ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Bài viết này tập trung vào việc theo dõi tình trạng người bệnh sau phẫu thuật kết hợp xương chi dưới, bao gồm xương đùi, cổ xương đùi, mâm chày và xương cẳng chân, trong 72 giờ đầu tại Khoa Chấn thương của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định vào năm 2019 Nghiên cứu nhằm đánh giá quá trình hồi phục và những biến chứng có thể xảy ra trong giai đoạn đầu sau phẫu thuật.
+ Người bệnh ≥ 18 tuổi, đồng ý tham gia nghiên cứu.
+ Người bệnh sau phẫu thuật kết hợp xương đùi, cổ xương đùi, mâm chày, xương cẳng chân nằm điều trị tại khoa.
+ Có khả năng giao tiếp, đọc và hiểu tiếng Việt, sẵn sàng tham gia nghiên cứu.
+ Người bệnh không đồng ý tham gia nghiên cứu.
+ Người bệnh mắc bệnh rối loạn tâm thần.
+ Sau phẫu thuật bất tỉnh, hôn mê hoặc mê sảng.
+ Người bệnh đa chấn thương
Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian thu thập số liệu: Từ ngày 19 tháng 3 năm 2019 đến tháng 6 năm 2019. Địa điểm nghiên cứu:
Khoa Chấn thương - Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu được thiết kế theo phương pháp mô tả cắt ngang.
Cỡ mẫu
Bài viết này tập trung vào việc chọn lựa toàn bộ bệnh nhân đã trải qua phẫu thuật kết hợp xương chi dưới, bao gồm xương đùi, cổ xương đùi, mâm chày và xương cẳng chân, đang điều trị tại khoa Chấn thương - Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định trong khoảng thời gian từ ngày 19 tháng 03 năm 2019 đến tháng 06 năm 2019.
Trong 03 tháng đã lựa chọn được 117 người bệnh đáp ứng đủ tiêu chuẩn đưa vào nghiên cứu
Phương pháp chọn mẫu
Trong quá trình chọn mẫu, việc lựa chọn mẫu thuận tiện được áp dụng Mỗi ngày, những bệnh nhân đủ tiêu chuẩn sẽ được chọn tham gia nghiên cứu, và thông tin sẽ được thu thập tại Khoa.
Phương pháp thu thập số liệu
Trước khi thu thập số liệu, nhóm nghiên cứu đã tiến hành tập huấn để sử dụng bộ công cụ một cách thành thạo Họ cũng đã phát phiếu điều tra thử cho 10 bệnh nhân nhằm đánh giá độ tin cậy của bộ công cụ Đây là lần đầu tiên nhóm tiếp xúc với đối tượng nghiên cứu, và họ đã thông báo cho bệnh nhân về mục đích, phương pháp và quy trình của nghiên cứu.
Quy trình thu thập số liệu về cơn đau của người bệnh sẽ diễn ra tại ba thời điểm: trong 24 giờ đầu, vào ngày thứ hai và ngày thứ ba sau phẫu thuật Nhóm nghiên cứu sẽ tiến hành thu thập số liệu trước khi người bệnh nhận được điều trị đau hàng ngày.
Khi lựa chọn được bệnh nhân đủ tiêu chuẩn, nhóm nghiên cứu sẽ gặp gỡ và thông báo cho họ về mục đích, phương pháp và quy trình thực hiện nghiên cứu Sau khi bệnh nhân đồng ý tham gia, họ sẽ ký vào phiếu đồng thuận.
Trong 24 giờ đầu sau phẫu thuật, việc thu thập số liệu là rất quan trọng Thời gian này được tính từ lúc bệnh nhân được chuyển về khoa sau khi phẫu thuật và thuốc gây mê đã hết tác dụng.
Nếu bệnh nhân được chuyển về khoa từ 18 giờ đến 6 giờ sáng hôm sau, thì thành viên trong nhóm nghiên cứu trực vào buổi tối hôm đó sẽ thu thập thông tin và số liệu từ bệnh nhân.
Các thông tin cần thu thập từ HSBA, nhóm nghiên cứu lấy thông tin từ HSBA và điền vào bộ câu hỏi.
Người bệnh sẽ nhận một bộ câu hỏi và được hướng dẫn để hoàn thành Nhóm nghiên cứu sẽ có mặt để hỗ trợ và giải đáp mọi thắc mắc liên quan đến bộ câu hỏi.
- Ngày thứ 2 sau phẫu thuật: sử dụng bộ câu hỏi đánh giá mức độ đau của người bệnh để đánh giá.
- Ngày thứ 3 sau phẫu thuật: sử dụng bộ câu hỏi đánh giá mức độ đau của người bệnh để đánh giá.
Trong mỗi buổi nghiên cứu, nhóm nghiên cứu sẽ có 2 điều tra viên thực hiện đánh giá từ 2 đến 3 bệnh nhân Thời gian thu thập dữ liệu cho mỗi bệnh nhân dao động từ 15 đến 30 phút.
Sau khi hoàn tất bộ câu hỏi, nhóm nghiên cứu tiến hành kiểm tra các thông tin mà người bệnh tự điền và đối chiếu với dữ liệu thu thập từ hồ sơ bệnh án (HSBA) nhằm đảm bảo không bỏ sót bất kỳ câu trả lời nào.
- Dữ liệu sẽ được mã hóa và phân tích trên phần mềm Stata 12.0 để chuẩn bị cho việc phân tích và xử lý số liệu.
2.7 Các biến số nghiên cứu.
2.7.1 Nhóm biến số về nhân khẩu học
Các biến số nghiên cứu Định nghĩa
Từ khi sinh đến thời điểm hiện Biến liên tại (tính bằng năm) tục
Sự khác biệt về mặt sinh học Biến nhị giữa nam giới và nữ giới giá
Nhóm nghiên cứu thu thập thông tin từ HSBA và điền vào bộ câu hỏi thiết kế sẵn.
Nhóm nghiên cứu thu thập thông tin từ HSBA và điền vào bộ câu hỏi thiết kế sẵn.
Nhóm nghiên cứu thu thập thông tin từ HSBA và điền vào bộ câu hỏi thiết kế sẵn.
Người bệnh tự điền vào bộ câu hỏi thiết kế sẵn
Nhóm nghiên cứu thu thập thông tin từ HSBA và điền vào bộ câu hỏi thiết kế sẵn
2.7.2 Nhóm biến số về đau và các yếu tố liên quan
Các biến số nghiên cứu Đau
Lo lắng sau phẫu thuật
Thời gian cuộc phẫu thuật
Chiều dài vết phẫu thuật
Đau sau phẫu thuật được định nghĩa là kết quả của việc rạch da và thao tác trên mô, tạo ra vết thương trong quá trình phẫu thuật Tình trạng đau này sẽ giảm dần theo quá trình hồi phục của vết thương.
Bệnh lý cụ thể là tình trạng sức khỏe mà người bệnh mắc phải, được bác sĩ chẩn đoán khi họ đến khám và điều trị tại cơ sở y tế hiện tại.
Lo lắng là phản ứng tự nhiên của con người khi đối mặt với khó khăn và các mối đe dọa từ môi trường xung quanh Đây là một cảm xúc bình thường mà mọi người trải qua, giúp họ tìm cách vượt qua thử thách trong cuộc sống.
Thời gian phẫu thuật được tính từ khi bắt đầu rạch hoặc xâm lấn mô cho đến khi hoàn thành việc đóng vết phẫu thuật, và được đo bằng phút Chiều dài vết phẫu thuật (cm) là khoảng cách của một vết cắt qua da hoặc mô khác do bác sĩ phẫu thuật thực hiện.
Thể trạng được tính theo công thức BMI theo tiêu chuẩn của WHO dành riêng cho người châu Á.
BMI= Cân nặng (kg)/((chiều cao x chiều cao (cm))
Người bệnh tự điền vào bộ câu hỏi thiết kế sẵn (Phụ lục 5.1,5.2,5.3)
Nhóm nghiên cứu thu thập thông tin từ HSBA thông qua bộ câu hỏi đã được thiết kế sẵn, và người bệnh cũng tự điền vào bộ câu hỏi này (Phụ lục 4).
Nhóm nghiên cứu đã tiến hành thu thập thông tin từ HSBA và hoàn thành bộ câu hỏi đã được thiết kế sẵn.
Nhóm nghiên cứu thu thập thông tin từ HSBA và điền vào bộ câu hỏi thiết kế sẵn
Công thức BMI = Cân nặng (kg)/ (Chiều cao x chiều cao(cm))
Bảng đánh giá theo chuẩn WHO và dành riêng cho người châu Á (IDI&WPRO)
2.8 Thang đo, tiêu chí và tiêu chuẩn đánh giá các biến trong nghiên cứu.
2.8.1 Nhóm biến số về nhân khẩu học và thông tin lâm sàng của người bệnh Để đánh giá được nhóm biến số này nhóm nghiên cứu đã xây dựng bộ công cụ bao bao gồm 2 phần: Dữ liệu về nhân khẩu học và dữ liệu lâm sàng.
- Dữ liệu nhân khẩu học bao gồm: Tuổi, giới, dân tộc, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân (Phụ lục 2).
Thang đo, tiêu chí và tiêu chuẩn đánh giá các biến trong nghiên cứu
2.8.1 Nhóm biến số về nhân khẩu học và thông tin lâm sàng của người bệnh Để đánh giá được nhóm biến số này nhóm nghiên cứu đã xây dựng bộ công cụ bao bao gồm 2 phần: Dữ liệu về nhân khẩu học và dữ liệu lâm sàng.
- Dữ liệu nhân khẩu học bao gồm: Tuổi, giới, dân tộc, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân (Phụ lục 2).
Dữ liệu lâm sàng bao gồm các thông tin quan trọng như chẩn đoán, bệnh đi kèm, tiền sử phẫu thuật, thời gian cuộc phẫu thuật, chiều dài vết phẫu thuật, tình trạng thể chất của bệnh nhân và thuốc giảm đau được sử dụng sau phẫu thuật.
Các dữ liệu trên được thu thập từ HSBA, riêng chỉ có tình trạng hôn nhân do người bệnh tự điền vào bộ câu hỏi.
2.8.2 Biến số về mức độ đau
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng phần một của thang điểm lượng giá bằng số (Numeric Rating Scale - NRS) với 4 câu hỏi để người bệnh tự đánh giá mức độ đau của họ Người bệnh sẽ được yêu cầu đánh giá cơn đau của mình tại 4 thời điểm khác nhau: khi họ cảm thấy "đau nhiều nhất" và "đau ít nhất".
Thang điểm đánh giá đau từ 0 đến 10, với 0 là không đau và 10 là đau nhiều, giúp người bệnh đánh giá cả "đau trung bình" và "đau hiện tại" Ưu điểm của bảng kiểm đau rút gọn (PBI) là cho phép người bệnh đánh giá bốn thời điểm trong một lần hỏi, không chỉ tập trung vào đau hiện tại mà còn phản ánh tình trạng đau ở những thời điểm khác nhau Điều này giúp giảm thiểu sai số do ảnh hưởng của thuốc giảm đau, vì nếu chỉ đánh giá tại thời điểm ngay sau khi dùng thuốc, kết quả có thể không chính xác.
Nhược điểm của thang đánh giá mức độ đau trong bảng kiểm đau rút gọn (PBI) là yêu cầu người bệnh phải hồi tưởng lại mức độ đau cao nhất, thấp nhất và trung bình của họ, sử dụng thang điểm từ 0 đến 10.
“Đau nhiều nhất” là người bệnh tự đánh giá về cảm nhận đau của mình tại thời điểm đau nhiều nhất theo thang điểm từ 0 đến 10.
“Đau ít nhất” là người bệnh tự đánh giá về cảm nhận đau của mình tại thời điểm đau ít nhất theo thang điểm từ 0 đến 10.
“Đau trung bình” là người bệnh tự đánh giá về cảm nhận đau của mình tại thời điểm cảm thấy đau trung bình theo thang điểm từ 0 đến 10.
“Đau hiện tại” là người bệnh tự đánh giá về cảm nhận đau của mình tại thời điểm hiện tại theo thang điểm từ 0 đến 10.
Điểm đau trung bình sau phẫu thuật kết hợp xương chi dưới trong 24 giờ, ngày thứ 2 và ngày thứ 3 được xác định bằng cách tính trung bình cộng của bốn thời điểm: điểm đau nhiều nhất, điểm đau ít nhất, điểm đau trung bình và điểm đau hiện tại.
Nhiều tác giả cả trong và ngoài nước đã áp dụng bộ câu hỏi này để đánh giá tình trạng đau sau phẫu thuật ngoại khoa, đặc biệt là trong các ca phẫu thuật kết hợp xương chi dưới.
Cleeland đã tiến hành nhiều nghiên cứu về thang đánh giá mức độ đau sau phẫu thuật, cho thấy độ tin cậy cao với hệ số Cronbach alpha từ 0,77 đến 0,91 Tại Việt Nam, Nguyễn Thị Dân và các cộng sự (2015) đã áp dụng bộ câu hỏi này để nghiên cứu người bệnh phẫu thuật cắt túi mật nội soi tại bệnh viện Việt Đức.
Đào Tiến Thịnh (2017) đã áp dụng bộ câu hỏi nghiên cứu để khảo sát tình trạng người bệnh sau phẫu thuật ổ bụng tại khoa Ngoại tiêu hóa gan - mật của bệnh viện Trung ương Thái Nguyên Tương tự, Bùi Văn Khanh (2017) cũng đã sử dụng bộ câu hỏi này để đánh giá tình trạng đau sau phẫu thuật mở bướu giáp đơn thuần tại khoa Ngoại tổng hợp của bệnh viện A Thái Nguyên.
2.8.3 Biến số mức độ lo lắng của người bệnh sau phẫu thuật kết hợp xương chi dưới Để đo biến số này nhóm nghiên cứu sử dụng thang đo mức độ lo âu (HADS-A).
Bộ công cụ HADS - A, được phát triển bởi Zigmond và Snaith, nhằm đo lường mức độ lo âu của bệnh nhân trong viện, đã được dịch sang tiếng Việt bởi Nguyễn Hoàng Long vào năm 2010 để áp dụng cho bệnh nhân sau phẫu thuật ổ bụng Tại Việt Nam, nhiều tác giả đã sử dụng bộ câu hỏi này để đánh giá lo âu ở bệnh nhân, trong đó có Phạm Thị Quyên (2018) với nghiên cứu về bệnh nhân sau phẫu thuật chỉnh hình xương chi dưới.
[12], tác giả Bùi Văn Khanh (2017) cũng sử dụng bộ câu hỏi này để đánh giá mức độ lo âu trên người bệnh mở bướu giáp đơn thuần [7].
Bộ công cụ nghiên cứu bao gồm 7 câu hỏi, trong đó người tham gia sẽ đánh giá mức độ lo âu của mình bằng cách chọn mức từ 0 đến 3 Tổng điểm tối đa có thể đạt được là 21 điểm Theo nghiên cứu của Bambauer và cộng sự (2005), lo âu được phân loại thành 4 mức độ khác nhau.
8 - 14 điểm: Lo âu trung bình.
Bộ công cụ đo lường được đánh giá với hệ số Cronbach alpha là 0,89 trong nghiên cứu của Nguyễn Hoàng Long (2010) trên 30 đối tượng Hơn nữa, công cụ này cũng được sử dụng để đánh giá mức độ lo âu của bệnh nhân sau phẫu thuật chỉnh hình xương chi dưới, với giá trị Cronbach alpha đạt 0,83.
Nhóm nghiên cứu đã thử nghiệm bộ câu hỏi trên 10 bệnh nhân để đánh giá tính hợp lệ và độ tin cậy, đạt giá trị Cronbach alpha là 0,77 Kết quả này cho thấy bộ câu hỏi có độ tin cậy tốt và đã được lựa chọn để áp dụng trong nghiên cứu (Phụ lục 4).
Phương pháp phân tích số liệu
Sau khi nhập liệu, các thông tin sẽ được kiểm tra tính chính xác so với phiếu gốc và phát hiện lỗi mã hóa số liệu cũng như lỗi nhập liệu Để giảm thiểu sai sót, quy trình yêu cầu hai người cùng thực hiện việc nhập số liệu.
- Sau khi kiểm tra các lỗi trên, nhóm nghiên cứu sẽ kiểm tra tính nhất quán trong quá trình trả lời câu hỏi của người bệnh
* Xử lý và phân tích số liệu
- Từ các thông tin thu được trên phiếu điều tra, việc mã hóa dữ liệu và xử lý, phân tích số liệu bằng phần mềm Stata 12.0.
Dữ liệu được thu thập nhằm mô tả mức độ đau và các yếu tố tác động đến cảm giác đau của bệnh nhân sau phẫu thuật chỉnh hình xương chi dưới, phù hợp với mục tiêu nghiên cứu.
Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu sẽ được phân tích thông qua phương pháp thống kê mô tả, sử dụng tỷ lệ phần trăm và giá trị trung bình để trình bày số liệu.
Mối tương quan được xác định thông qua hệ số tương quan Pearson và kiểm định t độc lập, cùng với phân tích phương sai (ANOVA) Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê được đánh giá với ngưỡng xác suất p