoàn được cử đi học tại Đại học Sư phạm Hà Nội trong khi ông đang giữ chức hiệu trưởng trường cấp II Lào Cai.

Tại Hà Nội, ông đã có cơ hội gặp gỡ nhiều thầy cô, bạn bè và trí thức, từ đó không ngừng học hỏi và rút ra kinh nghiệm trong lĩnh vực văn chương Sau khi hoàn thành khóa học vào tháng 6 năm 1963, ông được giữ lại làm giảng viên tại trường đại học, nhưng vì tình yêu với mảnh đất Lào Cai, ông đã quyết định trở về và đảm nhận vị trí phó tổng biên tập báo Đảng bộ Lào Cai.

Với năng lực và bằng cấp của mình, ông đã được tin tưởng giao nhiệm vụ thư ký cho bí thư tỉnh Ngày 4/3/1967, ông chính thức chuyển sang công tác mới Trong một năm làm việc cùng đồng chí bí thư Tỉnh Ủy Trường Minh, ông đã có cơ hội tiếp xúc với nhiều lãnh đạo trong bộ máy tỉnh, đặc biệt cảm mến những người mà ông coi là “thế hệ vàng của cách mạng”.

Bút danh Ma Văn Kháng được hình thành trong thời gian ông làm việc tại vùng đất này, gắn liền với kỷ niệm sâu sắc về ân nhân Ma Văn Nho, người đã cứu sống ông trong những lần bị sốt rét ác tính Ông vừa cảm kích trước tình cảm của người anh, vừa khâm phục tài năng của anh.

Ma Văn Nho, sau này đổi sang họ Ma, đã chọn bút danh Ma Văn Kháng, trở thành tên tuổi nổi bật trong làng văn học.

Ma Văn Kháng, với thời gian dài gắn bó với Lào Cai, đã tinh tế cảm nhận cuộc sống của người dân nơi đây Ông khám phá vẻ đẹp độc đáo của con người và thiên nhiên miền sơn cước, những hình ảnh hồn nhiên, thơ mộng luôn hiện lên trước mắt, thúc đẩy ông cầm bút Những trang văn đầu tiên về mảnh đất quê hương thứ hai của ông đã ra đời, đánh dấu thành công từ quá trình lao động sáng tạo không ngừng nghỉ.

Với 22 năm gắn bó với mảnh đất miền núi phía Bắc này, ông đã am hiểu khá tường tận phong tục, tập quán và con người nơi đây Những điều đó là nguồn tư liệu sống để làm nên những tác phẩm có giá trị trong sự nghiệp sáng tác của ông

Năm 1976, sau khi đất nước thống nhất, Ma Văn Kháng rời Lào Cai để chuyển về Hà Nội, nơi ông giữ nhiều chức vụ quan trọng như Tổng biên tập và phó giám đốc nhà xuất bản Lao Động Từ tháng 3-1985, ông là ủy viên ban chấp hành và Tổng biên tập Tạp chí Văn học nước ngoài của Hội Nhà văn khóa V Với tính cách dễ mến và hòa đồng, ông luôn hoàn thành tốt công việc của mình.

1.1.2 Sự nghiệp sáng tác của Ma Văn Kháng

Tác phẩm đầu tay của Ma Văn Kháng, truyện ngắn "Phố cụt", được đăng trên tuần báo Văn nghệ số 136 vào ngày 3/3/1961, đánh dấu sự khởi đầu trong sự nghiệp sáng tác của ông Với cốt truyện đơn giản và văn mạch rõ ràng, tác phẩm này phản ánh những nét cơ bản trong hành trình văn chương của ông Từ đó, Ma Văn Kháng viết đều đặn và nhanh chóng chiếm được cảm tình của độc giả qua các bài viết trên báo Ông sáng tác như một sự thôi thúc từ trái tim đầy cảm xúc, cùng với sự từng trải và am hiểu về cuộc sống, đã tạo ra nhiều tác phẩm và nhân vật tiêu biểu cho thời đại.

Ma Văn Kháng, từ vai trò nhà giáo và cán bộ tỉnh ủy đến nhà văn, đã thể hiện cái nhìn sâu sắc về thời cuộc qua các tác phẩm của mình Ông khắc họa một thế giới nhân vật đa dạng, bao gồm những kẻ cai trị thực dân hung hãn, tri châu độc ác, thổ phỉ mất hết nhân tính, và dân buôn thuốc phiện ranh mãnh, bên cạnh những người lính tay sai hèn hạ Đồng thời, ông cũng miêu tả những người dân miền núi hiền lành, những thiếu nữ xinh đẹp phục vụ cho quan lại, cùng với các chiến sĩ công an và thầy giáo từ miền xuôi lên miền cao, mang con chữ và ánh sáng tri thức đến cho đồng bào dân tộc.

Ma Văn Kháng hết sức đa dạng và đã để lại những ấn tượng không thể quên trong lòng người đọc

Sau hơn 50 năm cống hiến cho nghệ thuật, ông đã xây dựng một gia tài văn chương đồ sộ với hơn 200 truyện ngắn, 18 tiểu thuyết, nhiều bài tiểu luận và phê bình, cùng một cuốn hồi ký Với phong cách viết cần mẫn và chuyên nghiệp, ông đã cho ra đời nhiều tác phẩm nổi bật, trong đó có các tiểu thuyết như "Đồng bạc trắng hoa xòe" (1979) và "Vùng biên ải" (1983).

Một số tiểu thuyết nổi bật của tác giả bao gồm "1984" (tiểu thuyết, 1984), "Mưa mùa hạ" (tiểu thuyết, 1982), "Mùa lá rụng trong vườn" (tiểu thuyết, 1985), "Côi cút giữa cảnh đời" (tiểu thuyết, 1989), "Đám cưới không có giấy giá thú" (tiểu thuyết, 1989) và "Chó Bi, đời lưu lạc" (tiểu thuyết) Những tác phẩm này phản ánh sâu sắc các chủ đề về cuộc sống và xã hội.

1992) Về thể loại truyện ngắn có các sáng tác tiêu biểu: Ngày đẹp trời

Hồi kí - một phương diện mới trong sự nghiệp văn chương của Ma Văn Kháng

Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học, tác giả Lại Nguyên Ân cho rằng:

Hồi ký là thể loại văn học kể lại những sự kiện có thật từ góc nhìn chủ quan của tác giả, người tham dự hoặc chứng kiến Tác phẩm này thường phản ánh ấn tượng và hồi ức cá nhân, do đó mang tính chủ quan cao, khiến cho tính xác thực không thể so bì với tư liệu gốc Dù vậy, văn phong sinh động và cảm xúc trực tiếp của tác giả giúp bù đắp cho sự thiếu hụt thông tin Hồi ký rất đa dạng về kiểu loại, có thể gần gũi với văn xuôi lịch sử hoặc tiểu thuyết Đặc biệt, từ thế kỷ 19 và 20, hồi ký về các nhà văn, nghệ sĩ và chính trị gia trở nên phổ biến, được gọi là chân dung văn học Như cuốn Lý luận văn học đã khẳng định, hồi ký ghi lại diễn biến câu chuyện và nhân vật theo bước đi của thời gian qua hồi tưởng.

Hồi ký, theo cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, là thể loại ký thuật lại những sự kiện trong quá khứ mà tác giả đã tham gia hoặc chứng kiến Nó tương tự như nhật ký về mối quan hệ giữa tác giả và sự kiện, nhưng gần gũi hơn với văn xuôi lịch sử về tính xác thực và không hư cấu Người viết hồi ký ghi lại những ấn tượng và hồi ức của bản thân, thường ở ngôi thứ nhất Mặc dù hồi ký có thể mang tính phiến diện và không đầy đủ về thông tin, nhưng sự diễn đạt sinh động của tác giả vẫn tạo ra giá trị như một tài liệu đáng tin cậy.

Từ điển văn học (bộ mới) do Đỗ Đức Hiếu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng

Hồi ký, theo quan niệm của Văn Tửu và Trần Hữu Tá, gần giống với nhật ký ở hình thức giãi bày và thường theo thứ tự thời gian, tập trung vào các sự kiện tiểu sử Về chất liệu, hồi ký mang tính xác thực và không hư cấu, tương tự như văn xuôi lịch sử, nhưng khác với sử gia, người viết hồi ký chỉ tái hiện thực tại từ góc nhìn cá nhân, chịu ảnh hưởng của ký ức và quy luật quên lãng Do đó, tính chủ quan trong hồi ký là điều không thể tránh khỏi, và các sự kiện thường không thể so sánh với tư liệu gốc Tuy nhiên, sự thiếu hụt thông tin được bù đắp bằng cách diễn đạt sinh động những ấn tượng và cảm xúc của tác giả, tạo nên giá trị như một "tư liệu" của thời đại Hồi ký cũng rất đa dạng về kiểu loại và ít định hình về cấu trúc thẩm mỹ.

Hồi ký, theo định nghĩa của Hoàng Phê trong Từ điển Tiếng Việt, là thể văn ghi lại những kỷ niệm và trải nghiệm mà tác giả đã chứng kiến và nhớ lại.

Người viết hồi ký thường hồi tưởng lại những trải nghiệm trong quá khứ, ghi chép những sự kiện và cảm xúc của mình Hồi ký thường được viết khi người ta đã trưởng thành, tích lũy những giá trị quý báu từ cuộc sống và có những bí mật cần chia sẻ với mọi người.

Hồi ký được định nghĩa bởi các nhà lý luận chủ yếu tập trung vào nội dung, gần gũi với tiểu sử khoa học và văn xuôi lịch sử, giúp người đọc khám phá các sự kiện lịch sử và bối cảnh thời đại Đây không phải là tác phẩm hư cấu mà là những câu chuyện thật, mang dấu ấn cá nhân của tác giả, ghi lại những trải nghiệm và chứng kiến trong cuộc sống Việc viết hồi ký là một cuộc đấu tranh nội tâm, không phải ai cũng có thể thực hiện, vì nó đòi hỏi sự dũng cảm để đối mặt với dư luận và công khai những bí mật có thể làm chấn động cuộc sống của tác giả và những người liên quan.

Hồi ký luôn gắn liền với sự thật, và việc tôn trọng tính chân thật trong các chi tiết như sự việc, thời gian, số liệu và địa điểm là điều cần thiết Lý Hoài Thu nhấn mạnh rằng hồi ký phải chính xác trong từng khía cạnh Nhà thơ Huy Cận cũng cho rằng viết hồi ký không chỉ là việc hồi tưởng lại cuộc đời mà còn là chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn và những trải nghiệm của bản thân với mọi người xung quanh.

Hồi ký, mặc dù mang tính chủ quan và không đầy đủ, vẫn cần thiết phải sử dụng hư cấu và tưởng tượng để tái tạo hiện thực, phản ánh sự đa dạng và phức tạp của đời sống Để đạt được giá trị văn học, hồi ký không thể tách rời khỏi quy luật nghệ thuật, trong đó hư cấu đóng vai trò quan trọng Người viết hồi ký không giữ được tính khách quan như sử gia, nhưng vẫn phải đảm bảo tính lịch sử để nâng cao giá trị xã hội và nghệ thuật của tác phẩm Nữ sĩ Anh Thơ nhấn mạnh rằng hồi ký cần phải trung thực, nhưng không có gì ngăn cản nhà văn tô điểm cho sự thật để làm nổi bật cảnh sắc và con người, cũng như lựa chọn sự kiện để trình bày Mặc dù hư cấu trong hồi ký thường ít, nhưng có thể xuất hiện ở những chi tiết không xác định nhằm giúp người đọc hình dung rõ hơn về sự việc chính.

Hồi ký là thể loại nghệ thuật thiên về phương thức trần thuật, trong đó các sự kiện thường được sắp xếp theo dòng hồi ức của tác giả Người viết thường nhớ đến đâu kể đến đấy, không sử dụng thủ pháp cốt truyện, mà chỉ đơn giản là tập hợp những kỷ niệm tản mạn về cuộc đời mình Tác giả có thể hồi tưởng theo trật tự thời gian tuyến tính hoặc theo trình tự không bị chi phối bởi quy luật nào Do đó, hồi ký thường không có cốt truyện rõ ràng, mà chỉ là những sự kiện được hồi tưởng và liên kết với nhau.

Hồi ký là một thể loại tự sự đặc biệt, mang tính chủ quan và thể hiện rõ dấu ấn cá nhân của người sáng tác.

1.2.2 Tổng quan về sự phát triển của thể hồi ký trong văn học Việt Nam

Hồi ký đã xuất hiện từ rất sớm trên thế giới, bắt đầu từ thời kỳ cổ đại Hy Lạp và tiếp tục phát triển qua các thời kỳ Trung đại cho đến ngày nay Cuốn hồi ký đầu tiên được ghi nhận là "Những sự kiện đáng nhớ" của một nhà triết học Hy Lạp.

Xôcrat vào năm 430-355 TCN Ông ghi chép lại những cuộc hành quân của người Hy Lạp trên những miền đất của họ (thế kỉ 5 trước Công nguyên)

Những tác phẩm nổi bật như "Những bức tranh Pari" của Mécxiê và "Tự thú" của Rútxô, cùng với các hồi ký của nhiều nhà văn, nhà thơ, đã phản ánh mạnh mẽ tư tưởng cách mạng Ở Đức, các tác phẩm tiêu biểu của Rốpman, Vécklin, và Phoxter đã chỉ trích nhà nước phong kiến và tuyên truyền cho những lý tưởng cách mạng Pháp Mặc dù chủ nghĩa lãng mạn phát triển chậm trong thể loại ký, nhưng vẫn để lại dấu ấn với những tác phẩm như "Những hồi ức" của Satôbriang, được công bố sau khi ông qua đời Những thành tựu này thể hiện sự đa dạng và sức sống của văn học trong thời kỳ này.

Tự nhiên Nga với các tác phẩm tiêu biểu: Những xó xỉnh Peterbua của

Nêcraxốp, Những người chơi đàn Sácmansica lang thang ở Peterbua Của

Grigrôvivh, Đơi tôi của Leptrôtxki, và những tác phẩm nổi bật khác như của Santưcốp- Sêđrin, Uxpenxki, Lêvitốp đã góp phần vào sự phát triển của thể loại kí trong văn học vô sản, bắt đầu từ những sáng tác của Véctơ, Hainơ và đạt đến đỉnh cao với tác phẩm "Những cuộc phỏng vấn của tôi" của Gorky Tại Việt Nam, thể loại hồi ký ra đời muộn hơn và còn mới mẻ so với các thể loại văn học khác, chủ yếu do ảnh hưởng của ý thức hệ phong kiến kéo dài hàng nghìn năm Trong bối cảnh Bắc thuộc, con người cá nhân chưa được coi trọng, và văn học thường tập trung vào lòng trung hiếu và trách nhiệm của kẻ sĩ, ít đề cập đến cái tôi cá nhân Thực tế văn học thường mang tính ước lệ, với hình ảnh thiên nhiên và con người hòa quyện, nhưng thiếu sự thể hiện chân thực về đời sống cá nhân Bên cạnh đó, truyền thống nông nghiệp lúa nước đã hình thành giá trị tập thể, khiến cho ý thức cá nhân hòa chung với cộng đồng Tuy nhiên, qua những biến động lịch sử, con người dần thay đổi nhận thức và bắt đầu thể hiện bản thân trong văn học, với sự ra đời của nhiều tác phẩm kí, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc khẳng định cái tôi cá nhân.

Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác phản ánh tâm trạng bất mãn với xã hội đương thời, nơi ông cảm thấy như một người tù Qua ngòi bút tinh tế, hình ảnh phủ chúa Trịnh hiện lên với những cung điện xa hoa nhưng ngập tràn sự tẻ nhạt và bệnh tật Các nhân vật từ chúa Trịnh đến quan lại đều chìm đắm trong ăn chơi sa đọa, không ai thực sự làm việc Không khí ảm đạm trong phủ chúa cho thấy sự nặng nề của chế độ xã hội lúc bấy giờ Tương tự, Vũ Trung tùy bút của Phạm Đình Hổ cũng phác họa thói ăn chơi xa hoa của Trịnh Sâm, người đã gây ra tranh giành quyền lực trong phủ chúa vì tình yêu với Đặng Thị Huệ Thể ký xuất hiện vào thế kỷ XVIII phản ánh sự đảo lộn trong trật tự xã hội và sự thay đổi trong nhận thức của con người, đặc biệt là các văn sĩ.

Vào thế kỷ XX, nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu đã ghi lại những năm tháng hoạt động cách mạng gian khổ của mình trong cuốn Ngục trung thư, một tác phẩm thể hiện những trải nghiệm cá nhân của một chiến sĩ yêu nước Cuốn sách phản ánh một hành trình dài với hoài bão, lý tưởng và nhiệt huyết của thanh niên yêu nước, mong muốn thực hiện những điều vĩ đại: “Muốn vượt biển đông theo cánh sống/ Muôn trùng sống bạc tiễn ra khơi.” Cách nghĩ và cảm nhận của ông thể hiện tinh thần yêu nước sâu sắc, khi ông đồng nhất số phận cá nhân với số phận dân tộc và cộng đồng.

ĐIỂM NHÌN VÀ NHỊP ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG HỒI KÝ CỦA MA VĂN KHÁNG

Ngày đăng: 09/09/2021, 20:20

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Phạm Mai Anh (1997), Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Ma Văn Kháng từ sau năm 1980, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư Phạm Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Ma Văn Kháng từ sau năm 1980
Tác giả: Phạm Mai Anh
Năm: 1997
2. Lại Nguyên Ân (2003), 150 từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: 150 từ điển thuật ngữ văn học
Tác giả: Lại Nguyên Ân
Nhà XB: Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 2003
3. Bakhtin.M (1993), Những vấn đề thi pháp Dontoiepxki, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những vấn đề thi pháp Dontoiepxki
Tác giả: Bakhtin.M
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 1993
4. Lê Huy Bắc (1998), “Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại”, Tạp chí Văn học, số 9 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại”, Tạp chí "Văn học
Tác giả: Lê Huy Bắc
Năm: 1998
5. Đinh Hương Bình (2013), “Ma Văn Kháng viết tự truyện”, Tạp chí văn học Việt online, số 5 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ma Văn Kháng viết tự truyện”, Tạp chí "văn học Việt online
Tác giả: Đinh Hương Bình
Năm: 2013
6. Anh Chi (2010), “Ma Văn Kháng và dòng chảy văn chương”, WWW. Vietlion.com Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ma Văn Kháng và dòng chảy văn chương”, "WWW
Tác giả: Anh Chi
Năm: 2010
7. Phan Cự Đệ (chủ biên, 2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn học Việt Nam thế kỷ XX
Nhà XB: Nxb Giáo dục
8. Hà Minh Đức (chủ biên, 2001), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lý luận văn học
Nhà XB: Nxb Giáo dục
9. G. Genette (2007), Ngôi (Phong Tuyết dịch), In trong “Lý luận phê bình văn học thế kỷ XX”, Tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ngôi" (Phong Tuyết dịch), In trong “Lý luận phê bình văn học thế kỷ XX
Tác giả: G. Genette
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 2007
10. Nguyễn Thị Thúy Hà (1999), Truyện ngắn Ma Văn Kháng từ nửa sau những năm 80, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Vinh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Truyện ngắn Ma Văn Kháng từ nửa sau những năm 80
Tác giả: Nguyễn Thị Thúy Hà
Năm: 1999
11. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên, 1997), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển thuật ngữ văn học
Nhà XB: Nxb Giáo dục
12. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1999), Lý luận văn học – mấy vấn đề cần suy nghĩ, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lý luận văn học – mấy vấn đề cần suy nghĩ
Tác giả: Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 1999
13. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (đồng chủ biên, 2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển văn học (bộ mới
Nhà XB: Nxb Thế giới
14. Hoàng Ngọc Hiến (1992), Nhập môn văn học (dịch), Trường viết văn Nguyễn Du Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhập môn văn học
Tác giả: Hoàng Ngọc Hiến
Năm: 1992
15. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những vấn đề thi pháp của truyện
Tác giả: Nguyễn Thái Hòa
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 2000
16. Tô Hoài (1944), Cỏ dại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cỏ dại
Tác giả: Tô Hoài
Nhà XB: Nxb Hội nhà văn
Năm: 1944
17. Tô Hoài (1985), Tự truyện, Nxb Văn học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tự truyện
Tác giả: Tô Hoài
Nhà XB: Nxb Văn học
Năm: 1985
18. Tô Hoài (1992), Cát bụi chân ai, Nxb Văn học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cát bụi chân ai
Tác giả: Tô Hoài
Nhà XB: Nxb Văn học
Năm: 1992
19. Tô Hoài (1999), Chiều chiều, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chiều chiều
Tác giả: Tô Hoài
Nhà XB: Nxb Hội nhà văn
Năm: 1999
20. Nguyên Hồng (1940), Những ngày thơ ấu, Nxb Đời nay Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những ngày thơ ấu
Tác giả: Nguyên Hồng
Nhà XB: Nxb Đời nay
Năm: 1940

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w