CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Cơ sở lý luận
1.1 Khái quát về an toàn truyềnmáu
• Máu và các chế phẩm từmáu
Máu là một mô lỏng màu đỏ có vai trò quan trọng trong hệ thống tuần hoàn, bao gồm các thành phần hữu hình như hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu, cùng với huyết tương chứa các chất dinh dưỡng, chất vận chuyển và các yếu tố đông máu.
Từ máu toàn phần người ta đã chiết tách ra các chế phấm máu khác nhau để phù hợp với nhu cầu điều trị của người bệnh [2].
Hình 1.1: Máu toàn phần và một số chế phẩm từ máu
Các hệ nhóm máu bao gồm ABO, Rh, Kell, Duffy, Kidd, và Lewis, nhưng ở Việt Nam, hai hệ nhóm máu ABO và Rh là quan trọng nhất trong thực hành truyền máu.
Dựa trên sự có mặt của kháng nguyên trên hồng cầu và kháng thể trong huyết thanh, người ta chia nhóm máu hệ ABO thành 4 nhóm: A, B, AB và O.
• Quy tắc truyền máu dựa trên hệ nhómABO
Truyền cùng nhóm máu: Người bệnh nhóm máu nào thì truyền nhóm máu đó và truyền theo chỉ định của Bác sỹ.
Trong tình huống cấp cứu khi không có máu cùng nhóm, có thể thực hiện truyền máu khác nhóm với lượng tối đa không vượt quá 250ml, theo quy tắc truyền máu tối thiểu và dưới sự chỉ định của bác sĩ.
Hình 1.2: Sơ đồ cho - nhận các nhóm máu hệ ABO.
Truyền máu toàn phần giúp tăng khối lượng tuần hoàn và bổ sung lượng máu đã mất cho bệnh nhân trong trường hợp mất máu cấp tính do chấn thương, phẫu thuật hoặc chảy máu ồ ạt.
Truyền khối hồng cầu: Tăng khả năng cung cấp oxy khi thiếu máu không hồi phục hoặc thiếu máu nặng mất bù, như trong bệnh: Thalasemia, suy tuỷ.
Truyền tiểu cầu và huyết tương: Tăng khả năng đông máu và cầm máu.
Truyền bạch cầu, gamma globulin, albumin: Tăng khả năng đề kháng và chống nhiễm khuẩn [4]
• Các phản ứng bất lợi do truyềnmáu
Phản ứng sớm: Tan máu cấp, khó thở, sốt rét run, dị ứng.
Phản ứng muộn sau truyền máu có thể bao gồm tan máu muộn, xuất huyết giảm tiểu cầu, và nhiễm khuẩn hoặc virus, thường xảy ra sau nhiều ngày, tuần hoặc thậm chí tháng Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm 2008, các dấu hiệu đầu tiên của phản ứng truyền máu có thể xuất hiện chỉ trong vài phút sau khi bắt đầu quá trình truyền.
• Nguyên tắc thực hiện hoạt động truyềnmáu
Máu và các chế phẩm máu chỉ được sử dụng cho mục đích chữa bệnh, đào tạo và nghiên cứu khoa học, đồng thời cần giữ bí mật thông tin về người hiến máu, người nhận máu và các chế phẩm liên quan Đảm bảo an toàn cho người hiến máu, bệnh nhân nhận máu và nhân viên y tế là ưu tiên hàng đầu Việc thực hiện truyền máu cần phải hợp lý và phù hợp với nhu cầu của người bệnh.
• Qui trình sử dụng máu cho ngườibệnh
Bác sĩ chỉ định truyền máu cho bệnh nhân, sau đó tiến hành đăng ký và gửi mẫu máu Khoa Truyền máu sẽ thực hiện việc định nhóm máu và kiểm tra phản ứng hòa hợp miễn dịch Sau khi phát máu, nhân viên y tế sẽ đưa máu về khoa và thực hiện quy trình kỹ thuật truyền máu cho bệnh nhân Cuối cùng, cần theo dõi tình trạng sức khỏe của bệnh nhân trong suốt quá trình truyền máu.
NB trước, trong và sau khi truyền máu [2].
Bảng 1.1 Quy trình kỹ thuật truyền máu
B1 Xem hồ sơ bệnh án, phiếu lĩnh máu, phiếu chỉ định truyền máu, thực hiện 5 đúng.
Thông báo và giải thích về thủ thuật sắp tiến hành trên người
B3 Đánh giá tình trạng người bệnh đo dấu hiệu sinh tồn hướng dẫn người bệnh đại tiểu tiện trước khi tiến hành.
2 Chuẩn bị người điều dưỡng
B4 Trang phục y tế đúng quy định.
Trụ cắm kẹp Kose, khay chữ nhật và khay quả đậu vô khuẩn là những dụng cụ y tế thiết yếu Cốc B7 được sử dụng để đựng bông cồn 70%, gạc phủ vùng truyền, băng dính, dung dịch sát khuẩn tay nhanh, và bình xịt tráng khay (nếu có) Ngoài ra, túi máu (kiểm tra túi máu), bộ dây truyền máu, bơm 5 ml và kim cũng là những vật dụng quan trọng trong quy trình y tế.
Bộ dụng cụ y tế bao gồm B8 luồn, dây garo, bộ huyết thanh mẫu, phiến đá men, que khuấy, hộp chống sốc, thiết bị đo huyết áp, ống nghe, và 1 đôi găng tay vô khuẩn cùng với 1 đôi găng tay sạch.
B9 Dụng cụ phân loại rác.
B10 Thông báo lại với người bệnh về thủ thuật sắp tiến hành.
B11 Đối chiếu lại giữa túi máu và phiếu lĩnh máu và người bệnh.
B12 Điều dưỡng tiến hành lấy máu của người bệnh
B13 Điều dưỡng đi găng sạch, làm phản ứng định nhóm tại giường đúng kỹ thuật dưới sự giám sát của bác sỹ.
B15 Kiểm tra lại túi máu, lắc nhẹ nhàng túi máu.
B16 Xé túi dây truyền Cắm đầu dây truyền vào túi máu.
B17 Treo túi máu lên cọc truyền và đuổi khí Cắt băng dính.
B18 Gắp bông vào khay quả đậu, mang khay tới giường người bệnh.
Giúp người bệnh ở tư thế thuận lợi, bộc lộ, xác định vị trí tĩnh B19 mạch, đặt dây garo Thắt dây garo, sát khuẩn vị trí truyền hai lần.
B20 Điều dưỡng mang găng tay vô khuẩn.
Căng da và đâm kim luồn qua da đúng kỹ thuật Lắp dây B21 truyền, mở khóa cho máu chảy quan sát sắc mặt, động viên người bệnh.
B22 Cố định kim luồn, đặt gạc phủ vùng truyền Điều chỉnh tốc độ truyền theo y lệnh.
B23 Thu dây garo Dặn người bệnh những điều cần thiết.
B24 Phân loại rác theo quy định, xịt cồn 70 tráng khay quả đậu dùng bông lau khô.Tháo găng tay.
B25 Theo dõi thường xuyên người bệnh, viết phiếu truyền máu. Ghi chú:
1đ: Có thực hiện nhưng chưa tốt
• Thực hiện và theo dõi truyền máu tại đơn vị điềutrị
Bác sỹ điều trị và điều dưỡng viên cần thực hiện kiểm tra và đối chiếu nhóm máu, theo dõi quá trình truyền máu, đồng thời phát hiện và xử trí kịp thời các bất thường, tai biến không mong muốn xảy ra trong và sau khi truyền máu.
Kiểm tra và đối chiếu thông tin của người bệnh, đơn vị máu và phiếu truyền máu là bước quan trọng trong quy trình truyền máu Đồng thời, cần kiểm tra hạn sử dụng và hình thức bên ngoài của túi máu để đảm bảo tuân thủ các quy định an toàn.
Thực hiện định nhóm máu hệ ABO của người bệnh, của túi máu ngay tại giường bệnh và đối chiếu với thông tin trên phiếu truyền máu
Khi thực hiện truyền máu toàn phần, cần sử dụng huyết thanh mẫu để định nhóm máu ABO từ mẫu máu của người bệnh, được lấy ngay trước khi tiến hành truyền Đồng thời, cũng cần lấy mẫu máu từ đơn vị máu sắp truyền để đảm bảo an toàn và tương thích trong quá trình truyền máu.
Trộn 02 giọt chế phẩm máu với 01 giọt máu của người bệnh để kiểm tra ngưng kết Không tiến hành truyền máu nếu có hiện tượng ngưng kết, ngoại trừ trường hợp truyền tủa lạnh theo quy định.
Phối hợp với đơn vị phát máu để điều tra và làm rõ mọi sự khác biệt (nếu có) giữa hồ sơ bệnh án, phiếu truyền máu, nhãn đơn vị máu và kết quả định nhóm.
Trong quá trình truyền máu, cần thực hiện theo dõi chặt chẽ tình trạng sức khỏe của người bệnh, bao gồm kiểm tra các chỉ số mạch, nhiệt độ, huyết áp và trạng thái tinh thần trước và trong quá trình truyền, đặc biệt là trong 15 phút đầu để kịp thời phát hiện và xử trí các tai biến liên quan Việc sử dụng bộ dây truyền máu có bầu lọc là bắt buộc, và cần ghi chép đầy đủ các chỉ số và diễn biến lâm sàng vào phiếu truyền máu Dựa vào tình trạng của người bệnh, bác sĩ sẽ chỉ định việc theo dõi sau khi kết thúc truyền máu.
Cơ sở thực tiễn
2.1.Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Để nâng cao chất lượng chăm sóc người bệnh, nhiều nghiên cứu toàn cầu đã chỉ ra rằng kiến thức và thái độ thực hành của Điều dưỡng là nền tảng quan trọng cho nhiệm vụ chăm sóc Tuy nhiên, chất lượng này không chỉ phụ thuộc vào yếu tố cá nhân mà còn bị ảnh hưởng bởi môi trường làm việc, sự kiểm tra và giám sát, chương trình đào tạo liên tục, cùng với sự quan tâm từ lãnh đạo cấp khoa/phòng và bệnh viện Đặc biệt, trong nhiệm vụ thực hiện quy trình kỹ thuật truyền máu, các nghiên cứu cũng đã chứng minh mối liên hệ giữa kiến thức và thực hành an toàn truyền máu.
Nghiên cứu cắt ngang của Yosef Aslani năm 2004 về kiến thức truyền máu của 117 điều dưỡng tại bệnh viện trường đại học y khoa Iran cho thấy kiến thức của họ về sử dụng máu và các chế phẩm từ máu, quy trình truyền máu, cũng như theo dõi và xử trí tai biến truyền máu còn ở mức trung bình, với tỷ lệ đạt lần lượt là 66,7%, 65,8% và 59% Đặc biệt, chỉ có 25% điều dưỡng hiểu đúng về thời gian bắt đầu truyền máu sau khi nhận từ ngân hàng máu Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng kiến thức trung bình này có thể làm tăng nguy cơ rủi ro liên quan đến truyền máu và giảm chất lượng chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân.
2.2.Tình hình nghiên cứu tại ViệtNam
Năm 2014, Phan Thị Kim Hoa và Hứa Hồng Tài đã tiến hành một nghiên cứu cắt ngang tại Bệnh viện ĐKKV Định Quán nhằm khảo sát kiến thức và thực hành an toàn truyền máu của điều dưỡng Nghiên cứu có hai mục tiêu chính: đánh giá tỷ lệ trả lời đúng về kiến thức an toàn truyền máu và tỷ lệ thực hành đúng của điều dưỡng trong quy trình này.
Năm 2014, tại 9 viện ĐKKV Định Quán, một khảo sát cho thấy 80% nhân viên nắm rõ các chỉ định truyền máu và 97% nhận biết các tai biến có thể xảy ra trong quá trình này Hơn 55% điều dưỡng biết cách thực hiện phản ứng sinh vật trước khi truyền máu, trong khi 66% thực hiện phản ứng này Hơn 60% điều dưỡng cũng có kiến thức về các vấn đề cần theo dõi bệnh nhân trong khi truyền máu, và 100% đều biết ngừng truyền máu ngay khi phát hiện dấu hiệu bất thường.
Năm 2009, Trịnh Xuân Quang và cộng sự đã tiến hành khảo sát kiến thức thực hành về an toàn truyền máu của điều dưỡng tại Bệnh viện Đa khoa Trung Tâm Tiền Giang Kết quả cho thấy, 62,2% điều dưỡng nhận thông tin về an toàn truyền máu từ nhà trường, hơn 80% biết chỉ định truyền máu và 100% đồng ý rằng truyền máu cùng nhóm là tốt nhất Tuy nhiên, 12% điều dưỡng chưa vẽ đúng sơ đồ truyền máu, 32% thực hiện truyền máu mà không phối hợp với bác sĩ, và 20% chưa hoặc ít khi làm phản ứng chéo tại giường Đáng chú ý, 43,5% không nhớ thời gian làm nguội máu trước khi truyền, trong khi chỉ 20,8% thực hiện phản ứng sinh vật học cần thiết Hơn 50% điều dưỡng biết các vấn đề cần theo dõi bệnh nhân trong quá trình truyền máu, và 92% biết ngừng truyền ngay khi phát hiện dấu hiệu bất thường, cùng với 90% biết thể tích máu cần giữ lại trong túi trước khi ngưng truyền.
Nghiên cứu về thực hành quản lý truyền máu trong điều dưỡng đã chỉ ra nhiều yếu tố liên quan đến kiến thức và thực hành, nhưng chưa có sự tìm hiểu sâu về an toàn truyền máu Các nghiên cứu hiện tại chủ yếu đánh giá kiến thức và thực hành đúng-sai mà không phân tích lý do tại sao điều dưỡng chưa thực hiện tốt Phần lớn dữ liệu được thu thập qua phiếu phỏng vấn, tập trung mô tả hiện trạng mà thiếu phân tích về sự phù hợp của quy trình truyền máu với thực tiễn và quy định của Bộ Y tế Nghiên cứu của chúng tôi sẽ đi sâu vào việc xác định những kiến thức còn thiếu, các bước thực hành chưa đúng và các yếu tố liên quan, từ đó đề xuất giải pháp và khuyến nghị hợp lý nhằm nâng cao chất lượng an toàn truyền máu.
LIÊN HỆ VỚI THỰC TẾ
Thông tin chung về Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình
Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình, được thành lập vào năm 1903, đã vượt qua nhiều thử thách và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình trong suốt những năm qua Bệnh viện không ngừng phát triển và triển khai nhiều kỹ thuật lâm sàng tiên tiến như phẫu thuật tim mạch, lọc máu và chạy thận nhân tạo Với những nỗ lực này, bệnh viện đã nhiều năm liền đạt danh hiệu Bệnh viện xuất sắc.
Bộ Y Tế tặng cờ luân lưu, Chính phủ và Chủ tịch nước tặng thưởng huân chương, huy chương cùng nhiều danh hiệu cao quí khác.
Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình hiện có cơ cấu tổ chức gồm 1580 giường bệnh, 11 phòng chức năng, 23 khoa lâm sàng và 9 khoa cận lâm sàng Ngoài ra, bệnh viện còn có 1 khoa chăm sóc tự nguyện và 2 trung tâm chuyên biệt là Ung Bướu và Tim Mạch.
Bệnh viện hiện có tổng cộng 546 điều dưỡng viên, với cơ cấu trình độ được phân chia như sau: 1 thạc sĩ/chuyên khoa I, 109 điều dưỡng đại học, 341 điều dưỡng cao đẳng và 95 điều dưỡng trung học.
Bệnh viện có nhiệm vụ khám và chữa bệnh, nghiên cứu khoa học, đào tạo đa khoa, chỉ đạo tuyến, phòng bệnh và quản lý bệnh viện hiệu quả.
* Công tác truyền máu tại khoa Nội Tiêu hóa:
Khoa Nội Tiêu hóa chuyên tiếp nhận và điều trị các bệnh lý liên quan đến tiêu hóa, với số lượng bệnh nhân nội trú lên đến 90 – 100 người và 20 - 45 bệnh nhân ngoại trú mỗi ngày, thường xuyên trong tình trạng quá tải.
Trong 6 tháng đầu năm 2020, khoa Nội Tiêu hóa đã truyền 1442 ca máu Như vậy, tính trung bình mỗi ngày sẽ có khoảng 6 đến 8 ca truyền máu, đòi hỏi công tác truyền máu phải thật sự an toàn.
Việc cấp phát máu tại bệnh viện được thực hiện một cách an toàn, với không có báo cáo nào về việc truyền nhầm nhóm máu trong 5 năm qua, giúp bảo vệ sức khỏe của bệnh nhân Mặc dù công tác truyền máu ở cấp khoa cơ bản là an toàn, chúng tôi đã ghi nhận một số trường hợp thiếu sót trong thực hành, nhưng những sai sót này đã được phát hiện và điều chỉnh kịp thời Các lỗi thường gặp trong quy trình truyền máu cần được chú ý để nâng cao chất lượng dịch vụ.
• Lưu trữ máu tại khoa lâm sàng chưa antoàn.
• Thực hiện kỹ thuật phản ứng định lại nhóm máu tại giường khôngđúng
• Thời gian truyền máu quá dài hoặc quá ngắn.
• Không ghi đầy đủ các thông tin liên quan đến việc theo dõi người bệnh trước, trong và sau truyềnmáu.
Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu mối liên hệ giữa kiến thức và thực hành truyền máu của điều dưỡng (ĐD) với các lỗi thường gặp trong quá trình chăm sóc bệnh nhân Chúng tôi hy vọng rằng kết quả nghiên cứu sẽ góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc người bệnh tại khoa Nội Tiêu hóa Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình.
Thực trạng công tác đảm bảo an toàn truyền máu của Điều dưỡng tại BVĐK tỉnh Thái Bình năm 2020
2.2.1 Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu
Bảng 2.1: Thông tin cá nhân của Điều dưỡng (n= 43)
Cao đẳng Đại học trở lên
Tổng Bảng 2.1 cho thấy trong 43 ĐD tham gia nghiên cứu, tỷ lệ nữ chiếm đa số
Đội ngũ điều dưỡng chủ yếu là người trẻ, với 97,7% trong độ tuổi dưới 30 Thời gian công tác của họ cũng còn ngắn, khi 39,5% có thâm niên dưới 5 năm Đáng chú ý, có 20,9% điều dưỡng viên chỉ đạt trình độ trung cấp.
2.2.2 Kết quả kiến thức an toàn truyền máu của Điều dưỡng
Bảng 2.2: Kiến thức về An toàn truyền máu (n= 43)
A1 Đối tượng bảo vệ của an toàn truyền máu
A2 Hệ nhóm máu quan trọng nhất trong thực hành truyền máu
A3 Kháng nguyên – kháng thể nhóm máu (A)
A4 Kháng nguyên – kháng thể nhóm máu (B)
A5 Kháng nguyên – kháng thể nhóm máu (AB)
A6 Kháng nguyên – kháng thể nhóm máu (O)
A7 Người nhóm máu (O) nhận được máu toàn phần từ nhóm
A8 Người nhóm máu (AB) nhận được khối hồng cầu từ nhóm
A9 Người nhóm máu (A) nhận được khối hồng cầu từ nhóm
A10 Người nhóm máu (O) nhận được huyết tương từ nhóm
Theo Bảng 2.2, chỉ có 25,6% điều dưỡng nhận thức đúng về hệ nhóm máu quan trọng trong thực hành truyền máu, trong khi đó, tỷ lệ nhận thức đúng về khối hồng cầu có thể truyền cho người nhóm máu A đạt 88,4%.
2.2.3 Kết quả kiến thức về Điều kiện bảo quản máu và chế phẩm máu của ĐD Bảng
2.3: Kết quả kiến thức về điều kiện bảo quản máu và chế phẩm máu của điều dưỡng (n= 43)
Thời gian lưu giữ tối đa túi máu tại buồng bệnh trước khi truyền máu cho người bệnh
A14 Việc cần làm khi truyền máu với tốc độ nhanh và khối lượng lớn Không sử dụng các đơn vị máu
A15 và chế phẩm khi có các dấu hiệu
Thời gian từ khi kết thúc việc làm
A16 tan đông đến khi kết thúc việc truyền máu cho người bệnh
Theo bảng 2.3, nhận thức của điều dưỡng (ĐD) về việc cần thực hiện khi truyền máu nhanh và khối lượng lớn chỉ đạt 58,1%, cho thấy tỷ lệ nhận biết còn thấp Ngược lại, tỷ lệ nhận thức về việc không sử dụng các đơn vị máu và chế phẩm khi có dấu hiệu bất thường lại cao, đạt 93,0%.
2.2.4 Kết quả kiến thức về Tai biến truyền máu của ĐD
Bảng 2.4: Kết quả kiến thức về Tai biến truyền máu của ĐD (n= 43)
A17 Khái niệm tai biến truyền máu
A18 Nguyên nhân gây tai biến truyền máu
A19 Các tai biến truyền máu sớm
A20 Các tai biến truyền máu muộn
A21 Tai biến không do truyền máu gây nên
A22 Các phản ứng có thể xảy ra sau truyền máu
A23 Thời điểm có thể phát hiện các tai biến truyền nhầm nhóm máu Không được tiếp tục truyền đơn
A24 vị máu, chế phẩm máu có liên quan đến tai biến sau khi đã ngừng truyền quá thời gian
Theo bảng 2.4, 51,2% điều dưỡng (ĐD) hiểu biết về thời điểm không được truyền tiếp đơn vị máu và chế phẩm máu liên quan đến tai biến truyền máu sau khi ngừng truyền Nhận thức của ĐD về các tai biến truyền máu sớm đạt 65,1% Tỷ lệ ĐD có nhận thức đúng cao nhất là thời điểm phát hiện tai biến truyền nhầm nhóm máu, với tỷ lệ lên tới 93%.
2.2.5 Kết quả kiến thức về Chăm sóc, theo dõi truyền máu của ĐD
Bảng 2.5: Kết quả kiến thức về Chăm sóc, theo dõi truyền máu của ĐD (n= 43)
A25 Yêu cầu theo dõi người bệnh khi truyền máu Trong khi truyền máu, nếu người
A26 bệnh có chỉ định tiêm/truyền thuốc, anh chị sẽ đưa thuốc vào người bệnh bằng cách
Xử trí đầu tiên của điều dưỡng khi
A27 xảy ra phản ứng tan máu cấp tính do truyền máu gây ra Điều không đúng khi điều dưỡng
A28 xử trí với tai biến truyền máu mức độ trung bình
Trong trường hợp xảy ra tai biến
A29 truyền máu, phải duy trì đường truyền tĩnh mạch bằng dung dịch
A30 Sau truyền máu, điều dưỡng cần ghi hồ sơ bệnh án những nội dung
Ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân
Khoa Nội Tiêu hóa chuyên điều trị bệnh thiếu máu do xuất huyết tiêu hóa, với tần suất truyền máu cao, trung bình từ 6-8 ca mỗi ngày Điều này mang lại cho đội ngũ điều dưỡng nhiều kinh nghiệm và cơ hội để thực hiện quy trình truyền máu một cách an toàn.
- Bệnh viện và khoa phòng tạo điều kiện để ĐD được đào tạo tấp huấn hàng năm,giúp nâng cao kiến thức trong truyền máu.
- Đội ngũ ĐD khá đông (43 ĐD), nên tỷ lệ thực hiện kỹ thuật có sai số giảm Kết quả đánh giá có độ chính xác cao hơn.
Điều dưỡng cần nắm vững kiến thức về việc chăm sóc và theo dõi người bệnh trong quá trình truyền máu Sự hiểu biết này thể hiện nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng và mức độ cần thiết của việc theo dõi bệnh nhân trong quá trình truyền máu.
- Nhận biết của ĐD về thời gian lưu giữ tối đa túi máu tại buồng bệnh trước khi truyềnchiếm tỷ lệ thấp là 60.5%.
Kiến thức về an toàn truyền máu của đội ngũ y tế vẫn còn hạn chế, với chỉ 25.6% nhân viên nắm rõ hệ nhóm máu quan trọng trong thực hành truyền máu Hơn nữa, 46.5% nhân viên chưa hiểu rõ sơ đồ truyền máu, điều này cho thấy cần tăng cường đào tạo và nâng cao nhận thức về an toàn truyền máu trong cộng đồng y tế.
- Nhận biết của ĐD về thời gian không được phép truyền tiếp đơn vị máu có liên quan đến tai biến chiếm tỷ lệ thấp là 51.2%.
- Nhận biết của ĐD về các tai biến truyền máu sớm còn khá thấp đạt 65.1 %.
- Nhận biết của ĐD về việc cần làm khi truyền máu với tốc độ nhanh và khối lượng lớn chiếm tỷ lệ thấp là 58.1%.
- Khoa Nội Tiêu hóa là khoa mới thành lập (2012) nên đội ngũ ĐD còn khá trẻ Kinh nghiệm xử lý tai biến trong truyền máu chưa cao.
Đa số điều dưỡng hiện nay chỉ tập trung vào quy trình và việc chăm sóc, theo dõi truyền máu, mà chưa chú trọng đến hệ nhóm máu, nhận biết và xử trí các tai biến liên quan đến truyền máu Nguyên nhân chủ yếu là do điều dưỡng nghĩ rằng những vấn đề này thuộc về trách nhiệm của bác sĩ.
- Một số ĐD còn chưa ý thức được tầm quan trọng của an toàn trong truyền máu.
Do số lượng bệnh nhân ngày càng tăng, việc tập huấn và đào tạo nâng cao kiến thức về an toàn truyền máu vẫn còn hạn chế, dẫn đến việc đội ngũ y tế dễ mắc sai sót.
BÀN LUẬN
Thực trạng của vấn đề…
3.1.1 Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu của chúng tôi được thực hiện trên 43 điều dưỡng tại khoa Nội Tiêu hóa của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình, nhằm đánh giá quy trình truyền máu hiện đang áp dụng tại bệnh viện.
Tỷ lệ nữ giới tham gia nghiên cứu đạt 97,1%, trong khi tỷ lệ nam giới chỉ chiếm 2,9% Đây là đặc điểm nổi bật trong ngành điều dưỡng, đặc biệt là tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình.
Nhóm người trên 45 tuổi chỉ chiếm 7,0%, một tỷ lệ thấp hơn nhiều so với nghiên cứu của Trịnh Xuân Quang và cộng sự (2009), trong đó nhóm tuổi trên 40 chiếm tới 41%.
[6] Sự khác biệt này có thể được lý giải là do khoa Nội Tiêu hóa là khoa mới được thành lập năm 2012 nên có nhiều cán bộ trẻ.
Tỷ lệ điều dưỡng có trình độ trung cấp hiện nay chỉ đạt 20,9%, trong khi tỷ lệ điều dưỡng có trình độ cao đẳng và đại học lần lượt là 72,1% và 7,0% Nghiên cứu của Trịnh Xuân Quang cho thấy tỷ lệ điều dưỡng trung cấp lên tới 97% Sự khác biệt này xuất phát từ quyết định của Bộ Y tế về việc chuẩn hóa trình độ điều dưỡng tại các cơ sở y tế, theo đó từ năm 2025 sẽ không còn điều dưỡng trung cấp trong các bệnh viện Do đó, nghiên cứu của tôi cho thấy tỷ lệ điều dưỡng trung cấp thấp hơn nhiều so với kết quả của Trịnh Xuân Quang.
Tỷ lệ điều dưỡng có thâm niên công tác dưới 5 năm chiếm 39,5%, trong khi 32,6% có thâm niên từ 10 năm trở lên Kết quả này khác với nghiên cứu của Trịnh Xuân Quang, trong đó tỷ lệ điều dưỡng dưới 5 năm và trên 10 năm lần lượt là 28% và 49,3%.
3.1.2 Kiến thức an toàn truyền máu của điềudưỡng
Thông tư 26/2013/TT-BYT hướng dẫn về hoạt động truyền máu, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo an toàn trong truyền máu, đặc biệt là các chế phẩm máu, hệ nhóm và quy tắc truyền máu Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, chỉ 25,6% điều dưỡng nắm vững kiến thức về hệ nhóm máu và 46,5% về sơ đồ truyền máu tối thiểu Tỷ lệ kiến thức đúng của điều dưỡng trong nghiên cứu của Trịnh Xuân Quang (2009) và Phan Thị Kim Hoa (2014) đạt 100%, cao hơn so với nghiên cứu của chúng tôi, do các câu hỏi trong nghiên cứu của họ chỉ yêu cầu hiểu biết cơ bản về truyền máu cùng nhóm hay khác nhóm Trong khi đó, nghiên cứu của chúng tôi yêu cầu điều dưỡng phải có kiến thức sâu hơn về lý do và quy định khi truyền máu khác nhóm, cũng như số lượng máu tối đa được truyền.
Kiến thức về nhận biết và xử trí tai biến trong truyền máu của điều dưỡng còn có sự chênh lệch lớn Ba nội dung có tỷ lệ kiến thức cao trên 90% bao gồm: việc làm đầu tiên của điều dưỡng khi xảy ra tai biến truyền máu (96,9%), thời điểm phát hiện tai biến truyền nhầm nhóm máu (94,8%), và đường truyền máu vào cơ thể bệnh nhân trong quá trình tiêm hoặc truyền thuốc (93,7%) Tuy nhiên, chỉ 78,5% điều dưỡng nắm vững kiến thức về dung dịch sử dụng trong trường hợp tai biến truyền máu và 60,7% biết tai biến thường gặp khi truyền tiểu cầu/plasma Đặc biệt, tỷ lệ kiến thức đúng về tai biến khi truyền khối hồng cầu chỉ đạt 35,6% Theo thông tư 26/2013/TT-BYT, điều dưỡng cần nắm rõ 100% các nội dung này để có khả năng nhận biết và xử trí đúng các tai biến không mong muốn trong truyền máu.
Giải pháp để giải quyết/ khắc phục vấn đề
Thường xuyên tập huấn, kiểm tra kiến thức an toàn trong truyền máu
+ Ban lãnh đạo Bệnh viện và khoa phòng tạo điều kiện
+ Có sự hỗ trợ của phòng chỉ đạo tuyến trong quá trình tập huấn
+ Đã thành lập được Hội Đồng truyền máu tại Bệnh viện.
Điều dưỡng thường gặp khó khăn trong việc tập trung khi tham gia lớp học trước ca làm việc hoặc sau ca trực đêm, cũng như khi phải chăm sóc con nhỏ.
+ Hiện tại mới chỉ áp dụng hình thức đào tạo tập trung mà chưa triển khai được hình thức đào tạo trực tuyến.
+ Nguồn giảng viên còn hạn chế do phải kiêm nhiệm nhiều công việc nên việc mời giảng còn gặp nhiều khó khăn.
+ Trang thiết bị, vật tư tiêu hao còn thiếu: Máy chiếu mới chỉ có tại các hội trường lớn của viện mà chưa có tại các khoa phòng.
+ Hội đồng truyền máu mặc dù đã được thành lập nhưng hoạt động còn hạn chế.