Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về tội phạm vị thành niên và tội phạm xâm hại trẻ em ở Việt Nam đã có nhiều công trình đáng chú ý, như luận văn thạc sĩ của Đặng Thị Thanh về hiệu quả công tác chống tội phạm xâm hại tình dục trẻ em (2001) và nghiên cứu của Dương Tuyết Miên về hậu quả tâm lý đối với nạn nhân hiếp dâm trẻ em (2005) Tuy nhiên, hiện nay chưa có nghiên cứu nào chuyên sâu về các đặc thù của tội xâm phạm tình dục trẻ em tại tỉnh Kon Tum, điều này cần được khắc phục để đưa ra các đề xuất sửa đổi và hoàn thiện biện pháp phòng ngừa hiệu quả.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp phân tích, chứng minh, kết hợp với phương pháp so sánh, tổng hợp…
Đối tượng nghiên cứu tập trung vào thực tiễn xét xử các tội xâm phạm tình dục, đặc biệt là tội hiếp dâm trẻ em, tại tỉnh Kon Tum.
Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích quy định của Bộ luật Hình sự 1999 liên quan đến xét xử tội hiếp dâm trẻ em tại Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Kon Tum trong khoảng thời gian 5 năm gần đây, từ năm 2011 đến 2016.
Ngoài lời nói đầu, phần nội dung, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo gồm ba chương đề tài được trình bày như sau:
Chương 1 Cơ sở pháp lý về xét xử tội hiếp dâm trẻ em
1.1 Khái niệm "trẻ em" trong pháp luật Việt Nam
1.2 Khái niệm các tội xâm phạm tình dục trẻ em
Bộ luật Hình sự hiện hành quy định rõ ràng về các tội xâm phạm tình dục trẻ em, trong đó tội hiếp dâm trẻ em được xác định với các khái niệm và dấu hiệu pháp lý cụ thể Tội phạm này không chỉ gây ra tổn thương nghiêm trọng cho nạn nhân mà còn vi phạm quyền lợi và sự bảo vệ của trẻ em trong xã hội Các dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm trẻ em bao gồm hành vi xâm hại tình dục, sự thiếu đồng thuận của trẻ em và độ tuổi của nạn nhân, từ đó tạo cơ sở cho việc xử lý nghiêm minh các hành vi xâm phạm này theo quy định của pháp luật.
1.5 Phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội hiếp dâm trẻ em
1.6 Ý nghĩa của việc quy định các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em
1.7 Lý do của việc ban hành BLHS năm 2015 các tội xâm phạm tình dục đối với trẻ em nói chung và tội Hiếp dâm trẻ em nói riêng
Chương 2 Tình hình tội phạm hiếp dâm trẻ em và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Kon Tum
2.1 Diễn biến của tình hình hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Kon Tum từ năm 2011- 2016
2.2 Thực tiễn xét xử tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Kon Tum
Chương 3 Một số kiến nghị, đề xuất
3.1 Dự báo tình hình tội Hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Kon Tum
3.2 Hệ thống giải pháp và kiến nghị
CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ XÉT XỬ TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM 1.1 KHÁI NIỆM "TRẺ EM" TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em Việt Nam xác định rằng trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi Điều này phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em được ban hành năm 1989, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền lợi và phát triển toàn diện cho trẻ em.
Việt Nam đã xác định rằng trẻ em là người dưới 18 tuổi, trừ khi luật pháp quy định tuổi thành niên sớm hơn Việc xác định một cá nhân có phải là trẻ em hay không còn phụ thuộc vào quy định pháp luật của từng quốc gia về độ tuổi trẻ em, cho thấy sự khác biệt trong luật pháp giữa các quốc gia.
Trong pháp luật Việt Nam, "trẻ em" được định nghĩa là những người dưới 16 tuổi, và họ là đối tượng được pháp luật bảo vệ Độ tuổi chịu trách nhiệm pháp lý của trẻ em có thể thay đổi tùy theo từng quan hệ pháp luật mà trẻ em tham gia Tuy nhiên, pháp luật luôn cam kết bảo vệ quyền lợi của trẻ em trước mọi hành vi xâm phạm.
1.2 KHÁI NIỆM CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM
Tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em được định nghĩa là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định thực hiện với lỗi cố ý Những hành vi này xâm hại đến quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và sự phát triển bình thường về mặt tâm sinh lý của trẻ em, cụ thể là những người dưới 16 tuổi.
1.3 QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM
Theo Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 thì kể từ ng y 01 tháng 01 năm
Năm 2018, một số bộ luật quan trọng đã có hiệu lực thi hành, bao gồm: Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13, đã được sửa đổi và bổ sung theo Luật số 12/2017/QH14; Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13; Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13; và Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13.
BLHS 2015 chưa có hiệu lực thi hành, vì vậy chúng ta vẫn dựa vào BLHS 1999 (BLHS hiện hành) để phân tích về tội xâm phạm tình dục, đặc biệt là tội hiếp dâm trẻ em.
Bộ luật Hình sự hiện hành đã kế thừa và phát triển từ Bộ luật Hình sự năm 1985, cụ thể hóa các quy định về tội phạm liên quan đến trẻ em, bao gồm Điều 112 - Tội hiếp dâm trẻ em và Điều 114 - Tội cưỡng dâm trẻ em.
Điều 115 quy định về tội giao cấu với trẻ em, Điều 116 quy định về tội dâm ô với trẻ em, và Điều 256 quy định về tội mua dâm người chưa thành niên Tội phạm có thể được phân loại thành ba trường hợp dựa trên thái độ của nạn nhân trong quan hệ tình dục: trái ý muốn (tội hiếp dâm trẻ em), miễn cưỡng (tội cưỡng dâm trẻ em), và thuận tình (bao gồm tội giao cấu với trẻ em, tội mua dâm người chưa thành niên và tội dâm ô người chưa thành niên).
1.4 KHÁI NIỆM, DẤU HIỆU PHÁP LÝ CỦA TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM
1.4.1 Khái niệm tội “Hiếp dâm trẻ em”
Hành vi sử dụng vũ lực, đe dọa vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ của nạn nhân để thực hiện giao cấu trái ý muốn với trẻ em từ 13 đến dưới 16 tuổi là hành vi vi phạm nghiêm trọng.
Trẻ em là một trong những đối tượng cần được chăm sóc v bảo vệ của gia đình,
Nhà nước và xã hội thực hiện nhiều biện pháp, bao gồm cả pháp luật, để bảo vệ trẻ em Theo Bộ luật Hình sự, các hành vi xâm phạm trẻ em được xem là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Đặc biệt, trong một số tội danh, hành vi xâm phạm trẻ em còn là yếu tố quyết định để định tội.
Trước hết, phải thỏa mãn một số điều kiện cấu thành của tội hiếp dâm quy định tại Điều 111, Bộ luật Hình sự
Một cá nhân sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực, hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ của nạn nhân để thực hiện hành vi giao cấu trái ý muốn của nạn nhân.
Theo quy định pháp luật, mặc dù không phân biệt giới tính của người thực hiện hành vi, thực tế xét xử cho thấy chỉ có nam giới thực hiện hành vi này đối với nạn nhân là trẻ em gái Trong khi đó, nữ giới chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự với vai trò đồng phạm.
Người phạm tội thực hiện một trong các hành vi