1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Nghiên cứu tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

225 3 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghiên Cứu Tác Động Của Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Đến Kết Quả Hoạt Động Của Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
Tác giả Đỗ Thanh Hương
Người hướng dẫn PGS, TS. Nguyễn Văn Minh, PGS, TS. Nguyễn Thị Mùi
Trường học Trường Đại Học Thương Mại
Chuyên ngành Tài Chính - Ngân Hàng
Thể loại Luận Án Tiến Sĩ Kinh Tế
Năm xuất bản 2021
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 225
Dung lượng 4,26 MB

Cấu trúc

  • 1. Sự cần thiết của vấn đề nghiên cứu (11)
  • 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu (13)
  • 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu (13)
  • 4. Hướng tiếp cận nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu (14)
  • 5. Đóng góp của luận án (18)
  • 6. Kết cấu của luận án (18)
  • CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU (19)
    • 1.1. Tình hình nghiên cứu ở các quốc gia trên thế giới (19)
      • 1.1.1. Nghiên cứu tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả tài chính của ngân hàng (19)
      • 1.1.2. Nghiên cứu tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả phi tài chính của ngân hàng (28)
    • 1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam (30)
    • 1.3. Khoảng trống nghiên cứu (32)
  • CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ ĐẾN KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG (34)
    • 2.1. Tổng quan về dịch vụ ngân hàng điện tử (34)
      • 2.1.1. Khái niệm dịch vụ ngân hàng điện tử (34)
      • 2.1.2. Vai trò của dịch vụ ngân hàng điện tử (37)
      • 2.1.3. Ưu điểm và hạn chế của dịch vụ ngân hàng điện tử (39)
      • 2.1.4. Các kênh phân phối dịch vụ ngân hàng điện tử (45)
      • 2.1.5. Một số dịch vụ ngân hàng điện tử (49)
      • 2.1.6. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của dịch vụ ngân hàng điện tử (54)
    • 2.2. Đánh giá kết quả hoạt động của ngân hàng (57)
      • 2.2.1. Khung xếp hạng hoạt động ngân hàng CAMELS (57)
      • 2.2.2. Một số tiêu chí đánh giá kết quả hoạt động của ngân hàng (61)
    • 2.3. Tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động ngân hàng (67)
      • 2.3.1. Tác động đến kết quả tài chính của ngân hàng (67)
      • 2.3.2. Tác động đến kết quả phi tài chính của ngân hàng (71)
    • 2.4. Kinh nghiệm quốc tế trong phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử hướng tới mô hình ngân hàng số nhằm nâng cao kết quả hoạt động ngân hàng (78)
      • 2.4.1. Về định danh số và xây dựng hệ sinh thái số (78)
      • 2.4.2. Về đảm bảo an toàn bảo mật (81)
      • 2.4.3. Về tăng cường nguồn lực tài chính ngân hàng (83)
      • 2.4.4. Về đổi mới hệ thống ngân hàng (84)
  • CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM (86)
    • 3.1. Một số chính sách và quy định pháp luật của Việt Nam về dịch vụ ngân hàng điện tử (86)
    • 3.2. Kết quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2014- (89)
      • 3.2.1. Một số kết quả tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam (89)
      • 3.2.2. Một số kết quả phi tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam (100)
    • 3.3. Thực trạng phát triển ngân hàng điện tử tại các ngân hàng thương mại Việt nam.93 1. Hạ tầng thanh toán điện tử của các ngân hàng thương mại Việt Nam (103)
      • 3.3.2. Giá trị giao dịch qua các kênh phân phối điện tử tại các ngân hàng thương mại Việt Nam ........................................................................................................... 99 3.3.3. Đánh giá chung thực trạng phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam 104 (109)
    • 4.1. Đánh giá tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam (123)
      • 4.1.1. Xây dựng mô hình đánh giá tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam (123)
      • 4.1.2. Kết quả mô hình ước lượng đánh giá tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử tới kết quả tài chính của ngân hàng (135)
    • 4.2. Đánh giá tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử tới các kết quả hoạt động phi tài chính của ngân hàng (143)
      • 4.2.1. Phương pháp phỏng vấn chuyên gia (144)
      • 4.2.2. Đối tượng và phương thức phỏng vấn (145)
      • 4.2.3. Kết quả phỏng vấn (145)
    • 4.3. Đánh giá chung tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động các ngân hàng thương mại Việt Nam (149)
      • 4.3.1. Tác động tích cực của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động ngân hàng 139 (149)
      • 4.3.2. Một số tác động hạn chế khi triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động ngân hàng (150)
  • CHƯƠNG 5: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ (152)
    • 5.1. Bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và định hướng số hóa ngành ngân hàng tại Việt Nam (152)
      • 5.1.1. Bối cảnh cách mạnh công nghiệp 4.0 (152)
      • 5.1.2. hóa Số ngành ngân hàng Việt Nam trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (0)
    • 5.2. Giải pháp phát huy tác động tích cực và giảm thiểu hạn chế trong triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động các NHTM Việt Nam (157)
      • 5.2.1. Giải pháp phát huy tác động tích cực của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động ngân hàng (157)
    • 5.3. Kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan quản lý Nhà nước (166)
      • 5.3.1. Kiến nghị về kiện toàn hệ thống pháp luật (166)
      • 5.3.2. Kiến nghị về phát triển thanh toán không dùng tiền mặt (167)
      • 5.3.3. Kiến nghị về hạ tầng công nghệ thông tin và thanh toán quốc gia (168)
      • 5.3.4. Kiến nghị về xây dựng cơ sở dữ liệu số quốc gia (170)
  • KẾT LUẬN (172)

Nội dung

Nghiên cứu tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam.Nghiên cứu tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam.Nghiên cứu tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam.Nghiên cứu tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam.Nghiên cứu tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

Sự cần thiết của vấn đề nghiên cứu

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang biến đổi mạnh mẽ ngành tài chính ngân hàng, khiến đây trở thành lĩnh vực tiên phong trong làn sóng cách mạng Trong bối cảnh các tổ chức tài chính đang nỗ lực phục hồi sau khủng hoảng, sự xuất hiện của các công ty công nghệ tài chính (Fintech) đã tạo ra thách thức lớn khi cạnh tranh trực tiếp với các ngân hàng Để đối phó với sự phát triển nhanh chóng của các dịch vụ tài chính điện tử từ Fintech, các ngân hàng thương mại buộc phải đổi mới mô hình kinh doanh, nâng cao tính cạnh tranh và áp dụng công nghệ hiện đại, nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán, đầu tư và các dịch vụ tài chính trong nền kinh tế số.

Trong bối cảnh nền kinh tế số, xu thế số hóa ngân hàng đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu Nhiều ngân hàng đã triển khai thành công mô hình ngân hàng số, trong khi hầu hết còn lại đang ở các giai đoạn chuyển đổi khác nhau Tại Việt Nam, các ngân hàng chủ yếu đang ở giai đoạn đầu của chuyển đổi số, tập trung vào phát triển dịch vụ ngân hàng ứng dụng kỹ thuật số, ngân hàng điện tử và ngân hàng qua mạng Việc phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại các ngân hàng thương mại hiện nay là một bước tiến quan trọng hướng tới mô hình ngân hàng số.

Các ngân hàng thương mại tại Việt Nam đang tích cực phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử để cung cấp giải pháp ngân hàng hiện đại và công nghệ cao cho cả khách hàng tổ chức và cá nhân Dịch vụ này đã được triển khai từ năm 2002 với các hình thức cơ bản như máy rút tiền ATM và máy thanh toán thẻ POS, nhưng chỉ thực sự phát triển mạnh mẽ khi Internet trở nên phổ biến, tạo nền tảng cho ngân hàng trực tuyến Đến năm 2004, sự bùng nổ của dịch vụ ngân hàng điện tử đã bắt đầu hình thành.

Vietcombank là ngân hàng tiên phong tại Việt Nam trong việc cung cấp dịch vụ ngân hàng trực tuyến Sau hơn 15 năm phát triển, hiện có 78 tổ chức tín dụng tại Việt Nam cung cấp dịch vụ thanh toán qua Internet, trong đó 47 ngân hàng thương mại đã triển khai dịch vụ thanh toán di động vào năm 2019 Các ngân hàng đang tích hợp nhiều tính năng thanh toán trên thẻ để phục vụ cho việc mua sắm trực tuyến, thanh toán tiền điện nước và dịch vụ bưu chính viễn thông, đồng thời nghiên cứu hợp tác với các công ty công nghệ để ứng dụng các công nghệ tiên tiến như nhận diện khuôn mặt, sinh trắc vân tay và mã phản hồi nhanh trong thanh toán.

Dịch vụ ngân hàng điện tử đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội, góp phần thúc đẩy hội nhập quốc tế Khách hàng được hưởng lợi từ nhiều lựa chọn với tính tiện ích cao và chi phí thấp hơn so với ngân hàng truyền thống Đồng thời, các ngân hàng thương mại cũng thu hút thêm khách hàng giá trị cao, đa dạng hóa các loại hình dịch vụ.

Dịch vụ ngân hàng điện tử (SP - DV) không chỉ thúc đẩy hoạt động huy động vốn và cho vay mà còn góp phần xây dựng hình ảnh ngân hàng, từ đó gia tăng doanh thu và tiết kiệm chi phí Nhiều nghiên cứu đã chứng minh những tác động tích cực của dịch vụ này, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế số Tuy nhiên, vẫn có những nghiên cứu chỉ ra rằng sự xuất hiện của dịch vụ ngân hàng điện tử trong giai đoạn đầu chưa thực sự tạo ra ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động của ngân hàng.

Nghiên cứu về ảnh hưởng của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam đang thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học Đề tài luận án tiến sỹ của tôi nhằm đánh giá tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử, sử dụng cả phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính Mục tiêu là xác định những ảnh hưởng tích cực và hạn chế của dịch vụ này, từ đó đề xuất giải pháp thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng trong bối cảnh số hóa hiện nay.

Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá ảnh hưởng của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp để tối ưu hóa những tác động tích cực của dịch vụ này.

(i)Tổng quan lý thuyết về dịch vụ NHĐT, đặc điểm dịch vụ NHĐT, các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của dịch vụ NHĐT.

Dịch vụ ngân hàng đầu tư (NHĐT) đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện kết quả hoạt động (KQHĐ) của các ngân hàng trên toàn cầu, bao gồm cả Việt Nam Nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm cho thấy rằng NHĐT không chỉ tăng cường khả năng tài chính mà còn nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro và tối ưu hóa lợi nhuận Các ngân hàng áp dụng dịch vụ NHĐT thường đạt được sự tăng trưởng bền vững và cải thiện vị thế cạnh tranh trên thị trường.

(iii) Lựa chọn và xây dựng mô hình đánh giá tác động của dịch vụ NHĐT tới KQHĐ của các NHTM Việt Nam.

(iv)Phân tích, đánh giá tác động của dịch vụ NHĐT đến KQHĐ các NHTM Việt Nam bằng các phương pháp định lượng và định tính.

Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế là cần thiết để đề xuất các giải pháp chiến lược cho các ngân hàng thương mại (NHTM) Những giải pháp này nhằm phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT).

Hướng tiếp cận nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu

Quy trình nghiên cứu của luận án bắt đầu bằng việc xác định mục tiêu nghiên cứu, tiếp theo là tổng quan tài liệu và sử dụng lý luận hiện có để phát triển giả thuyết nghiên cứu Những giả thuyết này sẽ được kiểm định và xác nhận hoặc phản bác, từ đó góp phần phát triển các lý luận, tạo nền tảng cho các nghiên cứu tiếp theo (Saunders và cộng sự, 2009).

- Hướng tiếp cận nghiên cứu:

Việc lựa chọn phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu phụ thuộc vào mục tiêu và bản chất của đề tài Đối với các chủ đề có nhiều tài liệu hỗ trợ, các nhà nghiên cứu thường sử dụng hướng tiếp cận diễn giải để xây dựng cơ sở lý thuyết và giả thuyết Ngược lại, những đề tài mới, ít tài liệu và đang gây tranh luận sẽ phù hợp hơn với phương pháp quy nạp.

Theo Saunder et al (2009), hướng tiếp cận diễn giải, hay còn gọi là phương pháp kiểm định lý thuyết, liên quan đến việc phát triển lý thuyết thông qua các thử nghiệm nghiêm ngặt Phương pháp này thường được áp dụng trong nghiên cứu khoa học tự nhiên, nơi mà việc dự đoán và kiểm soát các hiện tượng dựa trên lý thuyết sẵn có là rất quan trọng (Collis & Hussey, 2003) Hướng tiếp cận diễn giải thể hiện hiệu quả trong việc kiểm định lý thuyết theo chiều từ trên xuống.

Năm bước phát triển của một nghiên cứu theo hướng diễn giải theo Robson

1.Đề xuất giả thuyết từ cơ sở lý luận và tổng quan tài liệu nghiên cứu

2.Diễn giải giả thuyết trong điều kiện cụ thể (xác định thang đo và các biến số) thuyết

3.Sử dụng các phương pháp khác nhau để kiểm định giả thuyết

4.Kiểm tra kết quả giả thuyết, kết luận chấp nhận hay không chấp nhận lý

Hướng tiếp cận diễn giải trong nghiên cứu cho phép sử dụng cả dữ liệu định lượng và định tính để giải thích mối quan hệ nhân quả giữa các biến, đồng thời kiểm soát các biến trong thử nghiệm và đảm bảo độ tin cậy thông qua phương pháp cấu trúc chặt chẽ (Gill & Johnson, 2002) Đối với đề tài “Nghiên cứu tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam”, nghiên cứu sinh áp dụng hướng tiếp cận này nhằm kiểm định lý thuyết dựa trên các nghiên cứu hiện có trong nước và quốc tế, với số lượng nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm đã tương đối đầy đủ.

Luận án xây dựng mô hình đánh giá tác động của dịch vụ ngân hàng đầu tư đến kết quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam, dựa trên cơ sở lý luận và tổng quan tài liệu nghiên cứu Mô hình này đã điều chỉnh các biến thử nghiệm để phù hợp với số lượng và đặc điểm của các NHTM Việt Nam, từ đó kiểm định giả thuyết về tác động tích cực hoặc tiêu cực của dịch vụ ngân hàng đầu tư đến kết quả hoạt động của ngân hàng thông qua cả phương pháp định lượng và định tính.

Để thu thập thông tin cho nghiên cứu, tác giả áp dụng phương pháp tổng hợp và kế thừa tài liệu từ các nghiên cứu trước đây cả trong và ngoài nước Qua đó, tác giả xác định các vấn đề nghiên cứu, đặt ra giả thuyết và tiến hành kiểm định giả thuyết bằng các phương pháp xử lý thông tin định tính và định lượng Các nguồn tài liệu được sử dụng để thu thập thông tin rất đa dạng và phong phú.

Nhiều công trình nghiên cứu, bao gồm giáo trình, luận án và tạp chí, cả trong và ngoài nước, đã phân tích dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) và tác động của nó đến kết quả hoạt động của ngân hàng Những nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về hiệu quả và xu hướng phát triển của dịch vụ NHĐT, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng và sự hài lòng của khách hàng.

(ii) Tổng hợp kinh nghiệm quốc tế trong phát triển dịch vụ NHĐT nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng;

Văn bản pháp luật của Việt Nam quy định về dịch vụ ngân hàng điện tử, dịch vụ ngân hàng qua mạng, giao dịch điện tử và đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng Những quy định này nhằm tăng cường tính minh bạch và bảo mật trong các giao dịch tài chính trực tuyến, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho người dùng trong việc tiếp cận dịch vụ ngân hàng hiện đại.

Dữ liệu thứ cấp được thu thập từ báo cáo tài chính và báo cáo thường niên của các ngân hàng thương mại Việt Nam, cũng như từ báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước và thông tin công bố từ Tổng cục Thống kê Thêm vào đó, số liệu tổng hợp từ Ngân hàng Nhà nước cũng được sử dụng để đảm bảo tính chính xác và đầy đủ của thông tin.

Hiện nay, có nhiều phương pháp nghiên cứu (PPNC) được phân loại theo các tiêu chí khác nhau, được sử dụng độc lập hoặc kết hợp để đạt hiệu quả tối ưu trong nghiên cứu Phương pháp kết hợp (mixed method) đang được ưa chuộng nhất, với nhiều thuật ngữ như PP tích hợp, PP kết hợp và PP đa phương pháp Bản chất của phương pháp này là sự kết hợp giữa PPNC định tính và định lượng trong một nghiên cứu Việc áp dụng phương pháp hỗn hợp giúp nhà nghiên cứu tận dụng ưu điểm và khắc phục nhược điểm của các phương pháp, từ đó xây dựng lý thuyết có tính khoa học thực tiễn.

Johnson, Onwuegbuzie và Turner (2007) đã xác định các đặc tính của phương pháp nghiên cứu kết hợp (PP kết hợp) như sau: (i) PP kết hợp thu thập cả dữ liệu định tính (mở) và định lượng (đóng) để giải quyết các câu hỏi nghiên cứu hoặc giả thuyết; (ii) Phương pháp này bao gồm việc phân tích cả hai loại dữ liệu, với các thủ tục thu thập và xử lý dữ liệu cần được thực hiện một cách nghiêm ngặt; (iii) Hai dạng dữ liệu được tích hợp trong thiết kế phân tích thông qua việc hợp nhất, kết nối hoặc nhúng dữ liệu, và (iv) Các quy trình này có thể dựa trên một quan điểm triết học hoặc lý thuyết đã được hình thành trước đó.

Trong khuôn khổ đề tài tác giả sử dụng phương pháp kết hợp để trả lời câu hỏi nghiên cứu:

Dịch vụ ngân hàng đầu tư (NHĐT) có ảnh hưởng đáng kể đến kết quả tài chính của ngân hàng, thể hiện qua các chỉ số tài chính quan trọng như ROA (tỷ suất lợi nhuận trên tài sản), ROE (tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu) và NIM (tỷ suất lợi nhuận thuần từ lãi) Sự tích cực hay tiêu cực của NHĐT đối với những chỉ số này có thể quyết định hiệu quả hoạt động và khả năng sinh lời của ngân hàng trong môi trường cạnh tranh hiện nay.

(ii) Dịch vụ NHĐT có ảnh hưởng gì đến hiệu quả hoạt động phi tài chính của ngân hàng?

(iii) Giải pháp phát huy những tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của dịch vụ NHĐT đến KQHĐ của các NHTM Việt Nam?

Phương pháp nghiên cứu định lượng được thực hiện trước, sử dụng nguồn số liệu sơ cấp và thứ cấp do NCS thu thập nhằm đánh giá tác động của dịch vụ NHĐT đến kết quả kinh doanh ngân hàng qua mô hình hồi quy dữ liệu bảng Đồng thời, phương pháp nghiên cứu định tính được áp dụng để phân tích dữ liệu định tính và giải thích kết quả mô hình thông qua phỏng vấn chuyên gia Để đảm bảo tính nhất quán trong nghiên cứu, dữ liệu định tính được phân tích theo hướng diễn giải thông qua các quá trình tóm tắt và phân nhóm, nhằm làm rõ kết quả nghiên cứu định lượng và giải quyết các câu hỏi định tính mà nghiên cứu định lượng chưa đề cập.

Đóng góp của luận án

• Hệ thống hóa lý thuyết về dịch vụ NHĐT, tác động của dịch vụ NHĐT đến KQHĐ ngân hàng, xét về góc độ tài chính và phi tài chính.

Dựa trên các mô hình nghiên cứu quốc tế, bài viết thiết kế một mô hình phù hợp để đánh giá tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam.

Phỏng vấn chuyên gia giúp mang lại những phân tích có giá trị thực tiễn, đồng thời lý giải các hạn chế mà mô hình định lượng chưa thể khắc phục.

Kết hợp nghiên cứu và kinh nghiệm quốc tế để đề xuất giải pháp cụ thể cho nhà chính sách và lãnh đạo ngân hàng là cần thiết Điều này nhằm tối ưu hóa tác động tích cực của dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) và hạn chế tác động tiêu cực Bằng cách này, dịch vụ NHĐT sẽ trở thành công cụ hiệu quả giúp ngân hàng nâng cao hiệu suất hoạt động.

Kết cấu của luận án

Kết cấu của luận án được chia làm 5 chương:

• Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu.

• Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn về tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử tới kết quả hoạt động của ngân hàng.

• Chương 3: Kết quả hoạt động và thực trạng phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

• Chương 4: Đánh giá tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

• Chương 5: Một số giải pháp và kiến nghị.

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Tình hình nghiên cứu ở các quốc gia trên thế giới

1.1.1 Nghiên cứu tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả tài chính của ngân hàng

Dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) có ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động (KQHĐ) của các ngân hàng, vì chúng thường mang lại lợi nhuận cao hơn và chi phí thấp hơn Tuy nhiên, các nghiên cứu thực nghiệm ở nhiều quốc gia cho thấy kết quả không đồng nhất, chủ yếu tập trung vào tác động của dịch vụ NHĐT đến lợi nhuận của ngân hàng Những nghiên cứu này được phân loại thành hai nhóm dựa trên mức độ phát triển của quốc gia: các nước đang phát triển và các nước phát triển.

• Nghiên cứu ở các nước phát triển

- Các nghiên cứu cho thấy kết quả tác động tích cực của dịch vụ NHĐT đến kết quả hoạt động ngân hàng

Các nghiên cứu của Hasan et al (2002), Kagan et al (2005), DeYoung

(2005, 2007), Hernando, I và Nieto, M J., (2007), Onay, Ozsoz và Helvacioglu

Nghiên cứu của Delgado et al (2004, 2007) và Onay cùng Ozsoz (2013) chỉ ra rằng ứng dụng ngân hàng điện tử (NHĐT) có tác động tích cực đến lợi nhuận của ngân hàng, tuy nhiên, hiệu quả này xuất hiện với một độ trễ nhất định tại các quốc gia Châu Âu và Hoa Kỳ Thêm vào đó, một số nghiên cứu khác của Egland et al cũng hỗ trợ quan điểm này.

Nghiên cứu của Sullivan (2000), Sathye (2005) và các tác giả khác vào năm 1998 cho thấy rằng dịch vụ ngân hàng điện tử, cụ thể là ngân hàng qua mạng, không có ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng tại Hoa Kỳ và Úc.

Nghiên cứu của DeYoung (2005) cho thấy rằng các ngân hàng điện tử tại Mỹ có lợi nhuận tương đối thấp hơn so với ngân hàng truyền thống, chủ yếu do chi phí lao động cao và doanh thu từ phí dịch vụ thấp Mặc dù vậy, các ngân hàng điện tử lại có xu hướng tăng trưởng nhanh hơn, nhờ vào việc áp dụng công nghệ và phương tiện điện tử, giúp nâng cao khả năng cạnh tranh theo thời gian Tương tự, Delgado và cộng sự (2004, 2006) đã chỉ ra kết quả tương tự ở Châu Âu, nhưng sự phát triển của nền kinh tế công nghệ trong nghiên cứu của họ (2004, 2007) rõ ràng hơn so với ước tính của DeYoung.

Nghiên cứu của DeYoung et al (2007) về ảnh hưởng của Internet đối với kết quả và hiệu suất của các ngân hàng cộng đồng tại Hoa Kỳ đã chỉ ra rằng việc áp dụng công nghệ web trong giai đoạn 1999-2001 đã dẫn đến sự gia tăng lợi nhuận rõ rệt cho 424 ngân hàng địa phương Kết quả cho thấy, việc bổ sung kênh phân phối Internet vào mạng lưới chi nhánh đã làm tăng thu nhập ngân hàng, chủ yếu từ phí dịch vụ trên tài khoản tiền gửi Sự tiện lợi của ngân hàng trực tuyến đã khuyến khích khách hàng tiếp tục sử dụng các dịch vụ khác hoặc sẵn sàng chi trả thêm cho các dịch vụ đã sử dụng trước đó.

Hernando, I và Nieto, M J., (2007) với nghiên cứu “Is the Internet Delivery

Nghiên cứu "Channel changing Banks’ Performance?" đã phân tích tác động của việc sử dụng trang web giao dịch đến hiệu suất tài chính của 72 ngân hàng thương mại tại Tây Ban Nha trong giai đoạn 1994-2002 Các chỉ tiêu tài chính được sử dụng để đo lường hiệu suất bao gồm tỷ lệ chi phí/tổng tài sản, chi phí công nghệ và tiếp thị/tổng tài sản, cùng với các chỉ số lợi nhuận như ROA, ROE, tỷ suất lãi trung gian (NIM) và hoa hồng môi giới chứng khoán Kết quả cho thấy việc chấp nhận web giao dịch cần thời gian để phát huy hiệu quả, với sự giảm chi phí vận hành, đặc biệt là nhân viên, tiếp thị và CNTT, chỉ có ý nghĩa thống kê sau 1 năm rưỡi Sự giảm chi phí này dẫn đến cải thiện khả năng sinh lời, ảnh hưởng tích cực đến ROA và thu nhập từ hoa hồng và phí sau 1 năm rưỡi, đồng thời tác động tích cực đến ROE sau 3 năm, nhưng không có ảnh hưởng đáng kể đến NIM của ngân hàng.

Nghiên cứu của Kegan và cộng sự (2005) đã phân tích tác động của dịch vụ ngân hàng trực tuyến đến hiệu suất của các ngân hàng ở Mỹ, sử dụng mô hình phương trình cấu trúc (SEM) Mẫu nghiên cứu bao gồm 10 ngân hàng cộng đồng có tổng tài sản dưới một tỷ đô la, hoạt động tại Iowa, Minnesota, Montana, North Dakota và South Dakota Kết quả cho thấy các ngân hàng cung cấp dịch vụ ngân hàng trực tuyến có hiệu suất tốt hơn so với những ngân hàng không có dịch vụ này, đồng thời online banking cũng cải thiện khả năng thu nhập của các ngân hàng thông qua chỉ số lợi nhuận/vốn chủ sở hữu và nâng cao chất lượng tài sản.

Nghiên cứu của Hasan và cộng sự (2002) dựa trên dữ liệu từ các ngân hàng ở Ý chỉ ra rằng các tổ chức cung cấp dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) hoạt động hiệu quả hơn so với ngân hàng truyền thống Các chỉ số rủi ro của ngân hàng điện tử cũng thấp hơn, trong khi tỷ lệ Tài sản/Nợ cho thấy ngân hàng điện tử có giá trị trung bình cao hơn và ít phụ thuộc vào tiền gửi so với ngân hàng truyền thống Tuy nhiên, một điểm yếu của nhóm ngân hàng điện tử là chi phí không lãi suất cao, do yêu cầu đầu tư công nghệ ban đầu lớn, dẫn đến gia tăng chi phí hoạt động ngoài lãi.

Nghiên cứu của Onay, Ozsoz và Helvacioglu (2008) về ảnh hưởng của ngân hàng trực tuyến đối với khả năng sinh lời của ngân hàng tại Thổ Nhĩ Kỳ cho thấy không có mối quan hệ rõ ràng giữa ngân hàng trực tuyến và thu nhập lãi cận biên, cũng như thu nhập từ phí và hoa hồng Tuy nhiên, dịch vụ ngân hàng trực tuyến bắt đầu đóng góp vào ROE của ngân hàng sau hai năm, trong khi tác động tiêu cực được ghi nhận sau một năm, tương tự như kết quả của Hernando và Nieto (2007) Nghiên cứu khuyến cáo rằng việc đầu tư vào dịch vụ ngân hàng trực tuyến cần được tính toán hợp lý để cân nhắc chi phí và doanh thu, ảnh hưởng đến hiệu suất ngân hàng Đến năm 2013, Onay và Ozsoz đã tiếp tục sử dụng dữ liệu từ năm 1990 để nghiên cứu thêm.

Nghiên cứu năm 2008 của 18 ngân hàng bán lẻ tại Thổ Nhĩ Kỳ cho thấy việc áp dụng dịch vụ ngân hàng trực tuyến có tác động tích cực đến lợi nhuận, tiền gửi và cho vay trên mỗi chi nhánh Tuy nhiên, sau 2 năm triển khai, dịch vụ này lại ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận của ngân hàng Các tác giả lý giải rằng điều này xảy ra do sự gia tăng cạnh tranh giữa các ngân hàng, dẫn đến thu nhập lãi thấp hơn.

• Nghiên cứu ở các nước đang phát triển

Nghiên cứu ở các nước đang phát triển như Jordan, Pakistan, Bangladesh, Iran, Ả Rập Saudi và Kenya cho thấy dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) có ảnh hưởng đến kết quả hoạt động ngân hàng (KQHĐ), tuy nhiên chưa rõ ràng Các nghiên cứu của Rahman (2007), Malhotra và Singh (2009), Nader (2011), Josiah và Nancy (2012), Oyewole et al (2013) và Rauf và Qiang (2014) chỉ ra rằng NHĐT cải thiện hiệu suất hoạt động ngân hàng ở một mức độ nhất định Đồng thời, các nghiên cứu của Siam (2006), Khrawish và Al-Sa'di (2011) cùng Akhisar et al (2015) cho thấy chi phí cơ sở hạ tầng cao trong phát triển dịch vụ NHĐT, kết hợp với số lượng khách hàng chưa tương xứng, đã ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận của các ngân hàng ở các quốc gia này.

Cụ thể, nghiên cứu của Khrawish, A.H và Al-Sa'di, N.M (2011) “The

Bài viết "Tác động của ngân hàng điện tử đến lợi nhuận của ngân hàng: Bằng chứng từ Jordan" nhằm mục đích kiểm tra ảnh hưởng của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả lợi nhuận của các ngân hàng tại Jordan trong giai đoạn 2000-2009 Nghiên cứu sử dụng một ma trận các biến giả để đại diện cho dịch vụ ngân hàng điện tử, trong đó INTERNET1 được định nghĩa là 1 nếu ngân hàng áp dụng dịch vụ này, INTERNET2 là 1 nếu ngân hàng đã áp dụng trong 2 năm qua, và INTERNET3 là 1 nếu ngân hàng đã sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử hơn 2 năm.

Kết quả mô hình hồi quy cho thấy dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) không có ảnh hưởng đáng kể đến lợi nhuận của các ngân hàng mới áp dụng, được thể hiện qua chỉ số ROA và ROE Điều này chỉ ra rằng chi phí cao liên quan đến việc triển khai dịch vụ NHĐT có thể là nguyên nhân Đối với các ngân hàng đã cung cấp dịch vụ NHĐT trong hai năm, kết quả hồi quy có ý nghĩa hơn nhưng vẫn không cho thấy tác động đáng kể đến lợi nhuận, tương tự như kết quả nghiên cứu của Mohammad và Saad (2011) cũng như Malhotra và Singh (2009).

Nghiên cứu của Siam (2006) cho thấy dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) có ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận của ngân hàng trong thời gian ngắn, do khách hàng tại Jordan vẫn phụ thuộc vào các kênh truyền thống Chi phí áp dụng NHĐT cao hơn doanh thu từ dịch vụ điện tử, vì vậy các ngân hàng Jordan cần thúc đẩy dịch vụ này và củng cố lòng tin của khách hàng Năm 2011, Al-Smadi và Al-Wabel nghiên cứu tác động của NHĐT đến hoạt động của 15 ngân hàng Jordan từ 2000-2010, sử dụng ROE và hai bộ biến kiểm soát Kết quả cho thấy tác động tiêu cực đáng kể của NHĐT đến hiệu quả tài chính, nhưng nghiên cứu không xem xét ROE sau một năm áp dụng NHĐT, do chi phí công nghệ mới có thể mất thời gian để hồi phục.

Nghiên cứu cho thấy dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) có mối quan hệ tích cực với kết quả hoạt động của các ngân hàng ở các quốc gia đang phát triển Cụ thể, nghiên cứu của Josiah và Nancy (2012) tại Kenya chỉ ra rằng NHĐT ảnh hưởng tích cực đến ROA, đặc biệt qua việc sử dụng thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng và ATM, kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Agboola (2006) ở Nigeria Nghiên cứu của Oyewole et al (2013) cũng xác nhận rằng NHĐT bắt đầu có ảnh hưởng tích cực đến hiệu suất ngân hàng trong ROA và NIM, mặc dù có tác động tiêu cực trong năm đầu tiên áp dụng Tại Bangladesh, Rahman (2007) cho thấy rằng việc áp dụng công nghệ trong NHĐT đã cải thiện hiệu suất của các ngân hàng, tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ chỉ ra sự thay đổi theo thời gian mà không đánh giá tính đáng kể của những thay đổi đó.

Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam

Số lượng nghiên cứu về dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam còn hạn chế so với các lĩnh vực khác trong tài chính ngân hàng Đặc biệt, có rất ít nghiên cứu tập trung vào tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đối với kết quả hoạt động của ngân hàng.

Bài báo khoa học của Dinh Van (2015) là nghiên cứu điển hình duy nhất về tác động của ngân hàng trực tuyến đối với hiệu suất ngân hàng Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về mối liên hệ giữa việc sử dụng dịch vụ ngân hàng trực tuyến và kết quả hoạt động của các ngân hàng.

Evidence from Vietnam” trên Tạp chí thương mại điện tử và Internet banking.

Nghiên cứu đã áp dụng mô hình định lượng để đánh giá tác động của dịch vụ Internet banking đối với hoạt động của các ngân hàng tại Việt Nam trong giai đoạn 2009-2014 Trong mô hình, Internet banking được xem như một biến giả, trong khi biến phụ thuộc là các chỉ tiêu tài chính như ROA, ROE, chi phí hoạt động và thu nhập ngoài lãi Kết quả cho thấy Internet banking có ảnh hưởng tích cực đến thu nhập ngoài lãi, tác động này đến lợi nhuận của ngân hàng với độ trễ 3 năm và ở mức độ nhỏ Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng chưa có mối liên hệ rõ ràng giữa Internet banking và chi phí hoạt động Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ dừng lại ở phương pháp định lượng với biến giả cho Internet banking, do đó chưa phản ánh toàn diện tác động của dịch vụ này đến kết quả hoạt động, vì dịch vụ Internet banking được cung cấp qua nhiều kênh khác nhau như ATM, POS, Internet và Mobile banking Cần có thêm dữ liệu lượng hóa cụ thể và áp dụng các phương pháp định tính như phỏng vấn chuyên gia để nâng cao độ chính xác của kết quả nghiên cứu.

Một số nghiên cứu khác có cùng đối tượng nghiên cứu là dịch vụ NHĐT, dịch vụ thanh toán thẻ, TTKDTM như:

- Luận án tiến sỹ (LATS) của NCS Phạm Thu Hương (2012) “Phát triển dịch vụ NHĐT tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế 2012”, Đại học ngoại thương;

Nghiên cứu của Phạm Long (2012) về "Xây dựng mô hình chất lượng dịch vụ ngân hàng đầu tư tại Việt Nam" được trình bày trong Kỷ yếu Hội thảo Kinh doanh hàng năm lần 2 của Đại học Sam Houston State, đã đề xuất một mô hình đánh giá chất lượng dịch vụ ngân hàng đầu tư, nhằm nâng cao hiệu quả và sự hài lòng của khách hàng tại thị trường Việt Nam.

- Nghiên cứu của Trương Thị Vân Anh và Lê Văn Huy (2008): “Mô hình nghiên cứu chấp nhận E-Banking tại Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, Số

Nghiên cứu của Trần Đức Thắng (2016) tại Đại học Kinh tế Quốc dân tập trung vào mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử và mức độ thỏa mãn cũng như trung thành của khách hàng tại Việt Nam Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử có ảnh hưởng tích cực đến sự hài lòng của khách hàng, từ đó góp phần nâng cao mức độ trung thành của họ đối với ngân hàng.

- LATS của Nguyễn Danh Lương (2003): “Những giải pháp nhằm phát triển hình thức thanh toán thẻ ở Việt Nam”, Học viện ngân hàng và;

- LATS của Trịnh Thanh Huyền (2012): Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt qua NHTM ở Việt Nam, Học viện tài chính.

Các nghiên cứu về dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam đã xây dựng cơ sở lý luận vững chắc về dịch vụ này, bao gồm đặc điểm và phân loại sản phẩm - dịch vụ ngân hàng điện tử Hầu hết các nghiên cứu tập trung vào việc đánh giá sự phát triển và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của dịch vụ ngân hàng điện tử, cũng như tìm hiểu các yếu tố tác động đến mức độ chấp nhận dịch vụ ngân hàng điện tử của khách hàng tại các ngân hàng Việt Nam.

Khoảng trống nghiên cứu

Đến nay, nghiên cứu về tác động của dịch vụ ngân hàng đầu tư (NHĐT) đến kết quả hoạt động của ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam vẫn còn hạn chế Các tài liệu hiện có rất ít, và trong cả nghiên cứu quốc tế lẫn trong nước, việc kết hợp giữa phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính chưa được thực hiện đầy đủ, chủ yếu chỉ tập trung vào một trong hai phương pháp này.

Nghiên cứu về tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) đến kết quả hoạt động (KQHĐ) của các ngân hàng cho thấy sự khác biệt rõ rệt tùy thuộc vào đặc điểm của từng ngân hàng, lịch sử phát triển dịch vụ NHĐT, và môi trường chính trị kinh tế của mỗi quốc gia Tác động của NHĐT có thể là tích cực hoặc tiêu cực, thậm chí không có tác động nào Hơn nữa, các nghiên cứu trong và ngoài nước chủ yếu tập trung vào ảnh hưởng của NHĐT đến kết quả tài chính qua các chỉ tiêu lợi nhuận, trong khi các kết quả phi tài chính ít được đề cập Phương pháp nghiên cứu định tính, bao gồm khảo sát và phỏng vấn chuyên gia, vẫn chưa được áp dụng rộng rãi.

Nghiên cứu này sử dụng phương pháp kết hợp song song giữa định lượng và định tính nhằm xác định ảnh hưởng của dịch vụ ngân hàng đầu tư (NHĐT) đến các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính của ngân hàng Mục tiêu là tìm hiểu xem dịch vụ NHĐT có tác động tích cực hay tiêu cực đến kết quả hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh dịch vụ NHĐT đã có những bước phát triển nhất định Điểm mới của luận án nằm ở việc làm rõ mối liên hệ này.

Mô hình đánh giá tác động của dịch vụ ngân hàng đầu tư (NHĐT) đến kết quả hoạt động (KQHĐ) của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam cần được thiết kế phù hợp với đặc điểm và tính chất riêng của các NHTM tại Việt Nam Việc áp dụng mô hình này sẽ giúp các NHTM tối ưu hóa hiệu quả hoạt động và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.

- Đánh giá kết quả kinh doanh, thực trạng hoạt động NHĐT của các NHTM Việt Nam ở giai đoạn ngân hàng điện tử bắt đầu bùng phát mạnh mẽ.

Nghiên cứu này tập trung vào tác động của dịch vụ ngân hàng đầu tư (NHĐT) đối với kết quả hoạt động (KQHĐ) của các ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam, sử dụng phương pháp định lượng kết hợp với định tính và dữ liệu cập nhật trong giai đoạn mới Đánh giá sẽ xem xét ảnh hưởng của dịch vụ NHĐT đến các chỉ tiêu tài chính của ngân hàng, cụ thể là các tỷ lệ sinh lời, cũng như các chỉ tiêu phi tài chính như gia tăng sức cạnh tranh, mở rộng quy mô khách hàng, cải thiện chất lượng dịch vụ khách hàng và thay đổi phương thức vận hành.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ ĐẾN KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG

Tổng quan về dịch vụ ngân hàng điện tử

2.1.1 Khái niệm dịch vụ ngân hàng điện tử

Nguồn gốc của dịch vụ ngân hàng điện tử gắn liền với thương mại điện tử, đóng vai trò là hạ tầng thanh toán trực tuyến cho TMĐT và cũng là một sản phẩm của nó Dịch vụ ngân hàng điện tử cung cấp thông tin và dịch vụ ngân hàng truyền thống lẫn hiện đại thông qua các phương tiện điện tử và mạng Internet.

Dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) cho phép khách hàng truy cập tài khoản và thông tin sản phẩm qua Internet, bổ sung cho các kênh như ATM, PC bank, và Home bank Việc áp dụng NHĐT tạo ra một mô hình phân phối đa kênh phổ biến trong ngành ngân hàng hiện nay, mang lại tiềm năng lớn cho giao dịch thuận tiện và hiệu quả mà trước đây chưa có.

Dịch vụ ngân hàng điện tử, hay còn gọi là ngân hàng điện tử, là một thuật ngữ phức tạp và khó định nghĩa do nó có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau dựa trên các mục đích sử dụng và cách tiếp cận khác nhau.

Dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) được định nghĩa là việc sử dụng các kênh phân phối điện tử cho sản phẩm và dịch vụ ngân hàng, là một phần của tài chính điện tử Allen và cộng sự cũng nhấn mạnh rằng NHĐT là phương thức cung cấp dịch vụ tài chính qua các phương tiện điện tử Hiện nay, các ngân hàng bán lẻ đang chuyển đổi sang mô hình phân phối dịch vụ tài chính đa kênh trên nền tảng kỹ thuật số, cung cấp các dịch vụ truyền thống thông qua Internet.

Khác với định nghĩa truyền thống, Siddik và cộng sự (2016) định nghĩa "ngân hàng điện tử" là một hệ thống cho phép các nhà cung cấp dịch vụ, doanh nghiệp và cá nhân truy cập thông tin và sử dụng dịch vụ tài chính kỹ thuật số từ mạng tư nhân hoặc công cộng Người dùng có thể sử dụng các thiết bị thông minh như máy tính cá nhân, máy rút tiền tự động (ATM) và trợ lý kỹ thuật số cá nhân (PDA) để truy cập ngân hàng điện tử và thực hiện giao dịch mà không bị giới hạn về không gian và thời gian như với ngân hàng truyền thống.

Nghiên cứu của Shah và Clarke (2009) định nghĩa dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) là việc cung cấp dịch vụ tài chính qua kênh phân phối điện tử của tổ chức cho khách hàng, bao gồm cả cá nhân và doanh nghiệp Các ngân hàng hiện nay cung cấp dịch vụ tài chính điện tử đầy đủ và tinh vi, cho phép khách hàng truy cập tài khoản, chuyển tiền giữa các tài khoản, mở tài khoản tiết kiệm, thanh toán hóa đơn, vay vốn, giao dịch ngoại hối, ủy thác, bảo hiểm và nhiều sản phẩm tài chính khác.

Dịch vụ ngân hàng điện tử là việc sử dụng các kênh phân phối điện tử nhằm cung cấp sản phẩm và dịch vụ ngân hàng đến tay khách hàng.

Các kênh phân phối điện tử là hệ thống các phương tiện tương tác và quy trình tự động hóa mà ngân hàng sử dụng để giao tiếp và cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho khách hàng Những kênh phân phối điện tử phổ biến bao gồm giao dịch qua ATM, POS, Internet banking và Mobile banking Khái niệm này sẽ được áp dụng xuyên suốt trong luận án.

Mối quan hệ giữa ngân hàng điện tử và ngân hàng số

Ngân hàng điện tử, hay còn gọi là ngân hàng số, là một mô hình kinh doanh hoàn toàn khác biệt so với mô hình ngân hàng truyền thống, không có chi nhánh Theo Chris (2014), ngân hàng số hoạt động dựa vào nguồn lực và mạng lưới số, tạo nên giá trị cốt lõi của ngân hàng Khách hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng số thông qua công nghệ số, không cần tương tác trực tiếp với chi nhánh hay nhân viên ngân hàng Ngân hàng số (NHS) cho phép tự động hóa và tiêu chuẩn hóa tất cả các hoạt động ngân hàng trên nền tảng số (Gasser, 2017) Dịch vụ ngân hàng số được cung cấp chủ yếu qua internet, điện thoại di động, máy tính bảng và các nền tảng mạng xã hội cũng như trang thương mại điện tử.

Ngân hàng số có phạm vi và tính toàn diện vượt trội so với các khái niệm như dịch vụ ngân hàng điện tử, ngân hàng trực tuyến hay ngân hàng Internet, vì chúng chỉ phản ánh một phần của việc số hóa trong ngân hàng Các khái niệm này chủ yếu tập trung vào việc ứng dụng công nghệ điện tử và không chạm trong các dịch vụ như thanh toán, đầu tư, quản lý tài khoản và bảo hiểm, mà không yêu cầu tích hợp số hóa toàn diện Ngược lại, mô hình ngân hàng số (NHS) dựa trên nền tảng số cho tất cả hoạt động ngân hàng, giúp tăng hiệu quả, gắn kết với khách hàng và cung cấp tiện ích linh hoạt với chi phí hợp lý cho cả cá nhân và doanh nghiệp.

Ngân hàng số không chỉ bao gồm ngân hàng điện tử mà còn đại diện cho một mô hình kinh doanh hoàn toàn số hóa, từ dịch vụ đến cơ cấu tổ chức và quy trình hoạt động Ngân hàng điện tử là phần cốt lõi của ngân hàng số, giúp chuyển đổi từ mô hình ngân hàng chi nhánh sang ngân hàng không chi nhánh Việc phát triển dịch vụ ngân hàng số là nhu cầu cần thiết để các ngân hàng vượt qua thách thức, tạo ra lợi thế cạnh tranh, và thích ứng với sự phát triển bền vững trong thời đại CMCN 4.0 và kinh tế số, đồng thời thúc đẩy tài chính toàn diện quốc gia.

2.1.2 Vai trò của dịch vụ ngân hàng điện tử

Dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) đóng vai trò quan trọng trong ngành ngân hàng và nền kinh tế toàn cầu, không thể phủ nhận Trong bối cảnh kinh tế số hóa và toàn cầu hóa, phát triển dịch vụ NHĐT trở thành xu thế tất yếu, vừa là hạ tầng thanh toán trực tuyến cho nền kinh tế số, vừa là sản phẩm công nghệ tài chính của ngân hàng NHĐT nhanh chóng trở thành phần không thể thiếu trong kinh doanh ngân hàng hiện đại, hỗ trợ gia tăng khả năng cạnh tranh và thay đổi cách tiếp cận sản phẩm tài chính một cách sâu sắc.

Những thay đổi trong dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) đã trở nên rõ rệt trong những năm gần đây, đặc biệt là trong bối cảnh đại dịch COVID-19, khi các biện pháp giãn cách xã hội thúc đẩy sự phát triển của công nghệ số trong ngân hàng Dịch vụ NHĐT không chỉ giúp duy trì hoạt động thanh toán và giao dịch mà còn trở thành phương thức kinh doanh hiệu quả, cải thiện hình ảnh ngân hàng và tăng cường mối quan hệ với khách hàng thông qua các sản phẩm sáng tạo Furst và cộng sự (2000) cho rằng NHĐT hoạt động như một kênh phân phối từ xa, trong khi Kricks (2009) nhấn mạnh rằng dịch vụ này cung cấp sản phẩm ngân hàng đến tay khách hàng qua các kênh điện tử Sự xuất hiện của NHĐT đã dần thay thế các dịch vụ ngân hàng truyền thống, nâng cao chất lượng dịch vụ, giảm chi phí hoạt động và tối đa hóa hiệu quả ngân hàng (Ovia, 2001; Gonzalez, 2008) Điều này cũng mở ra cơ hội cho ngân hàng gia tăng cơ sở khách hàng và lợi nhuận (Okibo, Wario 2014).

Theo Sumra và Manzoor (2011), dịch vụ ngân hàng trực tuyến (NHĐT) sử dụng Internet để cung cấp các dịch vụ như mở tài khoản tiền gửi, thanh toán hóa đơn điện tử và chuyển khoản trực tuyến Các dịch vụ tài chính này có thể được truy cập qua nhiều kênh khác nhau, bao gồm website của ngân hàng, ứng dụng di động, hoặc ngân hàng ảo NHĐT nổi bật như một kênh phân phối hiệu quả, cung cấp sản phẩm tài chính giá trị cao với chất lượng tốt hơn và chi phí thấp hơn, không bị giới hạn bởi ranh giới vật lý, đồng thời hỗ trợ bán chéo các sản phẩm như thẻ tín dụng và khoản vay.

Theo Lin, Hu và Sung (2005), dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) đóng vai trò là kênh bổ sung, cung cấp dịch vụ cho khách hàng với chi phí thấp hơn Những kênh này không chỉ giúp tiết kiệm chi phí mà còn mở rộng khu vực địa lý phục vụ khách hàng.

NH và có thể giúp thu hút và giữ KH hơn nữa (Dandapani, Karels và Lawrence,

Đánh giá kết quả hoạt động của ngân hàng

2.2.1 Khung xếp hạng hoạt động ngân hàng CAMELS

Trong những năm gần đây, khung xếp hạng CAMELS đã trở thành một công cụ phổ biến để ước tính hiệu suất hoạt động của ngân hàng Đây là hệ thống đánh giá do các nhà quản lý ngân hàng liên bang phát triển nhằm đánh giá tổng thể hiệu suất của các ngân hàng Hoa Kỳ (Rose & Hudgins, 2012) Kể từ năm 1988, Ủy ban Basel đã khuyến nghị sử dụng CAMELS để đánh giá sự lành mạnh của các tổ chức tài chính, bao gồm các ngân hàng thương mại Hệ thống này được áp dụng bởi các cơ quan quản lý ngân hàng Mỹ như Ngân hàng Dự trữ Liên bang, Văn phòng Kiểm soát Tiền tệ và Tổng công ty Bảo hiểm Tiền gửi Liên bang.

Nghiên cứu của Barr và cộng sự (2002) chỉ ra rằng tiêu chí đánh giá CAMELS đã trở thành công cụ thiết yếu cho các nhà giám sát và cơ quan quản lý, nhằm cải thiện hoạt động ngân hàng Hệ thống này xem xét nhiều khía cạnh khác nhau của ngân hàng dựa trên các nguồn thông tin như báo cáo tài chính, nguồn tài trợ, dữ liệu kinh tế vĩ mô, ngân sách và dòng tiền Các ngân hàng trung ương có trách nhiệm giám sát các ngân hàng trong từng quốc gia thông qua hệ thống xếp hạng, đánh giá tính đúng đắn của các ngân hàng (Doumpos & Zopounidis, 2010).

Từ viết tắt CAMELS là viết tắt của: “Capital adequacy”- Mức độ an toàn vốn; “Asset quality”- Chất lượng tài sản có; “Management”- Khả năng quản lý;

Khả năng sinh lời (Earning) và thanh khoản (Liquidity) là những yếu tố quan trọng trong đánh giá rủi ro thị trường Để nâng cao độ chính xác, các nhà điều hành đã thêm yếu tố độ nhạy cảm (Sensitivity) nhằm phân tích tác động của biến động lãi suất và các yếu tố khác, đặc biệt trong bối cảnh khủng hoảng tài chính (Kandrac, 2014).

Mức độ an toàn vốn của ngân hàng (CAR) là chỉ số quan trọng để đánh giá an toàn trong hoạt động ngân hàng, được tính toán từ bảng cân đối kế toán Tỷ lệ này do Ủy ban Basel quy định, xem xét các rủi ro tài chính như rủi ro ngoại hối, tín dụng và lãi suất, bằng cách gán trọng số cho tài sản của ngân hàng CAR thể hiện tỷ lệ giữa giá trị sổ sách của vốn tự có (chủ yếu là vốn cấp 1 và 2) so với giá trị sổ sách của tài sản có điều chỉnh rủi ro; tỷ lệ cao hơn cho thấy mức độ an toàn vốn cao hơn Hiệp định Basel I năm 1992 đã áp dụng tỷ lệ an toàn vốn cho tài sản điều chỉnh.

Tỷ lệ an toàn vốn (RR) của các ngân hàng thương mại (NHTM) yêu cầu vốn tự có phải đạt ít nhất 4% tổng tài sản có rủi ro Theo các tiêu chuẩn Basel II và III, tỷ lệ này đã được điều chỉnh tăng lên 8%.

Chất lượng tài sản có của ngân hàng thương mại (NHTM) là yếu tố then chốt ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng, trong đó rủi ro tín dụng (TD) đóng vai trò quan trọng Rủi ro TD phụ thuộc vào chất lượng tài sản mà NHTM nắm giữ, bao gồm các rủi ro cụ thể và xu hướng của các khoản nợ xấu Đặc biệt, lợi nhuận của người vay, nhất là trong khu vực doanh nghiệp, cũng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tài sản của ngân hàng.

Chất lượng tài sản của các ngân hàng thương mại (NHTM) có thể được đánh giá qua nhiều yếu tố, bao gồm mức độ tập trung cho vay theo ngành và khu vực, chẳng hạn như lĩnh vực nông nghiệp thường phải đối mặt với rủi ro thời tiết Cấu trúc khách hàng cũng đóng vai trò quan trọng, với sự phân chia giữa cá nhân, hộ kinh doanh và doanh nghiệp Ngoài ra, chất lượng và giá trị tài sản thế chấp, mục đích vay, tỷ lệ dự phòng rủi ro cho vay cũng cần được xem xét Rủi ro chính trị, như các chương trình xóa nợ hay trần lãi suất, có thể ảnh hưởng đến quyết định cho vay vào những lĩnh vực hoặc nhóm người cụ thể.

Quản lý là yếu tố then chốt quyết định hiệu suất của ngân hàng, mặc dù khó đo lường Để đánh giá chất lượng quản lý, có thể sử dụng một số chỉ số như tỷ lệ tăng trưởng tổng tài sản, cho vay và danh mục đầu tư Hiệu suất hoạt động có thể được đo bằng tỷ lệ chi phí hoạt động trên thu nhập, chi phí mỗi nhân viên và thu nhập mỗi nhân viên Thị phần cũng là một chỉ số quan trọng, bao gồm thị phần tiền gửi và thị phần tín dụng Hệ thống vận hành, như mức độ tự động hóa và nhận diện thương hiệu, cùng với lợi ích cổ đông, bao gồm mức độ tuân thủ mục tiêu chiến lược và chính sách chi trả cổ tức, đều góp phần phản ánh chất lượng quản lý trong ngân hàng.

Khả năng sinh lời là yếu tố quan trọng trong việc đánh giá hiệu suất của ngân hàng thương mại Ngân hàng không có lợi nhuận ổn định có thể đối mặt với nguy cơ mất khả năng thanh toán, trong khi lợi nhuận cao bất thường có thể chỉ ra rủi ro quá mức Các chỉ số thể hiện khả năng sinh lời bao gồm lợi nhuận trên tài sản, lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, tỷ lệ chênh lệch lãi suất, tỷ lệ thu nhập chênh lệch và tỷ suất lợi nhuận gộp Hệ số biên lợi nhuận hoạt động và tỷ suất lợi nhuận ròng là những chỉ số phổ biến được sử dụng để đánh giá hiệu quả tài chính của ngân hàng thương mại.

Rủi ro thanh khoản là một mối đe dọa lớn đối với khả năng thanh toán của các tổ chức tài chính, đặc biệt là các ngân hàng thương mại (NHTM) Rủi ro này xuất hiện khi người gửi tiền muốn rút tiền, buộc NHTM phải vay thêm hoặc bán tài sản với giá thấp để đáp ứng nhu cầu rút tiền Nếu giá bán tài sản không đủ, ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán Hơn nữa, rủi ro thanh khoản cũng gia tăng khi có sự tăng đột ngột trong nhu cầu vay mượn, trong khi ngân hàng không có đủ vốn để đáp ứng.

Các ngân hàng thương mại có thể tăng cường huy động vốn bằng cách giảm lượng tiền mặt, vay thêm trên thị trường tiền tệ và bán các tài sản với giá thấp hơn dự kiến Rủi ro thanh khoản bên trách nhiệm và rủi ro thanh khoản bên tài sản đều có tác động tiêu cực đến hoạt động tài chính của ngân hàng thương mại.

Việc duy trì vị thế thanh khoản cao giúp giảm thiểu rủi ro, nhưng cũng ảnh hưởng tiêu cực đến các tổ chức tài chính vì lợi nhuận từ tài sản có tính thanh khoản cao gần như bằng không Do đó, các TCTC cần đánh đổi giữa thanh khoản và lợi nhuận để duy trì hiệu suất tốt Mức độ đánh giá tính thanh khoản của NHTM có thể được đo lường qua phân tích cung và cầu thanh khoản, với tổng thanh khoản ròng được tính bằng cách khấu trừ tổng sử dụng thanh khoản khỏi tổng nguồn thanh khoản Ngoài ra, các tỷ lệ đánh giá thanh khoản như tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn, tỷ lệ cho vay/tiền gửi và tỷ lệ bảo đảm thanh khoản cũng cần được xem xét, trong đó tài sản có tính thanh khoản cao phải lớn hơn hoặc bằng tài sản nợ phải thanh toán trong vòng 30 ngày (ADB, 2018).

Độ nhạy cảm rủi ro của các ngân hàng thương mại (NHTM) ngày càng gia tăng do sự đa dạng hóa trong các hoạt động như cho vay, giao dịch ngoại hối và đầu tư chứng khoán Những hoạt động này phải đối mặt với nhiều loại rủi ro thị trường, bao gồm rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá hối đoái, và rủi ro giá tài sản và hàng hóa Khi hiệu suất của NHTM nhạy cảm hơn với rủi ro thị trường, điều này cho thấy mức độ nguy hiểm cao hơn so với các NHTM ít nhạy cảm hơn Các chỉ số như rủi ro ngoại hối, rủi ro lãi suất, rủi ro giá cổ phiếu và rủi ro giá hàng hóa là những yếu tố quan trọng phản ánh độ nhạy cảm này.

Cẩm nang Đánh giá NHTM được ban hành bởi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã mô tả năm mức xếp hạng tổng hợp như sau (Siems và Barr, 1998).

CAMELS = 1 : một NH về cơ bản là có hiệu suất hoạt động tốt trong mọi khía cạnh.

CAMELS = 2 : một NH nhìn chung là họat động tốt tuy nhiên có một vài điểm yếu cần khắc phục.

CAMELS = 3 : một NH có điểm yếu về tài chính, hoạt động hoặc chưa bảo đảm tính tuân thủ gây ra sự lo ngại trong quá trình đánh giá.

CAMELS = 4 : một NH có điểm yếu tài chính nghiêm trọng dẫn đến có thể làm giảm khả năng hoạt động và tồn tại trong tương lai.

CAMELS = 5 : một NH có điểm yếu tài chính quan trọng khiến cho dự báo khả năng thất bại rất cao trong thời gian tới.

Mô hình CAMELS của các ngân hàng có mức độ bảo mật cao do chứa đựng thông tin nội bộ nhạy cảm, thu thập từ quá trình điều tra riêng của từng ngân hàng, bên cạnh thông tin tài chính công khai Vì lý do này, mô hình CAMELS thường chỉ được sử dụng cho các quyết định quản lý ngân hàng và không được công khai, chỉ được biết đến bởi quản lý cấp cao và nhân viên giám sát tại các bộ phận liên quan.

2.2.2 Một số tiêu chí đánh giá kết quả hoạt động của ngân hàng

2.2.2.1 Đánh giá kết quả hoạt động tài chính (financial performance) của ngân hàng

Piyu (1992) cho rằng các chỉ tiêu chính để đánh giá vững chắc tài chính của ngân hàng thương mại (NHTM) và chất lượng quản lý rất quan trọng Elizabeth và Ellot (2004) nhấn mạnh rằng các chỉ số tài chính như tỷ lệ lãi suất, lợi nhuận trên tài sản và mức độ an toàn vốn có mối quan hệ tích cực với chất lượng dịch vụ khách hàng Việc đánh giá kết quả hoạt động thông qua các chỉ tiêu tài chính là cần thiết, bên cạnh việc xây dựng báo cáo tài chính bao gồm bảng cân đối kế toán, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, báo cáo thu nhập, báo cáo thay đổi vốn chủ sở hữu và thuyết minh báo cáo tài chính (Salhuteru & Wattimena, 2015).

Tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động ngân hàng

2.3.1 Tác động đến kết quả tài chính của ngân hàng

- Dịch vụ ngân hàng điện tử góp phần tăng doanh thu, giảm chi phí hoạt động ngân hàng

Dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) có ảnh hưởng đáng kể đến kết quả hoạt động của ngân hàng, thể hiện qua các chỉ tiêu tài chính như tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE), tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA), tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư (ROI), thu nhập ngoài lãi và tỷ suất lãi trung gian (NIM) Theo lý thuyết, NHĐT được kỳ vọng sẽ gia tăng doanh thu dịch vụ, giảm chi phí nhân công và chi phí cho mạng lưới chi nhánh nhờ vào sự hỗ trợ của công nghệ và mạng không dây, từ đó nâng cao lợi nhuận cho ngân hàng (Shah và Clarke, 2009).

Nghiên cứu cho thấy việc bổ sung kênh phân phối Internet vào danh mục kênh phân phối dịch vụ ngân hàng có thể làm tăng đáng kể thu nhập của ngân hàng, chủ yếu thông qua việc gia tăng thu nhập ngoài lãi từ các loại phí dịch vụ như thẻ, thanh toán, chuyển tiền và chuyển đổi ngoại tệ Ngoài ra, các ngân hàng cũng có thể tăng doanh thu bằng cách phân phối các dịch vụ bán chéo từ các ngân hàng khác, thường là các ngân hàng nước ngoài Điều này cho thấy dịch vụ ngân hàng điện tử có tác động tích cực đến doanh thu hoạt động của ngân hàng bán lẻ, giúp mở rộng nhanh chóng các nguồn thu ngoài lãi.

Dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) mang lại nhiều lợi ích rõ rệt, bao gồm việc giảm chi phí hoạt động cho ngân hàng như chi phí văn phòng, điện nước và nhân công Nhờ vào công nghệ điện tử, ngân hàng có thể cung cấp dịch vụ với chi phí thấp hơn, tự động hóa và đơn giản hóa quy trình nghiệp vụ, từ đó giảm nhu cầu giao dịch trực tiếp Bên cạnh đó, NHĐT cũng giúp cải thiện tỷ lệ CASA (tỷ lệ tiền gửi thanh toán/tổng tiền gửi), giảm chi phí huy động vốn cho ngân hàng Các ngân hàng có thể tiết kiệm chi phí đầu vào bằng cách thu hút tiền gửi thanh toán và tiền gửi không kỳ hạn với lãi suất chỉ từ 0,1-0,5%/năm, thấp hơn nhiều so với lãi suất huy động vốn có kỳ hạn Hệ thống thanh toán hiện đại và số lượng giao dịch chuyển tiền qua tài khoản tăng cao sẽ giúp ngân hàng nâng cao tỷ lệ CASA và hiệu quả kinh doanh.

Vấn đề liệu các khoản thu nhập từ dịch vụ ngân hàng điện tử có đủ để đảm bảo lợi tức đầu tư hợp lý (ROI) đang gây tranh cãi Nghiên cứu tại các nước đang phát triển cho thấy chi phí đầu tư cho dịch vụ ngân hàng điện tử, tích hợp hệ thống và các biện pháp an ninh rất cao, dẫn đến doanh thu từ dịch vụ này chưa mang lại lợi nhuận rõ rệt cho ngân hàng Tuy nhiên, các nghiên cứu đều đồng thuận rằng chi phí cho mỗi giao dịch của dịch vụ ngân hàng điện tử giảm nhanh hơn so với dịch vụ ngân hàng truyền thống khi đạt được một khối lượng khách hàng lớn Điều này cho thấy chi phí cố định của dịch vụ ngân hàng điện tử cao hơn nhiều so với chi phí biến đổi, và khi cơ sở khách hàng mở rộng, chi phí mỗi giao dịch sẽ ngày càng thấp hơn.

- Dịch vụ ngân hàng điện tử tác động tích cực đến lợi nhuận của ngân hàng trong dài hạn

Nhiều nghiên cứu đã phân tích ảnh hưởng của dịch vụ ngân hàng đầu tư đến lợi nhuận của ngân hàng, trong đó có nghiên cứu của Merenzi, Hichman và Dehler.

(2000) Nghiên cứu này dự báo lợi nhuận cho các tổ chức thực hiện các ứng dụng

Ngân hàng (NH) cung cấp nhiều dịch vụ như thanh toán hóa đơn điện tử, quản lý tiền mặt, tổng hợp tài khoản, cổng dịch vụ tài chính thương mại điện tử (TMĐT) và ứng dụng cho vay trực tuyến Mô hình nghiên cứu nhằm kiểm tra mối liên hệ giữa lợi nhuận và các yếu tố như quy mô, số lượng khách hàng (KH) và tài sản, cũng như việc sử dụng dịch vụ NHĐT cho thanh toán hóa đơn, TMĐT và cho vay trực tuyến Lợi nhuận được đo bằng giá trị hiện tại ròng và tỷ suất hoàn vốn nội bộ trong 5 năm, đồng thời xem xét thói quen chuyển đổi của KH từ các kênh truyền thống sang trực tuyến Kết quả cho thấy, mặc dù chưa chiếm lĩnh hoàn toàn, nhưng các chỉ số cho thấy ứng dụng dịch vụ NHĐT mang lại lợi nhuận tích cực cho NH.

Nghiên cứu của Siam (2006) cho thấy dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) có tác động tích cực đến lợi nhuận của các ngân hàng tại Jordan trong giai đoạn 1999-2004, với mối tương quan có ý nghĩa thống kê Tương tự, Ongare (2013) đã phân tích ảnh hưởng của dịch vụ NHĐT đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại (NHTM) ở Kenya, sử dụng các biến như số lượng ATM, thẻ tín dụng và mức độ sử dụng ngân hàng di động, internet và chuyển tiền điện tử Nghiên cứu này cho thấy rằng dịch vụ NHĐT có ảnh hưởng mạnh mẽ và đáng kể đến lợi nhuận của các NHTM tại Kenya, khẳng định mối quan hệ tích cực giữa dịch vụ NHĐT và hoạt động ngân hàng.

- Dịch vụ ngân hàng điện tử tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động tài chính của ngân hàng

Trong nghiên cứu của Hernando và Nieto (2007), tác giả đã phân tích tác động của việc giao dịch dịch vụ ngân hàng qua trang web đến hiệu quả tài chính của 72 ngân hàng thương mại tại Tây Ban Nha trong giai đoạn 1994-2002 Nghiên cứu sử dụng các tỷ số tài chính để đo lường hoạt động kinh doanh và hiệu suất, bao gồm cho vay, tiền gửi và chi phí hoạt động Kết quả cho thấy rằng việc áp dụng trang web giao dịch có ảnh hưởng tích cực đến hiệu suất của ngân hàng, với sự cải thiện về khả năng sinh lời rõ rệt sau một năm rưỡi về ROA và ba năm về ROE.

Mahotra và Singh (2007) đã nghiên cứu tác động của dịch vụ ngân hàng đầu tư đối với hiệu suất và rủi ro của ngân hàng tại Ấn Độ, xem xét một bộ dữ liệu toàn diện để đưa ra những kết luận quan trọng.

10 biện pháp tài chính hiệu quả giúp tác giả đánh giá nghiêm túc hiệu suất của ngân hàng Nghiên cứu chuyên sâu về tác động của Internet đối với ngân hàng đã chỉ ra rằng các chiến lược kinh doanh, quy trình hoạt động và hiệu quả tài chính đều bị ảnh hưởng Kết quả cho thấy các ngân hàng triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử có lợi nhuận cao hơn và chi phí hoạt động thấp hơn so với các ngân hàng khác.

NH không có ứng dụng dịch vụ NHĐT.

Nghiên cứu của Oyewole và cộng sự (2013) đã phân tích ảnh hưởng của dịch vụ ngân hàng đầu tư đến hoạt động ngân hàng tại Nigeria, dựa trên dữ liệu từ năm 1999.

Nghiên cứu năm 2010 của 8 ngân hàng thương mại cho thấy dịch vụ ngân hàng đầu tư có ảnh hưởng tích cực đáng kể đến hiệu suất ngân hàng, được đo lường qua chỉ số ROA và NIM Tuy nhiên, nghiên cứu không phát hiện tác động nào đối với chỉ số ROE.

Nghiên cứu năm 2014 đã chỉ ra rằng dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) có tác động rõ rệt đến tỷ suất lợi nhuận, ROA và ROE của các ngân hàng thương mại (NHTM) tại Pakistan Cụ thể, các ngân hàng áp dụng dịch vụ NHĐT gần đây cho thấy sự cải thiện đáng kể về ROA và ROE, trong khi những ngân hàng triển khai dịch vụ này sớm hơn có ảnh hưởng tích cực đến ROE và NIM, nhưng ít tác động đến ROA Từ các phát hiện này, nghiên cứu khuyến nghị rằng các ngân hàng nên xem dịch vụ NHĐT như một chiến lược hiệu quả để tiết kiệm chi phí và cạnh tranh với các ngân hàng trong và ngoài nước, miễn là họ có thể kiểm soát tốt các rủi ro liên quan.

Mặc dù nhiều nghiên cứu đã chỉ ra tác động tích cực của dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) đối với hoạt động của các ngân hàng, một số nghiên cứu lại phát hiện tác động tiêu cực Al-Smadi và Al-Wabel (2011) đã khảo sát 15 ngân hàng Jordan trong giai đoạn 2000 - 2010, cho thấy hiệu suất ngân hàng, đo bằng ROE, bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch vụ NHĐT Tuy nhiên, nghiên cứu này không xem xét ROE sau một năm áp dụng dịch vụ NHĐT, trong khi việc ứng dụng công nghệ thông tin vào ngân hàng thường phát sinh chi phí cao, cần thời gian để hồi phục Tương tự, Onay và Ozsoz (2013) đã phân tích dữ liệu từ 18 ngân hàng bán lẻ tại Thổ Nhĩ Kỳ trong giai đoạn 1990 - 2008 và chỉ ra rằng việc áp dụng dịch vụ NHĐT có ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận sau 2 năm Theo các tác giả, lý do cho tác động tiêu cực này là do dịch vụ NHĐT làm gia tăng cạnh tranh và dẫn đến thu nhập lãi thấp hơn.

Tác động của dịch vụ ngân hàng đầu tư (NHĐT) đến kết quả tài chính của các ngân hàng, đặc biệt qua các chỉ số ROA và ROE, là khá toàn diện và chủ yếu tích cực Tuy nhiên, một số nghiên cứu cũng chỉ ra ảnh hưởng tiêu cực hoặc không rõ ràng, tạo nên một cái nhìn đa dạng cho các học giả, nhà nghiên cứu và nhà quản lý khi phân tích tác động của dịch vụ NHĐT đối với hoạt động tài chính của các ngân hàng.

2.3.2 Tác động đến kết quả phi tài chính của ngân hàng

Kinh nghiệm quốc tế trong phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử hướng tới mô hình ngân hàng số nhằm nâng cao kết quả hoạt động ngân hàng

tử hướng tới mô hình ngân hàng số nhằm nâng cao kết quả hoạt động ngân hàng

2.4.1 Về định danh số và xây dựng hệ sinh thái số

 Kinh nghiệm của Ấn Độ

Định danh số là yếu tố then chốt trong chuyển đổi số dịch vụ tài chính ngân hàng, đặc biệt là thách thức lớn đối với các nước đang phát triển do thiếu dữ liệu lưu trữ định danh chính thống Kinh nghiệm từ Ấn Độ với chương trình quốc gia India Stack đã thành công trong việc xây dựng định danh số, tạo ra bước đột phá trong hệ sinh thái kỹ thuật số và khởi nghiệp Chương trình này không chỉ giải quyết các thách thức mà Chính phủ Ấn Độ phải đối mặt mà còn mở ra cơ hội phát triển cho hệ sinh thái kỹ thuật số Những bài học từ quá trình phát triển hệ sinh thái kỹ thuật số ở Ấn Độ có thể là nguồn cảm hứng quý báu cho các nước đang phát triển như Việt Nam.

Trước khi triển khai chương trình India Stack, Ấn Độ đã phải đối mặt với hệ thống dịch vụ công không đồng đều và kém hiệu quả Là quốc gia đông dân thứ hai thế giới với hơn 1,3 tỷ người, trong đó 65% sống ở khu vực nông thôn và hầu như không tiếp cận được công nghệ, Ấn Độ gặp nhiều thách thức trong việc cung cấp các dịch vụ y tế, giáo dục và thực phẩm cho toàn bộ công dân Tính bao trùm là vấn đề lớn nhất của Ấn Độ, khi các chính sách trước đây chưa bao giờ có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu của tất cả các tầng lớp dân cư và các vùng miền khác nhau.

Hệ thống dịch vụ công của Ấn Độ hiện đang gặp nhiều vấn đề về hiệu quả và gian lận Người dân phải đến đúng văn phòng quản lý cơ giới nơi họ đăng ký giấy phép lái xe ban đầu để gia hạn, do hệ thống danh tính công dân gắn với vị trí cố định Thông tin này được lưu trữ cục bộ tại từng cơ quan địa phương, dẫn đến khó khăn trong việc truy xuất và sử dụng thông tin giữa các cơ quan khác nhau Sự không đồng đều trong tính bao trùm thông tin đã gây ra lãng phí thời gian và tiền bạc, đồng thời tạo điều kiện cho các vấn đề gian lận và tham nhũng trong dịch vụ công.

Chính phủ Ấn Độ nhận thức rõ sự cần thiết phải cải cách hệ thống cung cấp dịch vụ công, chuyển sang một mô hình mới với tính di động cao, kiểm soát truy cập và khả năng chia sẻ thông tin Giải pháp cho vấn đề này là tích hợp kỹ thuật số, dẫn đến sự ra đời của chương trình Aadhaar vào năm 2009, một hệ thống nhận dạng kỹ thuật số sinh trắc học Hệ thống này bao gồm thông tin cơ bản như tên, địa chỉ, ngày sinh, giới tính, ảnh chân dung và dữ liệu sinh trắc học như dấu vân tay và quét mống mắt, giúp mỗi công dân có được một ID kỹ thuật số duy nhất và vĩnh viễn gồm 12 chữ số ID này cho phép xác nhận danh tính dễ dàng mà không cần tài liệu chứng minh, chỉ cần sử dụng ID và quét vân tay Tuy nhiên, Aadhaar chỉ là bước khởi đầu trong chiến lược xây dựng một hệ sinh thái kỹ thuật số và kinh tế phi tiền mặt tại Ấn Độ.

Vào năm 2012, Ấn Độ đã phát triển chương trình India Stack dựa trên nền tảng Aadhaar, đây là hệ thống API lớn nhất thế giới với bốn lớp công nghệ: Lớp Phi hiện diện cho phép định danh mọi cá nhân ở bất kỳ đâu; Lớp Phi giấy tờ với eKYC, eSign và Digital Locker cung cấp giải pháp xác minh và lưu trữ thông tin; Lớp Phi tiền mặt với UPI cho phép giao dịch chuyển tiền an toàn và nhanh chóng; và Lớp Đồng ý giúp người dùng kiểm soát việc chia sẻ dữ liệu cá nhân India Stack đã tạo ra sự thay đổi lớn trong cách chính phủ, doanh nghiệp và người dân tương tác, cho phép mở tài khoản ngân hàng ngay lập tức thông qua quy trình xác minh eKYC.

NH Axis là NH Ấn Độ đầu tiên cung cấp một quy trình eKYC vào năm

Từ năm 2013, thời gian mở tài khoản ngân hàng tại Ấn Độ đã giảm từ 7-10 ngày xuống chỉ còn 1 ngày nhờ quy trình eKYC Hiện nay, nhiều ngân hàng truyền thống và ngân hàng thanh toán cung cấp dịch vụ mở tài khoản ngay lập tức Phê duyệt khoản vay cũng có thể thực hiện trực tuyến khi khách hàng đồng ý cho ngân hàng truy cập thông tin cần thiết qua Lớp đồng ý và công cụ Digital Locker Điều này cũng áp dụng cho các dịch vụ trong lĩnh vực bệnh viện, du lịch và khách sạn Hơn nữa, các khoản vay, giải ngân và trợ cấp được chuyển trực tiếp đến người thụ hưởng thông qua công cụ UPI, rất hữu ích cho những người sống ở nông thôn chưa có kết nối internet, không biết chữ và không sở hữu điện thoại thông minh Đây sẽ là bài học quý giá cho các quốc gia như Việt Nam trong việc hoàn thiện hệ thống dịch vụ công và phát triển hệ sinh thái kỹ thuật số.

Bangladesh có một mạng lưới cáp quang tốc độ cao trải dài 1.800 km, bao phủ hầu hết các khu vực quan trọng, và có thể trở thành mạng trục chính cho hệ thống NHĐT tại đây Các nhà khai thác di động như Grameen Phone và Ranks ITT đã tận dụng mạng cáp quang để cung cấp dịch vụ đến cả những vùng nông thôn Đáng chú ý, nhiều ngân hàng tư nhân và nước ngoài cũng đã sử dụng mạng này để thực hiện giao dịch trực tuyến, dịch vụ ATM và POS.

Dịch vụ Internet chính thức xuất hiện tại Bangladesh vào năm 1996, đánh dấu bước ngoặt quan trọng khi quốc gia này kết nối với hệ thống cáp ngầm quốc tế, gia nhập vào siêu xa lộ thông tin toàn cầu.

Từ năm 2006 đến 2010, đã có 159 nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) kết nối với hệ thống, trong đó 64 tổ chức đang hoạt động tích cực (Baten và Kamil, 2010) Trong bối cảnh này, nhằm thực hiện quyết định của chính phủ về việc xây dựng Bangladesh kỹ thuật số, ngành CNTT dự kiến sẽ phát triển nhanh chóng, đưa tất cả các dịch vụ lên Internet, từ đó mở rộng phạm vi dịch vụ ngân hàng điện tử trên toàn quốc.

Ngân hàng Trung ương Bangladesh đã triển khai nhiều dự án từ năm 2009 nhằm hiện đại hóa hệ thống thanh toán quốc gia và phát triển mạng trực tuyến giữa các ngân hàng Tất cả các ngân hàng truyền thống đều phải kết nối với Ngân hàng Trung ương, tạo điều kiện cho các giao dịch trực tuyến liên ngân hàng, góp phần phát triển mô hình ngân hàng điện tử tại Bangladesh Gần đây, chính phủ Bangladesh đã chú trọng xây dựng một quốc gia kỹ thuật số, thiết lập công viên công nghệ thông tin, tăng cường đầu tư vào hạ tầng CNTT, miễn thuế cho thiết bị ngoại vi máy tính, cùng với chương trình tự động hóa ngành ngân hàng do Ngân hàng Bangladesh dẫn dắt Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng trong việc cải thiện dịch vụ khách hàng đã thúc đẩy triển vọng cho dịch vụ ngân hàng điện tử tại Bangladesh.

2.4.2 Về đảm bảo an toàn bảo mật

 Kinh nghiệm của Trung Quốc

Thế hệ mô hình ngân hàng điện tử đầu tiên được Ngân hàng China Merchant giới thiệu vào năm 1997, với hình thức thanh toán qua Internet Từ năm 1999 đến 2001, các dịch vụ ngân hàng trực tuyến như thanh toán hóa đơn điện tử và quản lý quỹ đã được cung cấp cho khách hàng bán lẻ và doanh nghiệp Tuy nhiên, vào thời điểm đó, các ngân hàng vẫn chưa thiết lập hệ thống phòng ngừa và kiểm soát rủi ro hiệu quả.

Do tính chất mở và tương tác của công nghệ, an ninh trong dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) trở thành thách thức lớn, đặc biệt tại các quốc gia đang phát triển như Trung Quốc Việc lạm dụng thông tin cá nhân cho các hoạt động NHĐT và các vi phạm liên quan đến an ninh mạng đang ngày càng gia tăng, trở thành mối quan tâm cấp bách đối với tất cả các ngân hàng tại Trung Quốc.

Mô hình NHĐT thế hệ thứ hai đã nâng cao độ bảo mật và chính xác trong quản lý tài sản, đồng thời cung cấp các chức năng hỗ trợ cho hoạt động đầu tư như mua bán cổ phiếu, tiền tệ và quỹ tương hỗ Các chức năng cơ bản như thanh toán hóa đơn và chuyển tiền cũng được cải thiện để tăng tính tiện lợi Đặc biệt, từ năm 2002, mã thông báo bảo mật USB “U Shield” đã được triển khai nhằm nâng cao độ tin cậy và bảo mật cho dịch vụ NHĐT Hiện nay, các ngân hàng Trung Quốc đã áp dụng công nghệ nhận diện và xác thực giao dịch như sinh trắc học vân tay, nhận diện khuôn mặt và giọng nói để đảm bảo an ninh cho các dịch vụ thanh toán số Bên cạnh đó, vấn đề an ninh mạng được chú trọng, với các biện pháp như tường lửa thế hệ mới và phần mềm ngăn chặn mã độc nhằm bảo vệ dữ liệu và ngăn chặn các cuộc tấn công mạng.

Chính phủ Malaysia đã đưa ra các yêu cầu nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng điện tử Các tổ chức ngân hàng phải tương tác trực tiếp với khách hàng trước khi mở tài khoản hoặc gia hạn tín dụng Họ cũng cần thiết lập các biện pháp xác định khách hàng khi truy cập vào các trang web của bên thứ ba và áp dụng quy trình nghiêm ngặt trong việc xác minh khách hàng Ngoài ra, khi cung cấp dịch vụ ngân hàng điện tử, các tổ chức ngân hàng phải thực hiện cơ chế giám sát và báo cáo để phát hiện các hoạt động rửa tiền tiềm ẩn Những yêu cầu này giúp Ngân hàng Trung ương bảo đảm tính toàn vẹn của hệ thống tài chính và ngăn chặn lạm dụng từ các hoạt động rửa tiền.

Ngân hàng Trung ương Negara Malaysia thiết lập quy định và giám sát rủi ro công nghệ thông qua ba khía cạnh chính Đầu tiên, ngân hàng tiến hành nghiên cứu và hợp tác với các tổ chức khác, bao gồm ngân hàng trung ương, nhà cung cấp công nghệ và các tổ chức đa phương như SEACEN và BIS Thứ hai, ngân hàng ban hành các hướng dẫn và tiêu chuẩn tối thiểu cho hoạt động ngân hàng, đặc biệt là trong việc quản lý rủi ro công nghệ.

KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ

Ngày đăng: 27/08/2021, 08:04

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
3. Bộ Tài chính (2017), Tài liệu hội thảo “Cách mạng công nghiệp 4.0 và ngành tài chính” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cách mạng công nghiệp 4.0 vàngành tài chính
Tác giả: Bộ Tài chính
Năm: 2017
4. Trương Đức Bảo (2003), “Ngân hàng điện tử và các phương tiện giao dịch điện tử”- Tạp chí tin học ngân hàng số 4(58) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ngân hàng điện tử và các phương tiện giaodịch điện tử
Tác giả: Trương Đức Bảo
Năm: 2003
15. Pham Long (2010), “A conceptual framework for e-banking service quality in Vietnam”, Second Annual General Business Conference Proceedings, Sam Houston State University, pp 119-133 Sách, tạp chí
Tiêu đề: A conceptual framework for e-banking servicequality in Vietnam
Tác giả: Pham Long
Năm: 2010
17. Trần Thanh Liêm (2004) “Các kênh giao dịch của mô hình ngân hàng bán lẻ”, Tạp chí Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các kênh giao dịch của mô hình ngân hàngbán lẻ
21. Trần Hoàng Ngân (2004) “Vài nét về sự phát triển NHĐT trên thế giới”,Tạp chí ngân hàng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vài nét về sự phát triển NHĐT trên thế giới
32. Nguyễn Xuân Thành (2005) “Những vấn đề quan tâm nhất hiện nay của các nhà quản lý ngân hàng hiện đại”, Tạp chí ngân hàng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những vấn đề quan tâm nhất hiện nay củacác nhà quản lý ngân hàng hiện đại
1. Trương Thị Vân Anh và Lê Văn Huy (2008): Mô hình nghiên cứu chấp nhận E Banking tại Việt Nam, Nghiên cứu kinh tế - Số 362- tháng 7/2008 Khác
2. Báo cáo tài chính hợp nhất và báo cáo thường niên của các ngân hàng NHTM Việt Nam các năm 2014-2018 Khác
5. Tạ Quang Đôn (2006), Hoàn thiện khuôn khổ thể chế đối với dịch vụ ngân hàng hiện đại, Chiến lược phát triển dịch vụ Ngân hàng đến năm 2010 và tầm nhìn 2020 Khác
6. PGS, TS Phạm Tiến Đạt và Lưu Ánh Nguyệt (2019): Ngân hàng số - Triển vọng và phát triển trong tương lai, Tạp chí Ngân hàng số 2+3/2019 Khác
7. Phan Thị Thu Hà (2009), Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Giao thông vận tải Khác
8. Phạm Xuân Hòe (2014) Ngân hàng Việt Nam với cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những định hướng tiếp cận. NXB Đại học KTQD Khác
9. Phạm Thu Hương (2012): Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án Tiến sỹ, Trường Đại học Ngoại Thương Khác
10. Ngô Thị Liên Hương (2012): Đa dạng hoá dịch vụ tại ngân hàng thương mại Việt Nam, Luận án Tiến sỹ, Đại học Kinh tế quốc dân Khác
11. Trịnh Thanh Huyền (2012): Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng thương mại ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ, Học viện Tài chính Khác
12. Trịnh Thị Mai Hoa (2006), Phát triển thị trường dịch vụ ngân hàng trong điều kiện hội nhập kinh tế của Việt Nam – Chiến lược phát triển dịch vụ Ngân hàng đến năm 2010 và tầm nhìn 2020 Khác
13. Học viện Ngân hàng (2020), Kỷ yếu hội thảo quốc gia : Thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế số Khác
14. Hiệp hội TMĐT Việt Nam, Báo cáo Chỉ số TMĐT Việt Nam các năm 2014-2019 Khác
16. Nguyễn Danh Lương (2003): Những giải pháp nhằm phát triển hình thức thanh toán thẻ ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ, Học viện Ngân hàng Khác
18. Luật GDĐT số 51/2005/QH11do Quốc hội ban hành ngày 29/11/2005 19. Nguyễn Văn Minh và các tác giả (2011), TMĐT căn bản, NXB Thống kê Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w