CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CƠ SỞ LÝ LUẬN
COPD, theo Hội Lồng ngực Hoa Kỳ (ATS-1995), là một bệnh lý của đường hô hấp có đặc điểm là tắc nghẽn lưu lượng khí trong phế quản và/hoặc phổi Tình trạng tắc nghẽn này diễn ra dần dần và có thể kèm theo phản ứng phế quản, với khả năng hồi phục hoàn toàn hoặc một phần.
Hội hô hấp Châu Âu (ERS-1995) định nghĩa COPD là một bệnh lý đặc trưng bởi giảm lưu lượng khí thở ra tối đa và quá trình tháo rỗng khí trong phổi diễn ra chậm Bệnh tiến triển từ từ và không thể hồi phục, thường do sự kết hợp của các bệnh lý đường hô hấp như viêm phổi và khí phế thũng.
Năm 2001, tổ chức y tế thế giới (WHO) phối hợp với Viện Tim Phổi Huyết Học quốc gia Mỹ (NHLBI) đã khởi động dự án “Sáng kiến toàn cầu cho COPD” (GOLD), nhằm phát triển chiến lược toàn cầu về chẩn đoán, điều trị và phòng ngừa bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) GOLD đã đưa ra định nghĩa chính thức về COPD, được công nhận rộng rãi.
COPD là bệnh lý gây hạn chế thông khí không thể hồi phục, thường tiến triển từ từ do phản ứng viêm bất thường trong phổi, liên quan đến tiếp xúc với các chất độc hại hoặc khí ô nhiễm.
Năm 2006 bổ xung thêm: COPD là bệnh có thể phòng ngừa và điều trị được.
+ COPD là bệnh phổ biến, tỷ lệ mắc liên quan trực tiếp đến tỷ lệ hút thuốc lá. Năm 1990 trên toàn cầu ước tính COPD khoảng 9,34 nam, 7,33 nữ/100 dân[19].
Tại Mỹ, tỷ lệ mắc bệnh COPD trong năm 1982 là 4-6% ở nam giới và 1-3% ở nữ giới Đến năm 1996, có khoảng 10,1 triệu người trên 25 tuổi mắc COPD, chiếm 6% dân số Số liệu này tăng lên 12 triệu vào năm 1997 và 14,2 triệu vào năm 2000, tương ứng với 8,2% dân số Mặc dù ước tính có 10 triệu người lớn có triệu chứng lâm sàng của COPD, nhưng thực tế có khoảng 24 triệu người có bằng chứng về tắc nghẽn đường thở, cho thấy tỷ lệ mắc COPD cao hơn nhiều so với con số đã được xác định.
+ Tại Châu Á Thái Bình Dương: Tỷ lệ mắc thấp nhất ở Hồng Kông và Singapo chiếm 3,5%.
+ Tỷ lệ mắc thấp nhất ở nam là 2,69/100 dân (Bắc Phi và Trung Đông) và tỷ
+ Nhìn chung tỷ lệ mắc COPD cao ở những quốc gia có tỷ lệ người dân hút thuốc lá cao và ngược lại[19].
Theo nghiên cứu dịch tễ do Bệnh viện Lao Bệnh Phổi Trung ương thực hiện vào năm 2010, tỷ lệ mắc COPD tại Việt Nam là 2,2% ở người trên 15 tuổi và 4,2% ở người trên 40 tuổi, với tỷ lệ nam giới mắc bệnh là 7,1% và nữ giới là 1,9% Tại Hội thảo hưởng ứng Ngày phòng chống COPD toàn cầu vào ngày 1/12/2008, đã chỉ ra rằng tỷ lệ mắc COPD đang gia tăng tại Việt Nam, đạt 5,2%.
Mặc dù nhiều bệnh đang được kiểm soát hiệu quả và có xu hướng giảm, tỷ lệ tử vong do COPD lại gia tăng nhanh chóng COPD hiện là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tàn phế và tử vong, xếp thứ tư sau bệnh tim mạch, tai biến mạch máu não và ung thư, ngang với HIV/AIDS Dự báo của WHO cho thấy đến năm 2020, COPD sẽ đứng thứ ba về tỷ lệ tử vong và thứ năm về tỷ lệ tàn tật.
+ Tại khu vực Châu Á Thái Bình Dương, tỷ lệ tử vong do COPD có sự khác biệt giữa nam và nữ: Nam 6,4 - 9,2/10.000 dân, nữ chiếm 2,1 - 3,5/10.000 dân[21].
Tại Việt Nam, tỷ lệ tử vong do COPD chưa được công bố cụ thể, nhưng đất nước này có 88,5 triệu dân, với 81% nam giới và 50,6% nữ giới tiếp xúc với khói thuốc lá hàng ngày, cả trực tiếp và gián tiếp.
Thông tin về tỷ lệ bệnh tật và ca tử vong do COPD chủ yếu đến từ các nước phát triển, tuy nhiên, bệnh này thường bị đánh giá thấp hơn mức độ nghiêm trọng thực sự vì thường được chẩn đoán muộn, khi triệu chứng đã rõ ràng Dữ liệu về tử vong do COPD thường đáng tin cậy nhất trong các số liệu thu thập Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ tử vong do COPD thấp ở người dưới 45 tuổi, nhưng lại đứng thứ 4 trong nguyên nhân gây tử vong ở người trên 45 tuổi.
1.1.1.3 Các yếu tố nguy cơ gây COPD
* Những yếu tố liên quan đến môi trường
Khói thuốc lá là một yếu tố nguy cơ quan trọng gây ra các bệnh về đường hô hấp, với khoảng 20% người hút thuốc gặp phải giảm chức năng phổi đáng kể ở giai đoạn sớm và có tỷ lệ cao triệu chứng ho, khạc đờm Ngoài ra, khói thuốc lá còn ảnh hưởng xấu đến chuyển động lông chuyển của biểu mô hô hấp, ức chế chức năng đại thực bào phế nang và làm tăng sinh các tuyến chế nhầy.
Hút thuốc lá chủ động làm tăng kháng lực đường hô hấp, giảm hoạt tính antiprotease và kích thích bạch cầu phóng thích men tiêu protein Đối với bệnh nhân COPD, đặc biệt là ở giai đoạn sớm, việc bỏ thuốc lá rất quan trọng Nó giúp thay đổi tốc độ giảm FEV1, đưa tốc độ này trở về mức bình thường theo tuổi sau khi ngừng hút thuốc Bỏ thuốc lá cũng rõ rệt hạn chế sự giảm FEV1 ở tất cả bệnh nhân.
Hút thuốc thụ động, hay việc tiếp xúc thường xuyên với khói thuốc từ những người xung quanh, làm tăng nguy cơ mắc bệnh COPD Trẻ em có cha mẹ nghiện thuốc lá thường gặp phải các vấn đề về đường hô hấp nghiêm trọng hơn so với trẻ em từ gia đình không có người hút thuốc, và thường phát triển các biến chứng mạn tính Đặc biệt, những người không hút thuốc nhưng sống với người hút thuốc nặng vẫn có thể gặp phải dấu hiệu tắc nghẽn hô hấp.
- Dinh dưỡng: Được cho là yếu tố nguy cơ độc lập với sự phát triển COPD.
Suy dinh dưỡng và giảm cân có thể dẫn đến giảm khối lượng cơ và sức bền của cơ hô hấp cũng như các nhóm cơ khác Nghiên cứu đã chỉ ra rằng phụ nữ mãn kinh bị suy dinh dưỡng có nguy cơ cao gặp phải hiện tượng khí phế thũng.
Nhiễm khuẩn và khả năng kiểm soát nhiễm khuẩn là vấn đề quan trọng trong y học, với H.influenzae là loại vi khuẩn gây bệnh thường gặp nhất Vi khuẩn này thường được phát hiện trong các đợt cấp và tồn tại ở niêm mạc phế quản, dịch tiết niêm mạc, tiểu phế quản, mô kẽ và phế nang của bệnh nhân giai đoạn cuối COPD Sự hiện diện của H.influenzae cho thấy có thể tồn tại mối liên hệ giữa vi khuẩn thường trú và vi khuẩn gây bệnh, mặc dù cơ chế bệnh học vẫn chưa được hiểu rõ.
Theo nghiên cứu của tác giả Trần Hoàng Thành, nhiễm trùng là nguyên nhân chính và quan trọng nhất trong các đợt cấp của bệnh COPD, với tỷ lệ nhiễm vi khuẩn chiếm từ 50-70% Các tác nhân gây bệnh thường gặp bao gồm S.pneumonia, M.catarrhalis, H.influenzae, cùng với sự xuất hiện của các vi khuẩn Gram âm và trực khuẩn mủ xanh.
CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1 Thực trạng tuân thủ điều trị của người bệnh COPD trên thế giới.
Tuân thủ điều trị có vai trò quan trọng trong việc quản lý bệnh COPD, với nhiều nghiên cứu chứng minh rằng điều trị hiệu quả giúp giảm tỷ lệ bệnh lý, biến chứng và tử vong Hướng dẫn tự chăm sóc cho bệnh nhân không chỉ cải thiện chức năng hô hấp mà còn nâng cao chất lượng cuộc sống, giúp họ dễ thở, đứng dậy và đi lại mà không gặp khó khăn Mặc dù có nhiều loại thuốc hỗ trợ và khuyến nghị từ Tổ chức Y tế Thế giới, tỷ lệ tuân thủ điều trị vẫn còn thấp.
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) là một căn bệnh lâu dài, đòi hỏi người bệnh phải tuân thủ điều trị liên tục để tối ưu hóa hiệu quả, giảm chi phí và nâng cao chất lượng cuộc sống Nghiên cứu trên 4,880 bệnh nhân COPD trên 40 tuổi cho thấy việc không tuân thủ điều trị dẫn đến gia tăng tỷ lệ tử vong và nhập viện Hơn nữa, trong một nghiên cứu với 750,000 bệnh nhân mắc các bệnh khác nhau, tỷ lệ tuân thủ điều trị ở bệnh nhân hen suyễn/COPD được xác định là thấp nhất so với các bệnh khác như ung thư, trầm cảm và tiểu đường.
Theo nghiên cứu Craig A.P và cộng sự (2000) thấy rằng,những người hút thuốc có tỷ lệ mắc COPD cao hơn so với những người không hút thuốc [24].
Nghiên cứu của Bames và cộng sự (1997) cho thấy 85% người bệnh nghiện thuốc lá có tiền sử hút thuốc trên 20 năm, dẫn đến những bất thường về chức năng hô hấp và tỷ lệ tử vong do COPD cao hơn so với những người không hút thuốc.
1.2.2 Thực trạng tuân thủ điều trị của người bệnh COPD tại Việt Nam.
Tại Việt Nam, số liệu từ các bệnh viện cho thấy tỷ lệ bệnh nhân mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) đang gia tăng nhanh chóng Theo Ngô Quý Châu, chuyên gia tại khoa hô hấp Bệnh viện Bạch Mai, tỷ lệ bệnh nhân điều trị COPD đã tăng từ 25% trong giai đoạn 1996-2000 lên 26% từ năm 2003 đến nay.
Từ năm 1996 đến 2000, bệnh viện Bạch Mai ghi nhận tỷ lệ người bệnh mắc COPD trong điều trị đạt 25,1%, đứng đầu các bệnh lý về phổi Trong hai năm 2001-2002, bệnh viện tiếp nhận 438 bệnh nhân COPD, trong đó tỷ lệ bệnh nhân ở giai đoạn nặng (FEV1: 50-30%) là 27,1% và giai đoạn rất nặng (FEV1