CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Cơ sở lý luận
1.1.1 Đại cương về bệnh vảy nến
Vảy nến là một bệnh da mạn tính với nhiều hình thái lâm sàng, đặc trưng bởi các tổn thương đỏ da và bong vảy Bệnh cũng có thể ảnh hưởng đến niêm mạc, móng, khớp và liên quan đến hội chứng chuyển hóa Tình trạng bệnh thường tiến triển theo từng đợt, xen kẽ giữa các giai đoạn nặng và thuyên giảm Đến nay, nguyên nhân gây bệnh vẫn chưa được làm rõ và chưa có phương pháp điều trị triệt để nào được xác định.
- Đây là một trong những bệnh da thường gặp nhất trên thế giới, chiếm tỷ lệ 1-3% dân số thế giới [7].
- Bệnh xuất hiện ở cả hai giới và có thể ở mọi lứa tuổi
Tại Việt Nam, năm 2010, Bệnh viện Da liễu Trung ương ghi nhận 2,2% tổng số bệnh nhân khám bệnh có liên quan đến tình trạng da Nguyên nhân gây bệnh vẫn chưa được xác định rõ ràng, nhưng các nghiên cứu hiện nay cho thấy bệnh có liên quan đến yếu tố di truyền, rối loạn miễn dịch, tăng sinh thượng bì và một số yếu tố khởi phát khác.
- Di truyền và bệnh vảy nến:
Mối liên quan giữa gen HLA và bệnh vảy nến đã thu hút sự chú ý của nhiều nghiên cứu trong hơn 70 năm qua Gen HLA nằm trên nhiễm sắc thể số 6, liên quan đến các kháng nguyên bạch cầu người như DR7, B13, B17, BW57 và đặc biệt là CW6 Một nghiên cứu trên 91 bệnh nhân vảy nến thông thường cho thấy sự liên kết giữa bệnh này với HLA lớp I (HLA-CW6) và lớp II (HLA-DR7) Đáng chú ý, 91,9% bệnh nhân có tính đặc thù CW6 đều mang kháng nguyên DR7, trong khi tỷ lệ này ở nhóm chứng chỉ là 50,3%.
Tiền sử gia đình được coi là một yếu tố rủi ro quan trọng trong bệnh vảy nến, với khoảng 30% trường hợp có liên quan đến yếu tố di truyền Nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu và xác nhận tính chất gia đình của bệnh này từ lâu.
Rối loạn miễn dịch trong bệnh vảy nến liên quan đến sự tham gia của lympho T hoạt hóa và các cytokines như IL-1, IL-6, IL-8, cùng với các trung gian hóa học eicosanoides, prostaglandin và plasminogen Kết quả của quá trình này là sự tăng sinh tế bào biểu bì và tăng gián phân, dẫn đến sự phát triển của bệnh vảy nến.
Trong bệnh vảy nến, quá trình tăng sinh tế bào thượng bì diễn ra mạnh mẽ, khiến cho tế bào da chỉ mất từ 3-4 ngày để trưởng thành và di chuyển lên bề mặt da, thay vì thời gian bình thường là 28 đến 30 ngày Điều này dẫn đến việc các tế bào không bong ra mà dính lại với nhau, hình thành nên các thương tổn vảy da đặc trưng của bệnh vảy nến.
- Yếu tố khởi phát bệnh: một số yếu tố có thể khởi phát bệnh hoặc đợt cấp, làm bệnh nặng hơn đã được ghi nhận:
Chấn thương tâm lý có ảnh hưởng lớn đến bệnh vảy nến, với hầu hết người bệnh trải qua những tác động khác nhau Finlay nhấn mạnh rằng chấn thương tâm lý ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều khía cạnh trong cuộc sống của người mắc bệnh vảy nến Việc đánh giá tác động tiêu cực của chấn thương tâm lý đối với từng bệnh nhân cụ thể là rất quan trọng, góp phần vào việc xây dựng chiến lược điều trị và phòng ngừa phù hợp cho từng cá nhân.
Nhiễm khuẩn, đặc biệt là các nhiễm khuẩn khu trú ở tai mũi họng, được nhiều tác giả công nhận là nguyên nhân chủ yếu gây khởi phát bệnh vảy nến thể giọt, chủ yếu do liên cầu tan huyết β nhóm A Ngoài ra, nhiễm khuẩn cũng có thể làm nặng thêm và duy trì tình trạng bệnh vảy nến đã có thông qua việc kích thích sự tăng sinh của tế bào lympho T.
Hiện tượng KoeNBer trong bệnh vảy nến có thể xảy ra trên các vùng da bị tổn thương như vết xước do gãi, vết mổ, vết bỏng, hoặc vết tiêm chủng Ngoài ra, hiện tượng này cũng có thể xuất hiện sau khi da bị cháy nắng.
Một số loại thuốc có thể gây khởi phát bệnh vảy nến thể mủ, bao gồm ức chế β, lithium, corticoid đường toàn thân, interferon, thuốc chống viêm giảm đau nhóm nonsteroid, ức chế enzyme angiotensin và thuốc chống sốt rét như chloroquin và quinacrin Trong đó, việc sử dụng corticoid đường toàn thân là nguyên nhân phổ biến nhất dẫn đến bệnh vảy nến thể mủ Thêm vào đó, các trường hợp vảy nến thông thường do corticoid toàn thân thường có xu hướng tái phát với vảy nến mụn mủ ở nhiều mức độ khác nhau.
+ Chế độ ăn uống, rượu và thuốc lá:
Chế độ ăn uống đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý bệnh vảy nến, với các nghiên cứu cho thấy rằng chế độ ăn giàu dầu cá và các chất tương tự vitamin A có lợi cho bệnh nhân Việc tiêu thụ nhiều rau củ và trái cây cũng giúp tăng cường khả năng bảo vệ sức khỏe Ngoài ra, các yếu tố như acid béo không bão hòa và gluten có thể ảnh hưởng đến sự tiến triển của bệnh, mặc dù vấn đề này vẫn còn gây tranh cãi trong cộng đồng y tế.
Nghiên cứu tại Ecolse cho thấy rằng trong số 216 bệnh nhân vảy nến và 626 người tham gia, những người nghiện thuốc lá có nguy cơ cao hơn so với nhóm không nghiện thuốc lá.
Nam giới mắc bệnh vảy nến thường có thói quen uống rượu quá mức, điều này không chỉ ảnh hưởng đến quá trình điều trị mà còn gây rối loạn tâm lý Hơn nữa, việc tiêu thụ rượu có thể làm trầm trọng thêm các vùng da tổn thương và giảm hiệu quả của các phương pháp điều trị.
Ánh nắng mặt trời và nước ấm có lợi cho sức khỏe người bệnh, trong khi nước lạnh có thể làm tình trạng bệnh trở nên nghiêm trọng hơn Tuy nhiên, một số ít bệnh nhân, đặc biệt là phụ nữ cao tuổi, có thể gặp triệu chứng nặng hơn vào mùa hè khi tiếp xúc với ánh sáng mặt trời do tăng nhạy cảm với ánh sáng.
Vảy nến thường đi kèm với các rối loạn chuyển hóa lipid và đạm, đặc biệt là nguy cơ đột quỵ tim mạch Bệnh cũng liên quan đến các tình trạng viêm khác và các bệnh tự miễn như bạch biến và viêm đa khớp dạng thấp Để chẩn đoán bệnh vảy nến, cần xem xét các triệu chứng lâm sàng và thực hiện các xét nghiệm phù hợp.
1.1.2.1 Lâm sàng a Vảy nến thể thông thường:
Cơ sở thực tiễn
Tình hình vảy nến ở Việt Nam và vấn đề nhận thức của người bệnh
Nghiên cứu của PGS Trần Văn Tiến tại Viện Da liễu Trung ương đã khảo sát 134 bệnh nhân mắc bệnh vảy nến trong khoảng thời gian từ tháng 3 năm 1999 đến tháng 8 năm 2000, chiếm 12,04% tổng số bệnh nhân điều trị nội trú tại viện Thông tin này được thu thập từ số liệu thống kê của Bệnh viện Da liễu Trung ương trong năm nghiên cứu.
2010, tỷ lệ người bệnh vảy nến chiếm khoảng 2,2% tổng số người bệnh đến khám bệnh
Theo các tài liệu, có tới 40-70% bệnh nhân không tuân thủ chỉ định sử dụng thuốc của bác sĩ Nguyên nhân chủ yếu bao gồm thiếu giáo dục về thuốc, mối quan hệ không tốt giữa bác sĩ và bệnh nhân, hiệu quả điều trị không rõ ràng, thời gian sử dụng thuốc kéo dài, sự phiền phức khi dùng thuốc bôi và lo ngại về tác dụng phụ.
LIÊN HỆ VỚI THỰC TẾ Error! Bookmark not defined 2.1 Đặc điểm tình hình về Bệnh viện Da liễu Trung ương
Thực trạng tuân thủ điều trị của người bệnh mắc bệnh vẩy nến đến khám tại bệnh viện Da liễu Trung ương
Từ ngày 01/01/2020 đến 30/07/2020, chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu trên 80 bệnh nhân mắc bệnh vảy nến tại Bệnh viện Da liễu Trung ương Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu các đặc điểm chung của nhóm bệnh nhân tham gia.
2.2.1.1 Phân bố người bệnh theo tuổi
Bảng 2.1 Phân bố NB theo tuổi (n= 80)
Theo bảng 2.1: Tuổi thấp nhất trong nhóm nghiên cứu là 18 tuổi, tuổi cao nhất là 76 tuổi Nhóm tuổi từ 40-49 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất là 28 người bệnh (35%)
Bảng 2.2 Phân bố NB theo tuổi khởi phát (n)
Trong nghiên cứu với 80 bệnh nhân, tuổi khởi phát bệnh dao động từ 6 đến 70 tuổi, trong đó tỷ lệ người bệnh khởi phát trong độ tuổi 20-40 chiếm ưu thế nhất.
2.2.1.3 Phân bố người bệnh theo giới tính:
Theo kết quả bảng 2.3: Tỷ lệ nam giới mắc vảy nến là 56% cao hơn nữ giới là
2.2.1.4.Phân bố người bệnh theo trình độ văn hóa
Bảng 2.4 Phân bố người bệnh theo trình độ văn hóa (n)
Cao đẳng, đại học Đại học
Kết quả bảng 2.4: Tỷ lệ NB có trình độ trung học phổ thông cao nhất chiếm 35%,
32% là số NB có trình độ cao đẳng, đại học, thấp nhất là NB không biết chữ, chiếm 9%
2.2.1.5 Phân bố người bệnh theo nghề nghiệp
Bảng 2.5 Phân bố người bệnh theo nghề nghiệp (n) Nghề nghiệp
Theo bảng 2.5, tỷ lệ người lao động làm công việc chân tay cao nhất, đạt 43,75% Trong khi đó, tỷ lệ người lao động hưu trí, lao động trí óc và học sinh-sinh viên lần lượt là 22,5%, 18,75% và 15%.
2.2.1.6 Phân bố người bệnh theo nơi ở
Bảng 2.6 Phân bố người bệnh theo nơi ở (n) Nơi ở
Kết quả từ bảng 2.6 cho thấy tỷ lệ người bệnh (NB) mắc bệnh vảy nến ở khu vực nông thôn là 47,5%, trong khi tỷ lệ này ở khu vực thành thị là 52,5% Phần 2.2.1.7 đề cập đến các phương tiện mà người bệnh sử dụng để tìm kiếm thông tin về bệnh vảy nến trước khi nhận tư vấn tại Bệnh viện Da liễu Trung ương.
Bảng 2.7 Phương tiện tìm kiếm thông tin về bệnh vảy nến của NB trước khi tư vấn tại bệnh viện da liễu Trung ương (n) Phương tiện tìm kiếm
Phương tiện thông tin đại chúng
Theo bảng 2.7, 52,5% bệnh nhân vảy nến có kiến thức về bệnh chủ yếu từ nhân viên y tế Trong khi đó, thông tin từ phương tiện truyền thông đại chúng và người thân chiếm 16,25% Nguồn thông tin từ sách vở lại thấp nhất, chỉ đạt 15%.
2.2.1.8 Biện pháp người bệnh đã điều trị trước khi điều trị tại bệnh viện
Bảng 2.8 Biện pháp người bệnh đã điều trị trước khi điều trị tại Bệnh viện da liễu Trung ương (n) Biện pháp đã làm
Tự điều trị theo kinh nghiệm dân gian, thuốc đông y… Đi khám tại phòng khám của huyện, tỉnh, điều trị theo đơn
Trước khi khám tại Bệnh viện Da liễu Trung ương, 56,25% người bệnh đã chọn khám tại phòng khám huyện và tỉnh theo đơn, trong khi 38,75% tự điều trị bằng kinh nghiệm dân gian và thuốc đông y, và 15% không thực hiện bất kỳ biện pháp nào.
2.2.2.Sự thay đổi kiến thức, thái độ, thực hành của người bệnh sau khi tư vấn 2.2.2.1 Thay đổi kiến thức của người bệnh về nguyên nhân gây bệnh
Bảng 2.9 Thay đổi kiến thức của NB về nguyên nhân gây bệnh và các vấn đề liên quan đến bệnh vảy nến (n) Thời điểm
Nhiễm khuẩn (Virut, vi khuẩn, ký sinh trùng)
Do yếu tố môi trường
Kết quả bảng 2.9: Trước và sau tư vấn, tỉ lệ cao nhất thuộc về nhóm căn nguyên chưa rõ (61,25% và 97,5%).
Kiến thức của bệnh nhân về nguyên nhân gây bệnh đã được cải thiện đáng kể, với tỷ lệ bệnh nhân nhận thức rằng căn nguyên của bệnh chưa rõ ràng tăng từ 61.25% lên 97.5% sau khi được tư vấn.
2.2.2.2 Thay đổi kiến thức của người bệnh về dịch tễ của bệnh
Bảng 2.10.Thay đổi kiến thức của NB về mức độ phổ biến bệnh (n)
Kết quả từ bảng 2.10 cho thấy chỉ có 56,25% bệnh nhân nhận thức rằng bệnh này phổ biến trước khi được tư vấn, nhưng con số này đã tăng lên trên 87,5% sau khi được tư vấn Bảng 2.11 tiếp theo sẽ trình bày sự thay đổi trong kiến thức của bệnh nhân về các yếu tố khởi phát hoặc làm bệnh nặng hơn.
Hút thuốc lá, uống nhiều rượu bia
Khi vùng da của người bệnh tiếp xúc với những chất có tính base cao.
Kết quả bảng 2.11: Tất cả sự hiểu biết của NB về yếu tố làm nặng lên và khởi phát bệnh đều tăng lên.
2.2.2.4 Thay đổi kiến thức của NB về đặc điểm của bệnh
Bảng 2.12 Thay đổi kiến thức của NB về đặc điểm của bệnh (n)
Thời điểm Chỉ số Đã có thuốc điều trị khỏi hoàn toàn
Bệnh da mạn tính, có tính tái phát, chưa có thuốc điều trị đặc hiệu
Bệnh không gây ảnh hưởng tới môi trường, xã hội và nguy hiểm cho người khác
Theo kết quả từ bảng 2.12, nhận thức của người bệnh về đặc điểm của bệnh đã có sự cải thiện đáng kể Tuy nhiên, số lượng người bệnh tin rằng có thuốc điều trị khỏi vẫn giữ nguyên Đặc biệt, số người bệnh nhận thức rằng bệnh không lây truyền đã giảm từ 26 người (32,5%) xuống còn không ai.
2.2.2.5 Thay đổi kiến thức của NB về vị trí biểu hiện của bệnh
Bảng 2.13 Thay đổi kiến thức của NB về vị trí biểu hiện của bệnh (n)
Kết quả bảng 2.13 cho thấy trước tư vấn, vị trí da và niêm mạc được lựa chọn cao nhất với tỷ lệ 66,25%, tiếp theo là móng tay với 65% Sau tư vấn, tỷ lệ này tăng lên lần lượt là 98,75% và 87,5% Trong khi đó, trước tư vấn, biểu hiện khớp có tỷ lệ thấp nhất, nhưng sau tư vấn, tỷ lệ người bệnh cho rằng bệnh có biểu hiện ở các cơ quan khác vẫn giữ mức thấp.
2.2.2.6 Thay đổi kiến thức của NB về cách dùng thuốc duy trì
Bảng 2.14 Thay đổi kiến thức của NB về cách dùng thuốc điều trị duy trì (n)
Kết quả bảng 2.14: Đa phần trước tư vấn NB chọn dùng thuốc theo đơn (85%), sau tư vấn, tăng lên 97,5%, tỉ lệ NB dùng thuốc không thường xuyên giảm
10 lần Tỷ lệ NB không dùng thuốc giảm từ 26,25% xuống còn 2,5%
2.2.2.7 Thay đổi thái độ của NB khi mắc bệnh
Bảng 2.15.Thay đổi thái độ của NB khi mắc bệnh (n)
Thời điểm Trước tư vấn Sau tư vấn n % n %
Kết quả bảng 2.15 cho thấy trước khi được tư vấn, 61,25% bệnh nhân lo lắng và hoảng sợ về mức độ nguy hiểm của bệnh Tuy nhiên, sau khi nhận được tư vấn, tỷ lệ này giảm đến 9,8 lần, với 10 bệnh nhân cảm thấy bớt lo lắng hơn Chỉ còn 1 bệnh nhân tin rằng bệnh có thể tự khỏi, và không còn ai giấu bệnh hay tự tìm hiểu trên mạng hoặc theo lời khuyên từ người khác.
Lo lắng, hoảng sợ vì nghĩ rằng bệnh nguy hiểm đến tính mạng.
Không lo lắng nhiều vì tin tưởng vào bác sỹ điều trị.
Không cần điều trị gì, nghĩ rằng bệnh tự khỏi
Mặc cảm, tự ti vì bệnh ảnh hưởng tới thẩm mỹ
Lo lắng vì bệnh truyền cho con cái
Giấu bệnh,tự tìm hiểu trên mạng hoặc theo mách bảo của người khác
Người bệnh thường cảm thấy mặc cảm và tự ti do ảnh hưởng của bệnh tật đến thẩm mỹ, đồng thời lo lắng về khả năng truyền bệnh cho con cái Điều này dẫn đến việc họ thay đổi thói quen ăn uống và sinh hoạt để cải thiện tình trạng sức khỏe và tâm lý của bản thân.
Bảng 2.16 Thay đổi thực hành của NB trong chế độ ăn uống, sinh hoạt (n)
Hạn chế các loại thức ăn gây bệnh, làm bệnh nặng lên, tái phát
Hạn chế TĂ gây bệnh 41,2%; 77%
Không uống rượu và dùng các chất kích thích Ăn uống điều độ để tránh tăng cân
Kết quả từ bảng 2.16 cho thấy rằng hành vi không uống rượu, hạn chế sử dụng các chất kích thích, và duy trì chế độ ăn uống điều độ đều có xu hướng tăng lên Những thói quen này giúp tránh tăng cân, đồng thời hạn chế tiêu thụ các loại thực phẩm có thể gây bệnh hoặc làm nặng thêm tình trạng bệnh, cũng như ngăn ngừa tái phát.
2.2.2.9 Thay đổi thực hành của NB trong việc khám bệnh khi có triệu chứng của bệnh
Bảng 2.17.Thay đổi thực hành của NB trong việc đi khám bệnh khi có triệu chứng của bệnh (n) Thời điểm
Chỉ số Đi khám ngay
Bệnh nặng lên mới khám
Công việc bận rộn, khi có thời gian sẽ đi khám
Kết quả từ bảng 2.17 cho thấy, trước khi nhận tư vấn, 60% người bệnh đi khám ngay khi có triệu chứng Sau khi được tư vấn, tỷ lệ này đã tăng lên 81,25%, đồng thời hành vi chờ đợi đến khi bệnh nặng mới đi khám đã giảm 3,5 lần Điều này cho thấy sự giảm đáng kể trong hành vi không đi khám ngay.
2.2.2.10 Thay đổi thực hành của NB trong chăm sóc da
Bảng 2.18 Thay đổi thực hành của NB trong chăm sóc da (n)
Tắm hàng ngày, nhẹ nhàng, tránh tổn thương da
Thoa kem làm ẩm thường xuyên theo chỉ định của bác sĩ Đắp lá, tắm bằng nước lá hàng ngày
Trong khi tắm, kỳ cọ thật kỹ, bong sạch vảy da.
Dùng nhiều xà phòng khi tắm Không chú ý chăm sóc
Kết quả từ bảng 2.18 cho thấy rằng hành vi tắm hàng ngày, nhẹ nhàng, tránh gãi và chấn thương da, cũng như việc thoa kem làm ẩm thường xuyên đã giảm Không còn bệnh nhân nào sử dụng lá để tắm, và hành vi kỳ cọ kỹ lưỡng để bong sạch vảy da đã giảm 1,5 lần Tất cả bệnh nhân đều chú ý đến việc chăm sóc da của mình Theo bảng 2.19, có sự thay đổi trong thực hành của bệnh nhân khi tiếp xúc với người khác.
Cách ly vì sợ lây cho họ
Cách ly vì tự ti
Không cách ly vì bệnh không lây nhiễm
BÀN LUẬN
Thực trạng tuân thủ điều trị của người bệnh mắc bệnh vẩy nến đến khám tại Bệnh viện Da liễu Trung ương năm 2020
3.1.1 Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi, độ tuổi thấp nhất của bệnh nhân vảy nến là 18 tuổi, trong khi độ tuổi cao nhất là 76 tuổi, tương đồng với kết quả nghiên cứu của bác sĩ Hoàng Văn Tâm.
Năm 2015, tại Bệnh viện Da liễu Trung ương, có hơn 30 bệnh nhân mắc bệnh vảy nến thông thường đến khám Độ tuổi mắc bệnh chủ yếu tập trung ở nhóm từ 40-49 tuổi, chiếm 35%, kết quả này tương đồng với nghiên cứu của PGS Trần Văn Tiến, cho thấy 72,4% bệnh nhân trong cùng độ tuổi.
134 NB vảy nến điều trị nội trú tại Bệnh viện Da liễu Trung ương năm 2004 [17]
Nghiên cứu cho thấy, nhóm bệnh nhân có tuổi khởi phát bệnh vẩy nến cao nhất nằm trong khoảng 20-40 tuổi, tương tự như kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Hạnh vào năm 2009, cho thấy độ tuổi khởi phát bệnh chủ yếu ở những người trong độ tuổi lao động từ 20 đến 39 Đây là giai đoạn có nhiều biến động trong cuộc sống, ảnh hưởng đến cả thể chất lẫn tinh thần, có thể kích hoạt bệnh vẩy nến ở những người có gen di truyền Tuy nhiên, kết quả này khác với nghiên cứu của PGS Trần Văn Tiến và PGS Đặng Văn Em, khi nhóm tuổi 10 lại có tỷ lệ khởi phát cao hơn Điều này có thể do khó khăn trong việc xác định tuổi khởi phát, vì nhiều bệnh nhân chỉ nhận biết bệnh khi có tổn thương ngoài da đầu tiên và không nhớ chính xác thời điểm xuất hiện Thêm vào đó, một số cơ sở y tế thiếu phương tiện và kinh nghiệm chẩn đoán, dẫn đến việc nhầm lẫn với các bệnh da khác, đặc biệt trong trường hợp tổn thương không điển hình.
Do đó tỷ lệ tuổi khởi phát có sự khác nhau ở các tác giả
Trong một nghiên cứu, tỷ lệ nam giới mắc vảy nến chiếm 56%, cao hơn so với 44% ở nữ giới, tương tự như kết quả của Trần Thị Thoan năm 2018 với tỷ lệ nam giới là 67,5% Các yếu tố khởi phát bệnh vảy nến như hút thuốc, uống rượu và lối sống không điều độ thường phổ biến hơn ở nam giới, điều này có thể giải thích cho sự chênh lệch tỷ lệ mắc bệnh giữa hai giới.
Theo thống kê, 35% người bệnh (NB) có trình độ Trung học phổ thông, 32% có trình độ Cao đẳng, Đại học, trong khi 9% là người không biết chữ Đáng chú ý, 43,7% NB làm việc trong lĩnh vực lao động chân tay, còn chỉ 15% là lao động trí óc Nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Oanh năm 2007 cho thấy nhóm nghề liên quan đến lao động chân tay chiếm tỷ lệ cao nhất, chủ yếu là nông dân và công dân, những người thường xuyên phải đối mặt với chấn thương, vi chấn thương và stress thể lực do công việc nặng nhọc Đây có thể là một trong những yếu tố khởi phát bệnh vẩy nến.
Tỷ lệ bệnh nhân mắc bệnh vẩy nến ở nông thôn là 47,5%, trong khi ở thành phố là 52,5%, cho thấy sự chênh lệch không đáng kể, tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn Thị Liên năm 2011 Tuy nhiên, sự khác biệt này có thể được giải thích bởi việc người bệnh ở vùng nông thôn khó tiếp cận các dịch vụ chăm sóc và giáo dục sức khỏe chất lượng, dẫn đến việc họ tự tìm kiếm thuốc điều trị không đúng cách, làm tăng tỷ lệ mắc bệnh.
Nguồn thông tin chính mà bệnh nhân (NB) tiếp cận chủ yếu từ nhân viên y tế (52,5%), tiếp theo là phương tiện thông tin đại chúng và người thân (16,25%), trong khi nguồn từ sách vở chỉ chiếm 15% Kiến thức từ nhân viên y tế được xem là đáng tin cậy, do đó cần nâng cao hơn nữa việc truyền đạt thông tin từ nguồn này cho người dân Các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là internet, ngày càng dễ tiếp cận, tuy nhiên, bệnh nhân cần thận trọng khi tiếp nhận thông tin từ nguồn này Một vấn đề nghiêm trọng là thông tin sai lệch trên internet có thể dẫn đến hiểu biết sai về bệnh tật, gây lãng phí tiền bạc cho các phương pháp điều trị không hiệu quả và thậm chí có thể gây hại cho sức khỏe.
Trước khi đến khám tại Bệnh viện Da liễu Trung ương, phần lớn bệnh nhân đã từng khám tại các phòng khám huyện, tỉnh và điều trị theo đơn thuốc (74,6%) Ngoài ra, 38,75% bệnh nhân đã tự điều trị bằng kinh nghiệm dân gian, thuốc đông y và thuốc nam Chỉ có 15% bệnh nhân không thực hiện bất kỳ hình thức điều trị nào.
Bệnh vảy nến là một bệnh mạn tính có khả năng tái phát, và hiện tại chưa có phương pháp điều trị triệt để Do đó, người bệnh thường tìm kiếm nhiều phương pháp điều trị khác nhau và khám tại nhiều cơ sở y tế với hy vọng cải thiện tình trạng sức khỏe Sau khi được tư vấn, sự thay đổi về kiến thức, thái độ và thực hành (KAP) của người bệnh vảy nến có thể được ghi nhận rõ rệt.
3.1.2.1 Thay đổi kiến thức của NB sau khi được tư vấn:
Trước khi được tư vấn, chỉ có 61,25% bệnh nhân biết rõ nguyên nhân gây bệnh, trong đó 43,75% cho rằng do thuốc, 70% liên quan đến di truyền, 65% do yếu tố môi trường, và 75% nghĩ đây là bệnh tự miễn Sau khi tư vấn, con số này tăng lên 97,5%, cho thấy sự thay đổi rõ rệt trong nhận thức Nghiên cứu cho thấy nhiều bệnh viện không giải thích nguyên nhân bệnh cho bệnh nhân, và một số bệnh nhân chỉ chú trọng vào hiệu quả điều trị Tại Bệnh viện Da liễu Trung ương, bệnh nhân đã trao đổi kiến thức với nhau và với nhân viên y tế, từ đó nhận được thông tin bổ sung về căn nguyên bệnh.
Bệnh vảy nến là một bệnh da liễu phổ biến, ảnh hưởng đến khoảng 2-3% dân số toàn cầu Nhiều người bệnh (NB) thường cho rằng bệnh này ít gặp, với 31,25% cho biết khu vực họ sống có rất ít người mắc bệnh Tuy nhiên, sau khi được tư vấn tại Bệnh viện Da liễu Trung ương, tỷ lệ này giảm xuống còn 10% Điều này cho thấy vẫn còn 2 NB chưa nhận thức được mức độ phổ biến của bệnh, vì vậy cần tăng cường nâng cao hiểu biết về bệnh vảy nến trong cộng đồng.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, các yếu tố khởi động gây bệnh vảy nến, tái phát hoặc làm nặng bệnh do thay đổi thời tiết chiếm tỷ lệ cao nhất là 68,7% Tiếp theo, 57,5% người bệnh cho rằng hút thuốc lá và uống nhiều rượu bia làm bệnh nặng lên, trong khi một số nhóm thuốc chỉ chiếm 33,7% Các yếu tố như chấn thương ngoài da, tâm lý, nhiễm khuẩn, và tiếp xúc với chất có tính base cao đều trên 50% Sự khác biệt này xuất phát từ nhận thức của người bệnh qua quan sát các yếu tố dễ thấy hàng ngày Sau khi được tư vấn, có sự thay đổi lớn trong nhận thức, với tỷ lệ cao nhất là người bệnh nhận biết các yếu tố như chấn thương tâm lý, hút thuốc lá, và thay đổi thời tiết Tuy nhiên, hiểu biết về nhóm thuốc ảnh hưởng đến bệnh chỉ đạt 37,5% Trước tư vấn, 72,5% người bệnh cho rằng vảy nến là bệnh da mạn tính, 43,75% cho rằng đây là bệnh di truyền và 31,25% cho rằng không ảnh hưởng tới môi trường Sau tư vấn, nhận thức về các đặc điểm này đều tăng lên, và 32,5% trước tư vấn cho rằng bệnh lây truyền, nhưng sau tư vấn, tất cả đều biết đây là bệnh không lây Tuy nhiên, số người bệnh có thuốc điều trị khỏi hoàn toàn vẫn không thay đổi.
Vảy nến thường xuất hiện trên da, nhưng 20-40% trường hợp có biểu hiện ở móng tay, trong khi các vị trí khác ít gặp hơn Trước khi tư vấn, chỉ 66,2% bệnh nhân (NB) nhận thức rằng bệnh biểu hiện ở da và niêm mạc, con số này tăng lên 98,7% sau khi được tư vấn Hiểu biết về các biểu hiện ở móng tay và khớp cũng tăng khoảng 1,3 lần, và 50% bệnh nhân nhận thức được rằng bệnh có thể ảnh hưởng đến các cơ quan khác Tuy nhiên, nhiều bệnh nhân vẫn thiếu thông tin chi tiết về sự lan tỏa của bệnh Bệnh vảy nến là một bệnh mãn tính và tái phát, do đó việc điều trị duy trì, đặc biệt là sử dụng thuốc theo đơn, rất quan trọng Trước khi tư vấn, 85% bệnh nhân biết cần dùng thuốc theo đơn trong giai đoạn duy trì, con số này tăng lên 97,5% sau tư vấn, trong khi tỷ lệ bệnh nhân không dùng thuốc và dùng không thường xuyên giảm đáng kể xuống còn 2,5% và 3,75%.
Chấn thương tâm lý có thể làm nặng thêm hoặc tái phát bệnh, vì vậy việc kiểm soát tâm lý đóng vai trò quan trọng trong hiệu quả điều trị Trước khi được tư vấn, 61,2% bệnh nhân lo lắng về sự nguy hiểm của bệnh, nhưng sau tư vấn, chỉ còn 6,2% giữ tâm trạng này Tỷ lệ bệnh nhân không lo lắng tăng từ 31,2% lên 43,7% nhờ vào niềm tin vào bác sĩ Sự thay đổi này chủ yếu do bệnh nhân hiểu rằng họ không mắc ung thư Tuy nhiên, các bệnh nhân quan tâm đến thẩm mỹ vẫn cần được tư vấn kỹ lưỡng hơn để giảm bớt lo lắng khi đối mặt với bệnh.
3.1.2.3 Thay đổi thực hành của NB sau khi tư vấn
Trong thực hành ăn uống và sinh hoạt, tỷ lệ người bệnh không sử dụng rượu bia và chất kích thích đã tăng từ 73,7% lên 85% sau khi tư vấn Hành vi ăn uống điều độ để tránh tăng cân cũng tăng lên 93,7% Số người bệnh hạn chế các loại thức ăn gây bệnh và làm bệnh nặng lên sau tư vấn đạt 77,5% Về thực hành đi khám bệnh, trước tư vấn, chỉ 60% người bệnh đi khám ngay khi có triệu chứng, nhưng con số này đã tăng lên 81,25% sau tư vấn Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng người bệnh trì hoãn khám bệnh cho đến khi bệnh nặng hơn, do phụ thuộc vào bảo hiểm y tế và mong muốn có thuốc điều trị hiệu quả, dẫn đến việc tự làm bệnh tình nặng thêm để có cơ hội chuyển tuyến lên tuyến Trung ương.
Đề xuất một số giải pháp tăng cường tuân thủ điều trị của người bệnh vẩy nến đến khám tại Bệnh viện Da liễu Trung ương
Tỷ lệ bệnh nhân tái khám theo lịch hẹn đã tăng từ 77,5% lên 93,75%, cho thấy sự chú trọng của họ đối với việc chăm sóc sức khỏe Đồng thời, các hành vi không đúng như chỉ khám khi bệnh nặng lên, tự mua thuốc về nhà và không tái khám đều giảm đáng kể.
3.1.2.4 Sự thay đổi mức độ kiến thức, thái độ, thực hành của NB sau tư vấn Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy sự thay đổi tích cực giữa mức độ hiểu biết của
Trước khi tư vấn, chỉ có 38,7% người bệnh (NB) hiểu biết đạt yêu cầu, trong khi tỷ lệ không đạt gấp đôi tỷ lệ đạt Sau khi tư vấn, tỷ lệ này tăng lên 83,7%, với 32,5% người bệnh không đạt mức hiểu biết cần thiết Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu trên thế giới về sự hiểu biết của người bệnh về bệnh vảy nến trước và sau tư vấn, nhưng các tác giả chỉ tập trung vào tỷ lệ hiểu biết về nguyên nhân và yếu tố khởi phát bệnh theo cảm nhận chủ quan của người bệnh Để nâng cao tuân thủ điều trị của người bệnh vảy nến tại Bệnh viện Da liễu Trung ương, cần có các giải pháp hiệu quả và phù hợp.
Dựa trên thực trạng tuân thủ điều trị của bệnh nhân mắc bệnh vẩy nến tại Bệnh viện Da liễu Trung ương năm 2020, tôi đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao mức độ tuân thủ điều trị cho người bệnh.
Phòng Điều Dưỡng đã triển khai chương trình giáo dục sức khỏe dành cho người bệnh Vẩy nến, bao gồm các buổi truyền thông và tọa đàm nhằm giải đáp những thắc mắc liên quan đến căn bệnh này.
- Tổ chức đào tạo nâng cao kiến thức, kỹ năng giáo dục sức khỏe cho các điều dưỡng viên,
- Kết hợp với hội người bệnh vẩy nến, các đơn vị truyền thông như báo, đài các kênh youtobe để làm các bài truyền thông giáo dục sức khỏe
- Kết nối nguồn lực hỗ trợ kinh phí cho những người bệnh vẩy nến có hoàn cảnh khó khăn
- Tạo điều kiện để người bệnh vẩy nến được tiếp cận với các dịch vụ kỹ thuật mới của bệnh viện
- Tăng cường các phòng khám sắp xếp thời gian phù hợp để các bác sỹ có nhiều thời gian chia sẻ với người bệnh.
- Nhắc nhở lịch tái khám tư vấn gọi điện chia sẻ
3.2.2 Đối với người bệnh và gia đình người bệnh
Khuyến khích người bệnh và gia đình tham gia các buổi tư vấn về bệnh vẩy nến để nâng cao nhận thức và hiểu rõ tầm quan trọng của việc tuân thủ điều trị.
- Tăng cường kiến thức hiểu biết về bệnh
Để giảm thiểu tổn thương, cần hạn chế tiếp xúc với các yếu tố gây nặng thêm tình trạng, bao gồm các chất kích thích, đồ uống có cồn, và các loại thuốc nam hay thuốc lá không rõ nguồn gốc.
- Khám lại đúng hẹn để việc dùng thuốc được duy trì.
- Cần có chế độ luyện tập, ăn uống sinh hoạt điều độ tránh thức khuya dậy sớm và dùng các chất kích thích