1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa nhìn từ pháp luật việt nam

38 36 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Trách Nhiệm Bồi Thường Thiệt Hại Trong Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa Nhìn Từ Pháp Luật Việt Nam
Tác giả Dương Nguyễn Diệu Huyền
Người hướng dẫn Châu Thị Ngọc Tuyết
Trường học Đại Học Đà Nẵng Phân Hiệu Đại Học Đà Nẵng Tại Kon Tum
Thể loại Báo Cáo Thực Tập Tốt Nghiệp
Năm xuất bản 2018
Thành phố Kon Tum
Định dạng
Số trang 38
Dung lượng 1,19 MB

Cấu trúc

  • 1. Tính cấp thiết của đề tài (6)
  • 2. Tình hình nghiên cứu đề tài (7)
  • 3. Mục đích nghiên cứu (7)
  • 4. Đối tượng nghiên cứu – Phạm vi nghiên cứu (7)
  • 5. Cơ sở lý luận – Phương pháp nghiên cứu (8)
  • 6. Kết cấu đề tài (8)
  • CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA (9)
    • 1.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA (9)
      • 1.1.1 Tổng quan về hoạt động mua bán hàng hóa (9)
      • 1.1.2 Hợp đồng mua bán hàng hóa (10)
      • 1.1.3 Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng (12)
    • 1.2 TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM (14)
    • 1.3 CĂN CỨ PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA (15)
      • 1.3.1 Có hành vi vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa (15)
      • 1.3.2 Có thiệt hại (17)
      • 1.3.3 Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng (21)
      • 1.3.4 Yếu tố lỗi đối với bồi thường thiệt hại trong hợp đồng (22)
    • 1.4 CÁC TRƯỜNG HỢP MIỄN TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI (23)
      • 1.4.1 Trường hợp miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng theo thỏa thuận (23)
      • 1.4.2 Trường hợp miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng do sự kiện bất khả kháng (24)
      • 1.4.3 Trường hợp miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng do lỗi của bên bị vi phạm (25)
      • 1.4.4 Trường hợp miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng do thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước (26)
  • CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM (27)
    • 2.1 THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHẾ ĐỊNH BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM (27)
      • 2.2.1 Thuận lợi (29)
      • 2.2.2 Khó khăn (30)
    • 2.3 KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM (31)
  • KẾT LUẬN (8)

Nội dung

Tính cấp thiết của đề tài

Khu vực hóa và toàn cầu hóa kinh tế đóng vai trò quan trọng trong thương mại quốc tế, thể hiện qua sự hợp tác kinh tế khu vực Sự hình thành và củng cố các liên kết kinh tế - thương mại khu vực cho thấy tinh thần hợp tác mạnh mẽ giữa các quốc gia Hợp tác này được hiểu là sự liên kết giữa các quốc gia dựa trên nguyên tắc bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau, trong đó các quốc gia thành viên tự nguyện gắn kết một phần chủ quyền kinh tế thông qua các điều ước quốc tế Các điều ước này thiết lập điều kiện lưu thông tự do giữa các quốc gia thành viên về hàng hóa, vốn, lao động và dịch vụ, tạo ra không gian kinh tế - thương mại chung Không gian này được tổ chức hợp lý nhằm hỗ trợ lẫn nhau về kinh tế - thương mại, giúp các quốc gia cùng phát triển và phồn thịnh.

Ngày nay, sự mở rộng của hoạt động giao thương buộc các quốc gia phải không chỉ giới hạn trong không gian nội địa mà còn vươn ra khu vực và toàn cầu để tận dụng lợi thế so sánh Sự gia tăng giao lưu quốc tế làm cho mối quan hệ thương mại trở nên phức tạp hơn, đặt ra thách thức lớn cho cả pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia.

Việt Nam, với nền kinh tế đang phát triển, không thể tránh khỏi những tác động từ quá trình toàn cầu hóa Từ giữa những năm 70, Việt Nam đã gia nhập nhiều tổ chức kinh tế quan trọng như SEV, ASEAN, APEC và WTO, cùng với việc ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) với hơn 80 quốc gia Mặc dù đạt được nhiều thành tựu trong việc ký kết các hiệp định quốc tế, Việt Nam vẫn đối mặt với thách thức trong việc hoàn thành các cam kết quốc tế Việc xây dựng pháp luật quốc gia về thương mại phù hợp với luật pháp quốc tế là ưu tiên hàng đầu, song cũng gặp nhiều khó khăn Sự phát triển mạnh mẽ trong hoạt động thương mại đã thúc đẩy sự thay đổi trong tư duy và áp dụng pháp luật, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt là trong các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng theo Bộ luật dân sự năm 2015 và Luật Thương mại năm 2005 Thực tế thực hiện hợp đồng thương mại, đặc biệt là hợp đồng mua bán hàng hóa, đã cho thấy những hạn chế và thiếu sót cần khắc phục.

Đề tài “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa – Nhìn từ pháp luật Việt Nam” được lựa chọn dựa trên ý nghĩa khoa học và thực tiễn tại công ty thực tập, nhằm phân tích trách nhiệm pháp lý liên quan đến vi phạm hợp đồng trong lĩnh vực mua bán hàng hóa.

Tình hình nghiên cứu đề tài

Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng là một chủ đề quan trọng, vừa mang tính lý luận vừa có giá trị thực tiễn, thu hút sự quan tâm của nhiều cá nhân và tổ chức Nhiều ấn phẩm đã được xuất bản để nghiên cứu vấn đề này, như “Giáo trình Luật hợp đồng thương mại quốc tế” của PGS.TS Dương Anh Sơn, PGS.TS Nguyễn Văn Luyện và TS Lê Thị Bích Thọ, “Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án” của Đỗ Văn Đại, và “Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” của Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.

Các ấn phẩm nghiên cứu cung cấp nhiều quan điểm khác nhau về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng, dựa trên quy định của pháp luật Việt Nam và các văn bản quốc tế Việc áp dụng các quy định này trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và nội địa nhằm xác định cách hiểu phù hợp, tiết kiệm thời gian và tối ưu hóa hoạt động thương mại.

Mục đích nghiên cứu

Mục tiêu chính của nghiên cứu này là nắm vững quy định và áp dụng pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại, đặc biệt là hợp đồng mua bán hàng hóa Nghiên cứu sẽ tiến hành so sánh các quy định nội địa với nhau và đối chiếu với các quy định quốc tế liên quan Từ đó, dựa trên lý luận và thực tiễn, đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật nhằm xây dựng chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa một cách toàn diện và chuyên nghiệp.

Cơ sở lý luận – Phương pháp nghiên cứu

Đề tài báo cáo thực tập nghiên cứu dựa trên hai cơ sở lý luận chính: Thứ nhất, pháp luật về hợp đồng và trách nhiệm do vi phạm hợp đồng theo Bộ luật dân sự năm 2015; Thứ hai, quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại theo Luật Thương mại năm 2005.

Ngoài các quy định pháp luật Việt Nam, việc tham khảo văn bản pháp luật quốc tế như Bộ nguyên tắc UNIDROIT 2004 và Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là cần thiết để có cái nhìn toàn diện và đánh giá phù hợp cho các quy định nội địa.

Phương pháp chủ yếu được sử dụng để nghiên cứu đề tài trên là:

Phương pháp so sánh luật học là một kỹ thuật quan trọng, cho phép phân tích và đối chiếu các quy định trong các văn bản luật khác nhau liên quan đến cùng một vấn đề Bằng cách này, người nghiên cứu có thể hiểu rõ hơn về sự khác biệt và tương đồng giữa các hệ thống pháp luật, cũng như tìm hiểu các quy định quốc tế liên quan đến vấn đề đó Việc áp dụng phương pháp này không chỉ giúp nâng cao kiến thức pháp lý mà còn hỗ trợ trong việc xây dựng và cải cách luật pháp hiệu quả hơn.

- Kết hợp lý luận và thực tiễn để phân tích tổng thể vấn đề dưới góc độ luật học

Kết cấu đề tài

Nội dung đề tài được cơ cấu thành 2 chương, với các nội dung sau:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong Hợp đồng mua bán hàng hóa

Chương 2: Thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng đối với hoạt động thương mại tại Việt Nam

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

1.1.1 Tổng quan về hoạt động mua bán hàng hóa

Hoạt động thương mại, theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các hoạt động từ đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ nhằm mục đích sinh lợi Hoạt động này được điều chỉnh bởi nhiều nguồn Luật như Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, và Luật Thương mại Tuy nhiên, theo Khoản 1 Điều 3 LTM 2005, hoạt động thương mại được định nghĩa hẹp hơn, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động sinh lợi khác Sự khác biệt giữa hai cách hiểu này nằm ở phạm vi thực hiện hoạt động thương mại; phạm vi càng rộng thì càng có nhiều nguồn luật điều chỉnh Mặc dù phạm vi hoạt động thương mại và các quy định pháp luật có sự khác biệt, tất cả đều hướng đến mục tiêu chung là sinh lợi.

Về lý luận, hoạt động thương mại được chia thành năm nhóm như sau 1 :

(i) nhóm hoạt động mua bán hàng hóa;

Nhóm hoạt động cung ứng dịch vụ bao gồm các dịch vụ đặc biệt, có tính chất vô hình và không thể lưu trữ Do đó, quá trình cung ứng và sử dụng dịch vụ diễn ra đồng thời.

Nhóm hoạt động trung gian thương mại bao gồm ít nhất ba bên tham gia, thể hiện hình thức ủy quyền Có bốn hình thức trung gian chủ yếu: đại diện thương mại, môi giới thương mại, ủy thác mua bán hàng hóa và đại lý thương mại.

Nhóm hoạt động xúc tiến thương mại bao gồm các hoạt động nhằm tăng cường mua bán hàng hóa và cung cấp dịch vụ, chẳng hạn như khuyến mại, quảng cáo, tổ chức hội chợ và triển lãm thương mại.

(v) nhóm hoạt động thương mại khác với các hoạt động sau: đấu giá hàng hóa, đấu thầu hàng hóa dịch vụ, nhượng quyền thương mại,…

Hoạt động thương mại có thể được phân loại thành hai lĩnh vực chính: mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ Trong đó, mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại truyền thống, chủ đạo và phổ biến nhất.

Theo Khoản 8 Điều 3 LTM 2005, mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại trong đó bên bán phải giao hàng và chuyển quyền sở hữu cho bên mua, đồng thời nhận thanh toán Bên mua có trách nhiệm thanh toán và nhận hàng cùng quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận.

1 Pháp luật thương mại về hàng hóa và dịch vụ, Đào Thị Thu Hằng (2015), NXB ĐHQG TP.HCM, tr 27-28

Chuyển quyền sở hữu từ bên bán sang bên mua diễn ra một cách trực tiếp, không thông qua hình thức chuyển quyền chiếm hữu hay sử dụng như thuê hoặc cho thuê hàng hóa.

Mua bán hàng hóa là một phần thiết yếu trong hoạt động thương mại, giữ vai trò độc lập nhưng không thể tách rời với các hoạt động khác Tính liên tục của nó xuất phát từ sự tương tác không ngừng giữa các bên từ sản xuất đến tiêu dùng Hoạt động này đã trở thành yếu tố quan trọng trong xã hội và sự phát triển của con người Để bảo vệ quyền lợi của các bên và thể hiện tinh thần trung thực trong giao dịch, hợp đồng mua bán hàng hóa ra đời là điều cần thiết.

1.1.2 Hợp đồng mua bán hàng hóa a Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa

Hợp đồng mua bán hàng hóa, mặc dù không được định nghĩa trong Luật Thương mại 2005, nhưng có thể hiểu là một dạng hợp đồng dân sự, thể hiện mối quan hệ mua bán giữa các bên Nó là sự thỏa thuận giữa các bên về việc thiết lập, điều chỉnh hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ liên quan đến giao dịch mua bán hàng hóa.

Hợp đồng mua bán hàng hóa là một dạng hợp đồng song vụ, trong đó quy định rõ quyền và nghĩa vụ của bên bán và bên mua Bên bán có trách nhiệm giao hàng, chuyển quyền sở hữu và nhận thanh toán, trong khi bên mua phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán, nhận hàng và có quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận Hợp đồng này còn có một số đặc điểm đáng chú ý khác.

(i) Chủ thể thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa

Chủ thể hợp đồng mua bán hàng hóa theo Luật Thương mại 2005 bao gồm thương nhân, tổ chức và cá nhân hoạt động thương mại Luật này điều chỉnh các hoạt động thương mại nhằm mục đích sinh lợi, nhưng cũng cho phép bên không nhằm mục đích sinh lợi chọn luật áp dụng để bảo vệ quyền lợi của mình trong hợp đồng mua bán hàng hóa Do đó, chủ thể thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa rất đa dạng và rộng rãi.

(ii) Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa

2 Pháp luật thương mại về hàng hóa và dịch vụ, Đào Thị Thu Hằng (2015), NXB ĐHQG TP.HCM, tr 41

3 Điều 385 BLDS 2015: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền, nghĩa vụ dân sự”

4 Khoản 1 Điều 402 BLDS 2015: “Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau”

Theo Khoản 1 Điều 6 của Luật Thương mại 2005, thương nhân được định nghĩa là tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp hoặc cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.

Hàng hóa là sản phẩm lao động do con người tạo ra, phục vụ cho việc trao đổi và mua bán nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội Do đó, hàng hóa đóng vai trò quan trọng trong hoạt động thương mại và mua bán.

Theo LTM 1997, hàng hóa được phân chia thành động sản và bất động sản, bao gồm máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng và các động sản khác lưu thông trên thị trường Cụ thể, động sản gồm các loại hàng hóa như máy móc và nguyên liệu, trong khi bất động sản đề cập đến nhà ở dùng cho mục đích kinh doanh như cho thuê, mua, bán Mặc dù hoạt động mua bán hàng hóa đã có nhiều tiến triển, nhưng pháp luật vẫn chỉ điều chỉnh những đối tượng hàng hóa quen thuộc, dẫn đến việc quy định hàng hóa còn hạn chế và đơn giản.

Ngày nay, hoạt động mua bán hàng hóa ngày càng hiện đại và phức tạp, không chỉ đơn thuần theo quy định của LTM 1997 Hàng hóa được chia thành động sản và bất động sản, với LTM 2005 mở rộng định nghĩa bao gồm tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai, cùng với những vật gắn liền với đất đai Quy định tại LTM 2005 đã được hoàn thiện hơn, khái quát hóa hàng hóa và loại trừ các loại hàng hóa hạn chế kinh doanh, hàng hóa cấm kinh doanh và hàng hóa kinh doanh có điều kiện Sự đồng bộ giữa LTM 2005 và BLDS 2015 thể hiện qua việc công nhận động sản hình thành trong tương lai là hàng hóa được phép trao đổi, mua bán trên thị trường, góp phần tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

(iii) Mục đích của hợp đồng mua bán hàng hóa

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

- Khái niệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa

Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng được quy định bởi hai văn bản quan trọng trong thương mại quốc tế là Công ước Viên 1980 và Bộ nguyên tắc UNIDROIT 2004 Theo Điều 74 của Công ước Viên 1980, bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng bao gồm tổn thất và lợi nhuận bị mất mà bên bị vi phạm phải chịu Tương tự, Bộ nguyên tắc UNIDROIT 2004 tại Điều 7.4.1 cũng quy định quyền đòi bồi thường thiệt hại trong trường hợp vi phạm hợp đồng.

Việc không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng dẫn đến quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại cho bên bị vi phạm, cho phép họ yêu cầu bồi thường hoặc áp dụng các biện pháp khắc phục khác Quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại trong hợp đồng bị ảnh hưởng bởi hành vi vi phạm và thiệt hại phát sinh từ vi phạm đó.

Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng là trách nhiệm tài chính mà bên vi phạm phải chịu khi không thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận, dẫn đến hậu quả bất lợi cho bên bị vi phạm Nội dung này được công nhận và thống nhất bởi nhiều quốc gia trên thế giới.

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 302 LTM 2005 và Điều 360 BLDS 2015, bên vi phạm hợp đồng phải bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra cho bên bị vi phạm Cả hai bộ luật đều nhất quán trong việc yêu cầu bồi thường toàn bộ thiệt hại từ vi phạm hợp đồng hoặc nghĩa vụ Quy định này không chỉ phản ánh quan điểm của Việt Nam mà còn tương đồng với các văn bản quốc tế như Công ước Viên 1980 và Bộ nguyên tắc UNIDROIT 2004 về thương mại quốc tế.

15 Điều 74 Công Ước Viên 1980 (CISG)

16 Điều 7.4.1 Bộ Nguyên tắc UNIDROIT 2004 về hợp đồng thương mại quốc tế

CĂN CỨ PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng được xác định dựa trên ba căn cứ chính: (i) sự tồn tại của hành vi vi phạm hợp đồng; (ii) thiệt hại thực tế xảy ra do hành vi vi phạm đó; và (iii) mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại.

Theo Bộ luật Dân sự 2015 của Việt Nam, Công ước Viên 1980 và Bộ nguyên tắc UNIDROIT 2004 không quy định cụ thể về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại Tuy nhiên, Luật Thương mại 2005 có quy định rõ tại Điều 303 rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ ba yếu tố: hành vi vi phạm hợp đồng, thiệt hại thực tế và hành vi vi phạm là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại Quy định này giúp dễ dàng tra cứu và tiết kiệm thời gian trong việc áp dụng các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.

1.3.1 Có hành vi vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa

Hành vi vi phạm hợp đồng là điều kiện tiên quyết để áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại, và chỉ xảy ra khi hợp đồng đã được giao kết hợp pháp và có hiệu lực pháp luật.

Theo pháp luật Việt Nam, hợp đồng mua bán hàng hóa chỉ được coi là hợp pháp khi đáp ứng các điều kiện tại Điều 117 BLDS 2015, bao gồm: các bên có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự; hợp đồng được ký kết tự nguyện, không có sự cưỡng ép hay lừa dối; mục đích và nội dung không vi phạm pháp luật và đạo đức xã hội; hình thức hợp đồng có thể là văn bản, lời nói hoặc hành vi cụ thể tùy thuộc vào tính chất hàng hóa Đối với các hàng hóa đặc biệt như hàng hóa cấm kinh doanh, hàng hóa hạn chế hoặc có điều kiện, cần tuân thủ quy định tại Nghị định số 19/VBHN-BCT Nếu hợp đồng không đáp ứng đầy đủ các điều kiện này, nó sẽ bị vô hiệu và không phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên, do đó, việc xác định hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa là rất quan trọng trong việc đánh giá hành vi vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại.

Hành vi vi phạm hợp đồng có thể biểu hiện qua hành động như gửi hàng trước thời hạn hoặc không hành động như không thanh toán tiền mua hàng, đều không tuân thủ nghĩa vụ hợp đồng Nghĩa vụ này không chỉ dựa trên thỏa thuận giữa các bên mà còn phải tuân theo các quy định pháp luật liên quan Các quy định pháp luật này bao gồm cả những quy định bắt buộc và các quy định tùy nghi.

17 Giáo trình Pháp luật về thương mại hàng hóa và dịch vụ, Đại học Luật TP.HCM, 2014, tr 401

Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, khái niệm vi phạm hợp đồng được quy định chủ yếu qua Bộ luật Dân sự 2015 và Luật Thương mại 2005 Theo Khoản 1 Điều 351 Bộ luật Dân sự 2015, vi phạm nghĩa vụ là hành vi không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc không đúng nghĩa vụ Tương tự, Khoản 12 Điều 3 Luật Thương mại 2005 cũng định nghĩa vi phạm hợp đồng là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc không đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận Điều này cho thấy sự thống nhất trong cách hiểu về vi phạm hợp đồng giữa hai nguồn luật, nhấn mạnh hành vi không thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận Thêm vào đó, Luật Thương mại 2005 còn quy định chi tiết về vi phạm cơ bản.

Vi phạm cơ bản được định nghĩa trong Điều 3 của LTM 2005 là hành vi vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia, đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của hợp đồng Quy định này phù hợp và thể hiện sự khác biệt trong điều kiện áp dụng các hình thức trách nhiệm pháp lý.

Vi phạm hợp đồng là một khái niệm đã được công nhận rộng rãi, nhưng việc phân loại mức độ vi phạm để áp dụng trách nhiệm phù hợp vẫn là một thách thức, tạo ra sự khác biệt giữa các hệ thống pháp luật toàn cầu Trong pháp luật Anh, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại ngay cả khi không có thiệt hại xảy ra Ngược lại, pháp luật Pháp cho phép bên bị vi phạm lựa chọn giữa việc yêu cầu thực hiện hợp đồng hoặc hủy hợp đồng, với ưu tiên là thực hiện hợp đồng Nếu bên bị vi phạm chọn hủy hợp đồng, thì quyền yêu cầu thực hiện hợp đồng sẽ không được xem xét lại.

Công ước Viên 1980 không định nghĩa rõ ràng về vi phạm hợp đồng, nhưng từ các quy định liên quan, vi phạm hợp đồng được hiểu là việc không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng Đặc biệt, vi phạm cơ bản, hay còn gọi là vi phạm chủ yếu theo pháp luật Việt Nam, được quy định tại Điều 25.

Hành vi vi phạm hợp đồng được coi là chủ yếu khi nó gây thiệt hại cho bên kia, làm cho bên bị thiệt hại mất đi những quyền lợi mà họ đáng lẽ được hưởng theo hợp đồng Do đó, mong muốn chính đáng và mục tiêu cốt lõi mà các bên kỳ vọng từ hợp đồng là tiêu chí quan trọng để xác định tính chất cơ bản của vi phạm hợp đồng.

Không chỉ toàn diện về hành vi vi phạm hợp đồng mà Bộ nguyên tắc UNIDROIT

Năm 2004 đã đưa ra các tiêu chí cụ thể để xác định sự vi phạm cơ bản trong hợp đồng Hành vi vi phạm hợp đồng được định nghĩa là việc không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, theo Điều 7.1.1, bao gồm cả việc thực hiện không đúng hoặc thực hiện chậm trễ.

18 Điều 25 Công Ước Viên 1980 (CISG)

19 Điều 7.1.1 bộ nguyên tắc UNIDROIT 2004 về hợp đồng thương mại quốc tế

12 không thực hiện của Bộ nguyên tắc UNIDROIT 2004 bao gồm tính “phù hợp”, “đủ” và

Việc vi phạm nghĩa vụ hợp đồng sẽ được xem là hành vi vi phạm, theo Bộ nguyên tắc UNIDROIT 2004, tương tự như LTM 2005 và Công ước Viên 1980, phân chia vi phạm thành hai loại: vi phạm cơ bản và vi phạm không cơ bản Vi phạm cơ bản được xác định dựa trên các yếu tố như: việc không thực hiện khiến bên có quyền mất đi điều mong muốn theo hợp đồng, trừ khi bên vi phạm không thể dự tính hậu quả; nghĩa vụ không thực hiện là bản chất của hợp đồng; hành vi vi phạm là cố ý hoặc bất cẩn; bên có quyền có lý do để không tin vào sự thực hiện hợp đồng trong tương lai; và nếu hủy hợp đồng, bên vi phạm sẽ phải chịu tổn thất vượt quá do việc chuẩn bị hoặc thực hiện hợp đồng.

Vi phạm hợp đồng được định nghĩa là hành vi khiến bên bị vi phạm không đạt được mục tiêu mong muốn từ hợp đồng Bộ nguyên tắc UNIDROIT 2004 mở rộng khái niệm này bằng cách xem xét bản chất hợp đồng, hành vi cố ý hay bất cẩn, cũng như mức độ thiệt hại và khả năng hoàn thành nghĩa vụ của bên vi phạm Mặc dù sự nghiêm trọng của hành vi vi phạm có thể không đáng kể, nhưng trong hợp đồng mua bán hàng hóa, các yêu cầu về tuân thủ nghiêm ngặt vẫn rất quan trọng, đặc biệt là ở thời điểm giao hàng Việc thực hiện hợp đồng đòi hỏi tinh thần trung thực và thiện chí, trong khi hành vi cố ý không thực hiện hoặc thiếu cẩn trọng trong nghĩa vụ là điều không thể chấp nhận trong giao dịch mua bán hàng hóa, cả trong nước lẫn quốc tế.

BLDS 2015 quy định về vi phạm hợp đồng một cách chung chung và thiếu rõ ràng, trong khi LTM 2005, Công ước Viên 1980 và Bộ nguyên tắc UNIDROIT 2004 đều thống nhất quan điểm rằng bất kỳ hành vi vi phạm nghĩa vụ nào trong hợp đồng, dù là nghĩa vụ chính hay phụ, đều có thể dẫn đến quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại từ bên bị vi phạm Cách quy định về vi phạm cũng tương đồng khi nhấn mạnh rằng việc không đạt được điều mong muốn do vi phạm hợp đồng là căn cứ để xác định trách nhiệm.

Việc xác định "chủ yếu" của vi phạm rất quan trọng, vì nó ảnh hưởng đến mức độ bồi thường thiệt hại và hình thức trách nhiệm được áp dụng tương ứng với từng loại vi phạm.

CÁC TRƯỜNG HỢP MIỄN TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI

Hợp đồng mua bán hàng hóa ràng buộc quyền và nghĩa vụ giữa các bên, với việc bên vi phạm có trách nhiệm bồi thường thiệt hại Tuy nhiên, bên vi phạm có thể đưa ra bằng chứng để chứng minh sự vi phạm cần được bảo vệ theo pháp luật Theo Khoản 1 Điều 294 LTM 2005, có bốn trường hợp được miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại: (i) Trường hợp miễn trách nhiệm đã thỏa thuận; (ii) Sự kiện bất khả kháng; (iii) Hành vi vi phạm do lỗi của bên kia; (iv) Hành vi vi phạm do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước mà các bên không thể biết khi giao kết hợp đồng.

1.4.1 Trường hợp miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng theo thỏa thuận

Điểm a Khoản 1 Điều 294 LTM 2005 khẳng định nguyên tắc tự do hợp đồng, cho phép các bên tự thỏa thuận về việc miễn trách nhiệm khi có hành vi vi phạm hợp đồng Điều này hợp lý vì chỉ các bên liên quan mới hiểu rõ giao dịch của mình Thỏa thuận miễn trách nhiệm có thể được ghi nhận ngay trong hợp đồng hoặc dưới dạng văn bản không tách rời, như phụ lục hợp đồng, tuy nhiên cần lưu ý đến các thỏa thuận khác trong hợp đồng để đảm bảo tính hợp lệ.

34 Giáo trình Pháp luật về thương mại hàng hóa và dịch vụ, Sđd, tr 429-433

19 loại trừ hoặc bác bỏ hiệu lực của phụ lục hoặc mâu thuân với nội dung của thỏa thuận miễn trừ đã lập tại phụ lục

Thỏa thuận miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại là yếu tố quan trọng trong hợp đồng mua bán hàng hóa, thể hiện tính hiệu quả của giao dịch Hình thức của thỏa thuận này có thể là văn bản, lời nói hoặc hành vi cụ thể, tùy thuộc vào từng trường hợp Nếu thỏa thuận miễn trừ được thiết lập bằng lời nói hoặc hành vi, các bên cần lưu ý rằng bất kỳ yêu cầu nào sau đó cần phải được lập thành văn bản và có xác nhận của cả hai bên để đảm bảo hiệu lực Việc tuân thủ quy định này rất quan trọng, vì nó ảnh hưởng đến giá trị của thỏa thuận miễn trừ và quyền lợi của các bên khi có tranh chấp xảy ra.

Quy định pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho các bên tham gia hợp đồng, nhưng để đảm bảo an toàn và thỏa mãn trong hợp đồng mua bán hàng hóa, các bên nên lập thỏa thuận miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại bằng văn bản, có chữ ký xác nhận Việc này giúp tránh khó khăn về thời gian và công sức khi tranh chấp xảy ra, vì việc chứng minh sự tồn tại của thỏa thuận miễn trừ trách nhiệm bằng lời nói hoặc hành vi cụ thể thường không dễ dàng.

1.4.2 Trường hợp miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng do sự kiện bất khả kháng

Theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 294 LTM 2005 và Khoản 1 Điều 156 BLDS 2015, bên vi phạm nghĩa vụ sẽ được miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu xảy ra sự kiện bất khả kháng Việc miễn trách nhiệm này được quy định bởi pháp luật, nhằm điều chỉnh các tình huống phát sinh liên quan đến sự kiện bất khả kháng.

Khái niệm bất khả kháng

Theo Khoản 1 Điều 156 BLDS 2015, sự kiện bất khả kháng được định nghĩa là sự kiện xảy ra một cách khách quan, không thể lường trước và không thể khắc phục, mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết Để được công nhận là sự kiện bất khả kháng, sự kiện đó phải đáp ứng các tiêu chí cụ thể theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015.

Sự kiện khách quan là những tình huống nằm ngoài khả năng kiểm soát của bên có nghĩa vụ trong hợp đồng Những sự kiện này có thể là thiên tai như bão, lũ lụt, động đất, sóng thần, hoặc các sự kiện chính trị, xã hội như chiến tranh, xung đột vũ trang, nội chiến, đình công Tất cả những yếu tố này xảy ra một cách khách quan, ảnh hưởng đến khả năng thực hiện nghĩa vụ hợp đồng.

Sự kiện không lường trước được là yếu tố quan trọng trong hợp đồng, được đánh giá tại thời điểm giao kết hoặc trong quá trình ký kết trước khi xảy ra vi phạm Các bên trong hợp đồng không bị yêu cầu lường trước sự kiện vượt quá khả năng của họ.

Hậu quả của sự kiện bất khả kháng là không thể khắc phục, ngay cả khi bên vi phạm đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong khả năng của mình Điều kiện này bao gồm hai nội dung: (i) bên vi phạm đã thực hiện tất cả các biện pháp cần thiết và (ii) hậu quả có thể khắc phục được hay không khi áp dụng các biện pháp đó Nếu bên vi phạm nhận thấy rằng hậu quả vẫn không thể khắc phục dù đã áp dụng các biện pháp, thì việc không hành động có thể được xem là vi phạm điều kiện của sự kiện bất khả kháng Nội dung thứ hai, tức là không thể khắc phục hậu quả, là yếu tố quyết định trong điều kiện này Yêu cầu bên vi phạm thực hiện các biện pháp cần thiết nhằm chứng minh rằng hậu quả không thể khắc phục, vì nếu có thể khắc phục thì không được coi là sự kiện bất khả kháng Đồng thời, việc áp dụng các biện pháp cần thiết cũng thể hiện thiện chí của bên vi phạm trong việc giảm thiểu thiệt hại cho bên bị vi phạm.

Theo Khoản 1 Điều 79 Công ước Viên 1980, một bên không phải chịu trách nhiệm về việc không thực hiện nghĩa vụ nếu họ chứng minh rằng sự không thực hiện đó do trở ngại khách quan ngoài tầm kiểm soát của mình, và họ không thể lường trước hoặc tránh được hậu quả của trở ngại đó khi ký kết hợp đồng Tương tự, Khoản 1 Điều 7.1.7 Bộ nguyên tắc UNIDROIT 2004 cũng quy định nội dung tương tự về trách nhiệm của các bên trong trường hợp gặp phải trở ngại khách quan.

Như vậy, chỉ khi nào một sự kiện đáp ứng cả ba điều kiện là có “tính khách quan”,

Khi đã áp dụng các biện pháp cần thiết, bên vi phạm chỉ có thể sử dụng lý do “không thể lường trước được” và “không thể khắc phục hậu quả” để miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

1.4.3 Trường hợp miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng do lỗi của bên bị vi phạm

Yếu tố lỗi không phải là điều kiện bắt buộc để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, nhưng lại có vai trò quan trọng trong việc xác định miễn trách nhiệm bồi thường theo Điểm c Khoản 1 Điều 294 LTM 2005, khi đây là một trong những trường hợp được quy định cho bên vi phạm hợp đồng.

Trong trường hợp miễn trừ trách nhiệm bồi thường, hành vi có lỗi của bên bị vi phạm là yếu tố quyết định để miễn trách nhiệm cho bên vi phạm Hành vi có lỗi có thể là hành động hoặc không hành động Chẳng hạn, trong hợp đồng mua bán hàng hóa giữa A (mua) và B (bán), nếu A không thanh toán đúng hạn, dẫn đến B giao hàng chậm, thì mặc dù B vi phạm hợp đồng, nhưng nguyên nhân là do lỗi của A Tuy nhiên, nếu vi phạm của B thuộc các trường hợp miễn trừ khác như thỏa thuận giữa hai bên, sự kiện bất khả kháng, hoặc tuân theo quyết định của cơ quan nhà nước, thì B vẫn có thể được miễn trách nhiệm.

35 Khoản 1 điều 79 Công Ước Viên 1980

Trong trường hợp có 21 nước có thẩm quyền, bên bị vi phạm sẽ không bị coi là có lỗi Do đó, bên vi phạm sẽ không được xem xét miễn trừ trách nhiệm liên quan đến vi phạm hợp đồng.

1.4.4 Trường hợp miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng do thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước

Miễn trách nhiệm do thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 294 LTM 2005, được xem là một sự kiện bất khả kháng nhưng có tính chất đặc thù, tách biệt với các trường hợp bất khả kháng khác Tính chất này thể hiện ở việc bên có nghĩa vụ phải tuân thủ quyết định của cơ quan nhà nước mà không cần xem xét tính hợp pháp của quyết định, trừ khi sự bất hợp pháp được công nhận rõ ràng và rộng rãi.

THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM

Ngày đăng: 28/08/2021, 11:40

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w