PHẦN MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài
Pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, ảnh hưởng mạnh mẽ đến các đối tượng mà nó quản lý Để phát huy hiệu quả và giá trị của pháp luật, cần xây dựng một hệ thống pháp luật khoa học, đảm bảo tác động tích cực đến các đối tượng được điều chỉnh.
Trong những năm gần đây, tình trạng người chưa thành niên vi phạm pháp luật, đặc biệt là vi phạm hình sự, ngày càng gia tăng Việc xử lý những đối tượng này rất phức tạp do họ còn yếu về nhận thức và thường hành động bột phát, bị lôi kéo hoặc kích động Hơn nữa, người chưa thành niên có tương lai dài phía trước, nên không thể áp dụng các biện pháp xử lý giống như người đã thành niên Hệ thống pháp luật hiện tại đã có những quy định riêng đối với người chưa thành niên phạm tội, tuy nhiên, số lượng vi phạm vẫn không có dấu hiệu giảm Do đó, cần nghiên cứu và đánh giá hiệu quả của pháp luật trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên, nhằm đưa ra các quy định phù hợp để nâng cao hiệu quả pháp luật và giảm thiểu vi phạm.
Nghiên cứu về "Trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi trong luật hình sự Việt Nam" là một vấn đề thời sự và cấp thiết, phản ánh sự quan tâm đến việc áp dụng pháp luật và bảo vệ quyền lợi của thanh thiếu niên trong bối cảnh hiện nay.
Những vấn đề được xác lập và tuyên bố trong đề tài
Nghiên cứu tập trung làm sang tỏ những vấn đề cơ bản sau đây:
- Những vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên
- Pháp luật hiện hành về việc truy cứu trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên
- Thực trạng về việc vi phạm hình sự của người chưa thành niên
- Thực trạng về việc truy cứu trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội
- Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
- Một số giải pháp nhằm làm giảm vi phạm hình sự của người chưa thành niên
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu có một số mục tiêu sau đây:
- Nắm được và hiểu rõ được một số vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên
- Hiểu rõ một số quy định của pháp luật về việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
- Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của người chưa thành niên
- Nắm được thực trạng về việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
- Tăng thêm tài liệu để tìm hiểu về lý luận và thực tiễn về việc truy cứu trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên
- Đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về việc xử lý người chưa thành niên phạm tội
- Đề xuất những giải pháp làm giảm vi phạm hình sự của người chưa thành niên
Những câu hỏi đặt ra trong nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu đã đề ra, nghiên cứu cần làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn, nhằm giải đáp các câu hỏi quan trọng liên quan.
- Thế nào là người chưa thành niên?
- Hành vi như thế nào là vi phạm hình sự?
- Nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng vi phạm hình sự của người chưa thành niên ngày càng gia tăng
- Tình hình truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội ở nước ta trong thời gian qua như thế nào?
- Các biện pháp xử lý hình sự đối với người chưa thành niên trong hệ thống pháp luật nước ta có phù hợp và hiệu quả không?
- Để làm giảm hành vi vi phạm hình sự của người chưa thành niên, cần tiến hành những giải pháp nào?
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện thông qua nhiều phương pháp khác nhau, bao gồm thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh và điều tra xã hội học Bên cạnh đó, nghiên cứu còn áp dụng phương pháp đánh giá thực trạng và khảo cứu các tài liệu liên quan để đảm bảo tính chính xác và toàn diện của kết quả.
Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên đang thu hút sự chú ý đặc biệt trong thời gian gần đây Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, phạm vi được giới hạn từ năm 2005 đến nay.
Ý nghĩa của nghiên cứu
Nghiên cứu đã hoàn thiện lý luận về trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên, giúp nhận thức đúng đắn về trách nhiệm này và việc miễn truy cứu trách nhiệm hình sự Điều này góp phần nâng cao trách nhiệm của người chưa thành niên vi phạm pháp luật, đồng thời áp dụng lý luận cơ bản để nâng cao tính khả thi và hiệu quả của pháp luật Ngoài ra, nghiên cứu cũng nhằm bồi dưỡng nhận thức cho cán bộ các cơ quan chức năng và nâng cao năng lực quản lý của nhà nước.
Nghiên cứu này cung cấp kết quả có giá trị cho các đề tài khoa học liên quan đến trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên.
Kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng làm tài liệu trong các buổi tuyên truyền và tư vấn để nâng cao nhận thức cho người chưa thành niên, từ đó giúp giảm thiểu số vụ án vi phạm hình sự do độ tuổi này gây ra.
Nghiên cứu cung cấp cái nhìn sâu sắc về động cơ vi phạm hình sự của người chưa thành niên, giúp cơ quan chức năng đưa ra giải pháp nhanh chóng, hợp lý và hiệu quả.
Kết cấu báo cáo của nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục và phụ lục nghiên cứu còn có cấu trúc 4 chương
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
Khái niệm trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên
2.1.1 Khái niệm trách nhiệm hình sự a Trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm hình sự (TNHS) là một khái niệm pháp lý phức tạp liên quan đến những người vi phạm pháp luật hình sự Xung quanh khái niệm TNHS, vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau trong lĩnh vực khoa học Luật hình sự tại Việt Nam.
PGS.TSKH Lê Cảm định nghĩa rằng tội phạm hình sự (TNHS) là hệ quả pháp lý phát sinh từ hành vi phạm tội, thể hiện qua việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước đối với người vi phạm, theo quy định của Luật hình sự.
GS.TSKH Đào Trí Úc khẳng định rằng trách nhiệm hình sự (TNHS) là hệ quả pháp lý phát sinh từ hành vi phạm tội, thể hiện rõ ràng ở việc người phạm tội phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước về hành vi của mình.
GS.TS Đỗ Ngọc Quang định nghĩa trách nhiệm hình sự (TNHS) là một loại trách nhiệm pháp lý, phản ánh nghĩa vụ của cá nhân khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội TNHS được quy định trong Bộ luật Hình sự và dẫn đến hậu quả bất lợi do Tòa án áp dụng, tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi mà cá nhân đó thực hiện.
GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa và PGS.TS Lê Thị Sơn định nghĩa TNHS là trách nhiệm của người phạm tội đối với những hậu quả tiêu cực từ hành vi của họ TNHS được xem là một hình thức trách nhiệm pháp lý, bao gồm nghĩa vụ chịu sự tác động từ hoạt động truy cứu TNHS, chấp nhận kết quả kết tội, thực hiện các biện pháp cưỡng chế của TNHS như hình phạt và biện pháp tư pháp, cũng như mang án tích.
Trách nhiệm hình sự, dưới góc độ tổng quát, là một loại trách nhiệm pháp lý, thể hiện hậu quả bất lợi từ hành vi phạm tội Hình thức này được áp dụng thông qua các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước, theo quy định của Luật hình sự, nhằm xử lý người phạm tội.
Trách nhiệm hình sự (TNHS) chỉ phát sinh khi có sự kiện phạm tội, vì vậy đây là hình thức trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất TNHS được thực hiện trong khuôn khổ quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và người phạm tội, với mỗi bên có những quyền và nghĩa vụ cụ thể.
Nhà nước, thông qua cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền, có quyền truy cứu người phạm tội, nhưng phải tuân thủ các căn cứ và giới hạn do pháp luật quy định Người phạm tội có nghĩa vụ chấp nhận việc tước bỏ hoặc hạn chế quyền tự do nhất định, nhưng cũng có quyền yêu cầu Nhà nước tuân thủ các quyền và lợi ích hợp pháp của con người và công dân theo quy định của pháp luật.
Từ các khái niệm và phân tích khái niệm TNHS ở trên ta có thể rút ra một số đặc điểm của TNHS:
TNHS là hệ quả pháp lý phát sinh từ việc thực hiện hành vi phạm tội, bao gồm các hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự cấm hoặc việc không thực hiện các nghĩa vụ mà pháp luật hình sự yêu cầu.
TNHS chỉ có thể được xác định thông qua trình tự đặc biệt theo quy định của pháp luật, mà các cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm thực hiện.
TNHS thể hiện rõ ràng qua việc người phạm tội phải chịu hình phạt nghiêm khắc từ Nhà nước, bao gồm các biện pháp tước bỏ hoặc hạn chế một số quyền lợi hợp pháp của họ.
TNHS mà người phạm tội phải chịu là trách nhiệm đối với Nhà nước, không phải là trách nhiệm đối với cá nhân mà quyền lợi hợp pháp của họ bị xâm hại bởi hành vi phạm tội.
- TNHS phải được phản ánh trong bản án hay quyết định có hiệu lực pháp luật của tòa án b Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Năng lực tự nhận thức (TNHS) không phải bẩm sinh mà được hình thành qua quá trình phát triển tự nhiên và xã hội của mỗi cá nhân Con người chỉ có thể tách mình khỏi thế giới xung quanh và xác định vị trí trong các mối quan hệ khi có tự ý thức Điều này dẫn đến việc hình thành cá nhân có ý thức về hành động của mình và chịu trách nhiệm về hành vi Mọi người đều có khả năng phát triển ý thức và tự ý thức, nhưng khả năng này chỉ thực sự trở thành hiện thực thông qua hoạt động và giáo dục trong xã hội Ý thức, từ đầu, đã là sản phẩm xã hội và vẫn tiếp tục là như vậy miễn là con người tồn tại.
Năng lực trách nhiệm hình sự (TNHS) chỉ hình thành khi con người đạt đến một độ tuổi nhất định và sẽ tiếp tục được hoàn thiện qua các giai đoạn phát triển tiếp theo Khi đến độ tuổi này, con người nói chung sẽ có năng lực TNHS, ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt mà luật hình sự quy định là không có năng lực TNHS (Điều 13 BLHS).
Luật hình sự của các quốc gia được xây dựng dựa trên nghiên cứu tâm lý và chính sách hình sự riêng của từng nước, quy định tuổi bắt đầu có năng lực trách nhiệm hình sự (TNHS) và tuổi có năng lực TNHS đầy đủ Mức tuổi cụ thể cho những quy định này khác nhau giữa các quốc gia và có thể thay đổi theo thời gian.
Miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên
2.2.1 Khái niệm miễn trách nhiệm hình sự
Miễn trách nhiệm hình sự (TNHS) là một chế định quan trọng trong Luật hình sự Việt Nam, thể hiện chính sách khoan hồng và nhân đạo của Nhà nước đối với người phạm tội Chính sách này không chỉ khuyến khích người phạm tội lập công chuộc tội mà còn chứng tỏ khả năng giáo dục và cải tạo của họ, giúp họ nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng và trở thành người có ích cho xã hội.
Ta có thể định nghĩa khái niệm miễn trách nhiệm hình sự như sau:
Miễn trách nhiệm hình sự là một quy định nhân đạo trong Luật hình sự Việt Nam, cho phép cơ quan tư pháp có thẩm quyền không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với cá nhân nếu không cần thiết, tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng và các điều kiện nhất định Chế định này nhằm mục đích không buộc người vi phạm phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi khi có lý do hợp lý để miễn trừ trách nhiệm.
2.2.2 Điều kiện miễn trách nhiệm hình sự
Theo BLHS 2015thì việc miễn TNHS được thực hiện trong các điều kiện sau đây:
“ Điều 20 Sự kiện bất ngờ
Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội mà không thể thấy trước hoặc không có nghĩa vụ phải thấy trước hậu quả đó sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự Điều này được quy định tại Điều 21 về tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự.
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong tình trạng mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh lý khác làm giảm khả năng nhận thức và điều khiển hành vi sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự Điều này được quy định tại Điều 22 về phòng vệ chính đáng.
1 Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm Điều 23 Tình thế cấp thiết
1 Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm Điều 24 Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội
1 Hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm Điều 25 Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ
Hành vi gây thiệt hại trong quá trình nghiên cứu và áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới, khi đã tuân thủ đúng quy trình và biện pháp phòng ngừa, không được coi là tội phạm Điều 26 quy định về việc thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên.
Người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành mệnh lệnh của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự nếu đã báo cáo đầy đủ và vẫn được yêu cầu thực hiện mệnh lệnh đó Trong tình huống này, người ra mệnh lệnh sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự.
THỰC TRẠNG VỀ VIỆC TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
Một số quy định của pháp luật về việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
3.1.1 Nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Xuất phát từ đặc điểm tâm lý và yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm ở người chưa thành niên, Bộ luật Hình sự quy định các nguyên tắc đặc thù trong việc xử lý người chưa thành niên phạm tội.
Thứ nhất là mục đích của việc xử lý người chưa thành niên phạm tội Khoản 1 Điều
Xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội cần đảm bảo lợi ích tốt nhất cho họ, tập trung vào giáo dục và hỗ trợ để họ sửa chữa sai lầm, phát triển một cách lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.
Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội cần dựa vào độ tuổi và khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, cùng với nguyên nhân và điều kiện dẫn đến tội phạm.
Mục đích chính trong việc xử lý người chưa thành niên phạm tội được quy định rõ trong Bộ luật Hình sự, đó là giáo dục và giúp họ sửa chữa lỗi lầm để trở thành công dân có ích, không phải trừng phạt Khi một hành vi của người chưa thành niên bị coi là tội phạm, các cơ quan chức năng cần xem xét việc truy tố và xét xử, với mục tiêu giáo dục và hỗ trợ luôn được đặt lên hàng đầu Để thực hiện nguyên tắc này, các cơ quan tư pháp phải xác định tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, giúp người chưa thành niên nhận thức rõ về hành vi của mình Đồng thời, cần làm rõ nguyên nhân và điều kiện dẫn đến tội phạm, từ đó đưa ra quyết định truy tố hợp lý, nếu cần thiết, áp dụng các biện pháp cụ thể để triệt tiêu nguyên nhân và hạn chế tối đa tội phạm do người chưa thành niên gây ra.
Theo Khoản 2 Điều 91 BLHS 2015, điều kiện miễn trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định nhẹ nhàng hơn so với người thành niên.
Người dưới 18 tuổi phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự nếu thuộc một trong các trường hợp nhất định, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, trừ khi rơi vào các trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật.
13 a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ tội phạm quy định tại các điều 134, 141, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của
Bộ luật này quy định rằng, đối với những người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu họ phạm tội rất nghiêm trọng theo khoản 2 Điều 12, sẽ có những điều khoản đặc biệt áp dụng, ngoại trừ các tội phạm được quy định tại các điều 123, 134, 141 và 142.
144, 150, 151, 168, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật này; c) Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án
Theo quy định của BLHS, các điều kiện miễn TNHS cho người chưa thành niên phạm tội có tính chất mở rộng hơn so với người phạm tội nói chung Để được miễn TNHS, người chưa thành niên cần thỏa mãn bốn điều kiện cụ thể.
- Tội phạm thực hiện là tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng;
- Chưa gây thiệt hại hoặc thiệt hại không lớn;
- Có nhiều tình tiết giảm nhẹ;
- Được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục
Thứ ba là điều kiện truy cứu TNHS và áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định trong Khoản 3, 4 Điều 91 BLHS 2015:
Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi chỉ được thực hiện khi cần thiết, dựa trên các đặc điểm nhân thân của họ, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và yêu cầu phòng ngừa tội phạm.
Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi nhận thấy việc miễn trách nhiệm hình sự hoặc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng không đảm bảo hiệu quả giáo dục và phòng ngừa.
Nguyên tắc thứ ba trong xử lý người chưa thành niên phạm tội thể hiện tính nhân đạo sâu sắc, cho thấy không phải mọi trường hợp đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) Việc truy cứu TNHS chỉ thực hiện khi thực sự cần thiết và nhằm mục đích phòng ngừa tội phạm Ngay cả khi bị truy cứu, người chưa thành niên vẫn có khả năng không bị áp dụng hình phạt, mà thay vào đó là các biện pháp tư pháp nhằm cải tạo họ thành công dân có ích Do đó, truy cứu TNHS và áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội được coi là biện pháp cuối cùng.
Nguyên tắc thứ tư áp dụng cho người chưa thành niên phạm tội là nguyên tắc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Tính chất giảm nhẹ này được thể hiện qua các quy định về loại và mức phạt tù có thể áp dụng Cụ thể, Khoản 5, 6 Điều 91 Bộ Luật Hình sự năm 2015 quy định rõ ràng về vấn đề này.
Theo quy định pháp luật, người dưới 18 tuổi không bị xử phạt bằng án tù chung thân hoặc tử hình Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn cho đối tượng này khi các biện pháp giáo dục và hình phạt khác không đủ sức răn đe và phòng ngừa.
Khi áp dụng hình phạt tù có thời hạn, Tòa án sẽ xem xét giảm nhẹ mức án cho người dưới 18 tuổi phạm tội so với người từ 18 tuổi trở lên, đồng thời xác định thời hạn phạt ngắn nhất phù hợp.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Tử hình và tù chung thân là hai hình phạt nghiêm khắc nhất trong Bộ luật Hình sự, chỉ áp dụng cho những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khi khả năng giáo dục không còn Đối với người chưa thành niên phạm tội, mục đích chính của việc truy cứu trách nhiệm hình sự là giáo dục và cải tạo, do đó không thể áp dụng hai hình phạt này.
Thực trạng tình hình truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội ở nước ta
Vấn đề người chưa thành niên vi phạm pháp luật đang được các quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm Liên hợp quốc đã ban hành nhiều công ước và quy tắc nhằm phòng chống vi phạm pháp luật trong đối tượng này Tại Việt Nam, công tác này thuộc trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, với nhiều chính sách và pháp luật được ban hành để bảo đảm sự phát triển toàn diện của trẻ em Chính phủ và các cơ quan chức năng đã triển khai nhiều chương trình và biện pháp nhằm bảo vệ an ninh trật tự xã hội Tuy nhiên, tình hình vi phạm pháp luật của người chưa thành niên vẫn có xu hướng gia tăng, đặc biệt là sự tham gia của một bộ phận thanh thiếu niên vào các băng nhóm tội phạm có tổ chức và các hành vi bạo lực.
Trong số 18 hãn, nhiều người đã thực hiện các hành vi nghiêm trọng như giết người, cướp của, chống người thi hành công vụ, bảo kê, và đâm thuê chém mướn, gây ra hậu quả hết sức nghiêm trọng cho xã hội.
Theo thống kê từ Viện kiểm sát nhân dân tối cao, trong giai đoạn 5 năm (từ 2003 đến 2007), số lượng người vi phạm pháp luật hình sự đã bị khởi tố, truy tố và xét xử đã được ghi nhận.
- Năm 2003 khởi tố 4.578 người, truy tố 3.260 người, xét xử 2.940 người
- Năm 2004 khởi tố 5.138 người, truy tố 3.421 người, xét xử 2.930 người
- Năm 2005 khởi tố 6.420 người, truy tố 4.172 người, xét xử 3.404 người
- Năm 2006 khởi tố 7.818 người, truy tố 5700 người, xét xử 5.171 người
- Năm 2007 khởi tố 8.394 người, truy tố 5.889 người, xét xử 5.247 người
Số người chưa thành niên có nguy cơ vi phạm pháp luật là 71.581 người
Theo Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội, trong 6 tháng đầu năm 2008, cả nước ghi nhận 5.746 vụ việc liên quan đến khoảng 9.000 người chưa thành niên vi phạm pháp luật hình sự, tăng 2% so với cùng kỳ năm trước.
Theo thống kê của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội, tình hình tội phạm do người chưa thành niên từ 16 đến dưới 18 tuổi đang gia tăng, chiếm khoảng 60% tổng số vụ Đối với nhóm từ 14 đến dưới 16 tuổi, tỷ lệ này là khoảng 32%, trong khi đó, trẻ em dưới 14 tuổi chiếm khoảng 8%.
Theo thống kê mới nhất từ Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội, cơ cấu tội phạm của người chưa thành niên chủ yếu tập trung vào các hành vi vi phạm pháp luật hình sự liên quan đến tội xâm phạm sở hữu, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự của con người, cùng với một số tội xâm phạm an toàn công cộng và trật tự công cộng.
Trong tổng số tội phạm do người chưa thành niên thực hiện, tội danh trộm cắp tài sản chiếm tỷ lệ 38%, cố ý gây thương tích chiếm 11%, và đặc biệt, tội giết người chiếm 1,4%.
Các vụ vi phạm pháp luật và phạm tội do người chưa thành niên thực hiện xảy ra không chỉ ở thành phố mà còn ở vùng nông thôn, kể cả vùng sâu, vùng xa Tuy nhiên, tại các thành phố lớn có nền kinh tế phát triển mạnh, tỷ lệ thanh thiếu niên vi phạm pháp luật cao hơn và có xu hướng gia tăng nhanh chóng Hơn 70% các vụ án do vị thành niên gây ra tập trung ở đô thị, đặc biệt tại các tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, TP.HCM, Đồng Nai, Bình Định Nhóm này cũng có tỷ lệ tái phạm tội rất cao, khoảng 35%.
Theo số liệu từ Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, 71% trẻ vị thành niên phạm pháp do thiếu sự quan tâm và chăm sóc Nghiên cứu gần đây của Bộ Công an cũng cho thấy nguyên nhân phạm tội ở trẻ vị thành niên chủ yếu xuất phát từ vấn đề trong gia đình.
Trẻ vị thành niên phạm tội trộm cắp và cướp giật đang gia tăng đáng báo động Viện Tâm lý học đã thực hiện một nghiên cứu khoa học để phân tích nguyên nhân dẫn đến tình trạng này Kết quả cho thấy, ảnh hưởng từ gia đình là một trong những nguyên nhân chính khiến trẻ vị thành niên phạm pháp, chiếm một tỉ lệ không nhỏ trong các trường hợp vi phạm.
Cha mẹ làm sai, con làm theo
Người xưa tin rằng môi trường xung quanh ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của trẻ Để con cái trở thành thương nhân, cần sống gần chợ; để chúng yêu thích học hành, nên ở gần trường học Ngược lại, nếu gần gũi với những điều xấu, trẻ sẽ dễ dàng sa vào con đường tội lỗi Câu tục ngữ “Gần mực đen, gần đèn thì rạng” vẫn giữ nguyên giá trị giáo dục, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc lựa chọn môi trường sống cho sự hình thành nhân cách của trẻ.
Theo thống kê tội phạm học, 51,94% trẻ em phạm pháp xuất phát từ gia đình làm nghề buôn bán bất hợp pháp, trong khi 40% có người thân phạm tội hình sự Ngoài ra, 30% trẻ em có bố, mẹ hoặc cả hai nghiện hút Nhiều trường hợp, bố mẹ trực tiếp xúi giục con cái thực hiện hành vi bất chính, dẫn đến việc trẻ bỏ nhà ra đi, sống lang thang và trộm cắp Theo Viện Kiểm sát Nhân dân TP.Hà Nội, có 5% trẻ vị thành niên tham gia trộm cắp tài sản cùng với bố mẹ.
Trẻ em sống trong gia đình có bố mẹ hoặc người lớn hành vi thiếu văn hóa và lối sống vô đạo đức dễ coi thường pháp luật và bị lôi kéo vào tội phạm Những hành vi như cãi vã, đánh bạc, nghiện rượu, nghiện ma túy, buôn lậu, trộm cắp và tham ô có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý trẻ Tuy nhiên, những trẻ có ý chí kiên cường và lòng tự trọng cao sẽ có khả năng đánh giá đúng sai và tránh được những tác động xấu này.
Con hư do thiếu tình cảm cha mẹ
Nhiều bậc phụ huynh, dù có kiến thức và hiểu biết, vẫn không chú trọng đúng mức đến việc giáo dục con cái hoặc không có điều kiện để thực hiện điều này Một số cha mẹ ỷ lại vào nhà trường, trong khi những người khác lại bận rộn với công việc hoặc phải đi công tác dài hạn Thêm vào đó, tình trạng ly hôn, có con ngoài giá thú, hoặc việc một trong hai người qua đời cũng dẫn đến việc trẻ em bị bỏ rơi, thiếu thốn sự dạy dỗ và tình thương từ gia đình.
Những trẻ em thiếu sự chăm sóc và giáo dục sẽ phát triển tâm lý lệch lạc, có xu hướng nổi loạn và thậm chí thờ ơ với mọi thứ Chúng dễ bị lôi kéo vào các hành vi phạm tội khi gặp phải sự dụ dỗ từ bên ngoài.
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội
sự của người chưa thành niên phạm tội
Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015 đã quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự (TNHS) với tính chất giảm nhẹ hơn so với BLHS năm 1999, nhưng vẫn còn những điểm chưa hợp lý Cụ thể, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị truy cứu TNHS về các tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, dẫn đến khả năng bị xử lý cho bất kỳ tội phạm nào trong nhóm này Sự bất hợp lý này cần được xem xét từ nhiều khía cạnh khác nhau.
Về lý thuyết, để thực hiện mục đích chống lại chính quyền nhân dân, người phạm tội cần có ý thức giai cấp và ý thức chính trị rõ ràng Tuy nhiên, những người từ 14 đến dưới 16 tuổi thường có năng lực nhận thức hạn chế và ít kinh nghiệm sống, do đó không thể đáp ứng được yêu cầu này.
Việc thực hiện quyền đấu tranh chống các tội phản cách mạng và các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia đòi hỏi người phạm tội phải có ý thức chính trị rõ ràng Do đó, cần cân nhắc kỹ lưỡng về độ tuổi của họ Có những trường hợp, người từ 14 đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi phạm tội đặc biệt nguy hiểm nhưng chưa có ý thức chính trị rõ ràng sẽ không bị xử lý hình sự.
Một số tội phạm có đặc thù riêng liên quan đến chủ thể phạm tội, chẳng hạn như người có chức vụ quyền hạn, quân nhân hay người đã thành niên Do đó, người chưa thành niên từ 14 đến dưới 16 tuổi không thể có những đặc điểm này.
Dựa trên các phân tích đã nêu, chỉ nên quy định rằng người chưa thành niên từ 14 đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự đối với những hành vi mà họ có khả năng thực hiện.
Việc xác định tuổi của người chưa thành niên phạm tội là rất quan trọng trong việc xác định tội phạm và trách nhiệm hình sự (TNHS) của họ Độ tuổi chính xác của người phạm tội không chỉ ảnh hưởng đến việc khẳng định có phạm tội hay không, mà còn quyết định xem họ có phải chịu TNHS hay không.
Thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử chỉ ra rằng việc áp dụng quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự gặp nhiều vướng mắc cần được giải quyết lý luận.
Theo Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015, tuổi chịu trách nhiệm hình sự được xác định là tuổi tính tròn Tuy nhiên, cần làm rõ thời điểm tính tuổi cho những người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và 16 tuổi.
Khi chúng ta có đủ thông tin để xác định chính xác ngày tháng năm sinh, thường thông qua giấy khai sinh, việc tính tuổi sẽ trở nên đơn giản và không có gì phức tạp.
Hiện nay, thực tế đấu tranh phòng chống tội phạm cho thấy có nhiều trường hợp thiếu căn cứ xác định chính xác ngày, tháng, thậm chí năm sinh của những người chưa thành niên có hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Nghị quyết số 02 ngày 5-1-1986 của Hội đồng thẩm vấn TANDTC đã quy định rằng trong trường hợp không xác định được chính xác ngày sinh, ngày sinh sẽ được tính theo ngày cuối cùng của tháng, và nếu không xác định được tháng sinh, sẽ lấy ngày cuối cùng của năm sinh Quy định này thể hiện nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo.
Theo công văn số 81 ngày 10 tháng 6 năm 2002 của TANDTC, nguyên tắc xác định tuổi được cụ thể hóa cho từng trường hợp cụ thể.
Nếu chỉ xác định được tháng sinh mà không rõ ngày cụ thể, hãy lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh cho bị can hoặc bị cáo.
Nếu chỉ xác định được quý trong năm mà không biết ngày tháng cụ thể, thì ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó sẽ được coi là ngày sinh của bị can, bị cáo để xem xét trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên Trong trường hợp xác định được nửa năm đầu hay nửa năm cuối nhưng không rõ ngày tháng cụ thể, thì ngày 30 tháng 6 hoặc ngày 31 tháng 12 sẽ được lấy làm mốc thời gian.
31 tháng 12 tương ứng của năm đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo để xngười chưa thành niên xét TNHS đối với bị can, bị cáo
Các văn bản hướng dẫn hiện tại chỉ đề cập đến cách xác định mốc thời gian để tính tuổi chịu trách nhiệm hình sự (TNHS) khi không có đủ thông tin về ngày sinh, mà chưa giải quyết vấn đề tranh chấp năm sinh của người chưa thành niên phạm tội Thông thường, việc xác định năm sinh dựa vào kết quả giám định, với phần lớn trường hợp có thể xác định chính xác, trong khi những trường hợp phức tạp có độ sai số từ 1 đến 2 năm Đối với tháng sinh, một số trường hợp có kết quả chính xác, nhưng đa số chỉ xác định trong khoảng thời gian với sai số từ 3 đến 6 tháng Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa quy định rõ ràng về việc xác định tuổi TNHS dựa trên kết quả giám định với mức sai số này, dẫn đến việc áp dụng thường mang tính tùy nghi.