Đánh giá kết quả can thiệp cải thiện kiến thức, thực hành phòng chống bệnh taychânmiệng của bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại xã An Lão, Bình Lục, Hà Nam. Đánh giá kết quả can thiệp cải thiện kiến thức, thực hành phòng chống bệnh taychânmiệng của bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại xã An Lão, Bình Lục, Hà Nam. Đánh giá kết quả can thiệp cải thiện kiến thức, thực hành phòng chống bệnh taychânmiệng của bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại xã An Lão, Bình Lục, Hà Nam. Đánh giá kết quả can thiệp cải thiện kiến thức, thực hành phòng chống bệnh taychânmiệng của bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại xã An Lão, Bình Lục, Hà Nam. Đánh giá kết quả can thiệp cải thiện kiến thức, thực hành phòng chống bệnh taychânmiệng của bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại xã An Lão, Bình Lục, Hà Nam.
TỔNG QUAN
Giới thiệu về bệnh tay-chân-miệng
1.1.1.Khái niệm bệnh tay-chân-miệng
Bệnh tay chân miệng (TCM) là một bệnh truyền nhiễm do virus đường ruột gây ra, thường gặp ở trẻ em dưới 5 tuổi, đặc biệt là dưới 3 tuổi Triệu chứng bao gồm sốt trên 37,5°C, biếng ăn, mệt mỏi, đau họng, loét miệng, và bọng nước ở lòng bàn tay, lòng bàn chân, vùng mông và đầu gối Hầu hết các trường hợp tự khỏi mà không cần điều trị, nhưng một số ít có thể nặng hơn và gây ra các triệu chứng thần kinh như viêm màng não, viêm não hoặc liệt do Enterovirus Đặc biệt, Enterovirus 71 có thể gây ra các biểu hiện lâm sàng nghiêm trọng và có nguy cơ tử vong.
Bệnh có thể xuất hiện rải rác hoặc bùng phát thành dịch nhỏ vào mùa hè, đặc biệt ở khu vực đông dân cư với điều kiện vệ sinh kém Triệu chứng ban đầu thường là sốt nhẹ, chán ăn, mệt mỏi, đau họng và tiêu chảy Sau một đến hai ngày, vết loét trong miệng và phát ban với mụn xuất hiện chủ yếu trên tay và chân Bệnh lây lan nhanh nhất trong tuần đầu tiên và vi rút có thể được tìm thấy trong phân của người nhiễm bệnh.
Bệnh tay chân miệng (TCM) là do các vi rút thuộc nhóm vi rút đường ruột gây ra, trong đó Coxsackievirus A16 là tác nhân phổ biến nhất Ngoài ra, Enterovirus 71 và một số vi rút đường ruột khác như Coxsackievirus A từ A2 đến A8, A10, A12, A14 và Coxsackievirus B từ B1 đến B5 cũng có thể gây bệnh Coxsackievirus A16 và Enterovirus 71 thường gặp nhất và có thể gây ra các biến chứng nghiêm trọng, thậm chí tử vong ở trẻ em.
Trong những năm gần đây, khu vực Đông Á và Đông Nam Á đã ghi nhận sự bùng phát dịch bệnh tay-chân-miệng (TCM) do virus Enterovirus 71 Khác với các chủng Coxsackievirus truyền thống, Enterovirus 71 có khả năng gây ra nhiều biến chứng nghiêm trọng, bao gồm viêm não, viêm màng não, viêm cơ tim, viêm phổi và thậm chí có thể dẫn đến tử vong.
1.1.2.2 Khả năng tồn tại của vi rút ở môi trường bên ngoài
Vi rút có thể bị đào thải ra môi trường qua phân, dịch hắt hơi và sổ mũi Nhiệt độ 56 độ C trong 30 phút, tia cực tím và tia gamma có khả năng làm bất hoạt vi rút Ngoài ra, dung dịch Sodium hypochlorite 2% (nước Javel) và Chlorine tự do cũng có tác dụng tiêu diệt vi rút, trong khi các chất hòa tan lipid như cồn, chloroform, phenol và ether ít hoặc không làm bất hoạt được vi rút Ở nhiệt độ lạnh 4 độ C, vi rút có thể tồn tại trong vài tuần.
Bệnh tay-chân-miệng là bệnh thường gặp ở trẻ em dưới 5 tuổi, với các triệu chứng ban đầu như sốt nhẹ đến trên 39 độ C, biếng ăn, mệt mỏi và đau họng Sau 1-2 ngày, trẻ có thể bắt đầu cảm thấy đau miệng, với các chấm đỏ xuất hiện trong họng, sau đó phát triển thành bọng nước và loét Tổn thương có thể thấy ở lưỡi, nướu và bên trong má Ban da xuất hiện sau đó, thường là các tổn thương phẳng hoặc gồ lên, màu đỏ, không ngứa, chủ yếu ở lòng bàn tay và lòng bàn chân, nhưng cũng có thể xuất hiện ở mông Trong một số trường hợp, ban chỉ xuất hiện ở miệng mà không có dấu hiệu ở các vị trí khác.
Chẩn đoán ca lâm sàng: Dựa vào triệu chứng lâm sàng và dịch tễ học.
- Yếu tố dịch tễ: Căn cứ vào tuổi, mùa, vùng lưu hành bệnh, số trẻ mắc bệnh trong cùng một thời gian.
- Lâm sàng: Phỏng nước điển hình ở miệng, lòng bàn tay, lòng bàn chân, gối, mông, kèm sốt hoặc không.
Chẩn đoán xác định: Xét nghiệm RT-PCR hoặc phân lập có vi rút gây bệnh.
Bảng 1.1: Chẩn đoán phân biệt bệnh TCM với một số bệnh khác.
Triệu chứng/bệnh Tay-chân-miệng Thủy đậu Zona
Herpes simplex Tuổi < 10 tuổi 5-11 tuổi, người lớn Tất cả Tất cả
Vị trí ban Lòng bàn tay, đầu gối, mông, bụng, lòng bàn chân, loét miệng
Rải rác toàn thân, lan từ đầu, mặt xuống thân và tay chân.
Từng chùm mụn nước nhỏ ở quanh miệng Dạng ban Đỏ + mụn nước, sần, hồng ban, màu xám, hình bầu dục, khi lành không thành sẹo
Mụn nước cũ xen lẫn mới, lõm ở giữa khi mới mọc, trong lẫn đục (mủ) do bội nhiễm vi khuẩn
Chùm mụn nước to nhỏ không đều, hạch ở cổ, nách, bẹn
Mụn nước sẽ vỡ, chảy dịch, đóng mày và lành sẹo
Cảm giác Không đau, không ngứa
Ngứa, đau nhức rất khó chịu
Ngứa, đau nhức khó chịu
Vi rút Coxsackie có thể gây ra nhiều loại bệnh khác nhau, từ viêm họng và viêm kết mạc nhẹ đến các bệnh nghiêm trọng như viêm màng tim và viêm hệ thống thần kinh Bệnh thường gặp ở trẻ dưới 3 tuổi và ít thấy ở trẻ trên 5 tuổi, với khả năng tái mắc nhiều lần cho đến khi trẻ có miễn dịch hoàn toàn Bệnh dễ lây lan qua tiếp xúc với dịch tiết mũi họng, nước bọt, dịch từ bọng nước hoặc phân của người bệnh, đặc biệt trong tuần đầu tiên của bệnh Bệnh tay-chân-miệng không lây từ động vật sang người.
1.1.4.1 Nguồn truyền nhiễm Ổ chứa nguồn bệnh là người bệnh, người lành mang vi rút có trong các dịch tiết từ mũi, hầu, họng, nước bọt, dịch tiết từ các bọng nước hoặc phân của người bệnh Thời gian ủ bệnh: từ 3 - 7 ngày Thời gian lây nhiễm từ vài ngày trước khi khởi phát bệnh cho đến khi hết loét miệng và các bọng nước, thường dễ lây nhất trong tuần đầu của bệnh [42], [55].
Bệnh lây truyền qua đường "phân-miệng" và tiếp xúc trực tiếp, chủ yếu qua dịch tiết từ mũi, hầu, họng, nước bọt, hoặc từ bọng nước Việc tiếp xúc với chất tiết và bài tiết của người bệnh trên đồ dùng sinh hoạt, đồ chơi, và bề mặt như bàn ghế, nền nhà cũng là nguyên nhân lây lan Đặc biệt, khi mắc bệnh hô hấp, hành động hắt hơi, ho, và nói chuyện tạo điều kiện thuận lợi cho virus lây lan từ người sang người.
Người lành có thể bị nhiễm vi rút gây bệnh tay chân miệng (TCM) qua việc hít hoặc nuốt các giọt nhỏ từ dịch tiết đường tiêu hóa, hô hấp do ho hoặc hắt hơi Vi rút cũng lây lan qua tiếp xúc trực tiếp với dịch từ mụn nước, bọng nước hoặc phân của người bệnh Thời gian lây truyền cao nhất thường xảy ra trong tuần đầu của bệnh.
Trẻ em tại nhà trẻ, mẫu giáo và trường học dễ dàng lây nhiễm bệnh từ nhau, tạo điều kiện cho virus lan truyền Trong thời gian dịch bệnh, nhiều trẻ có thể nhiễm virus và thải ra môi trường, nhưng không phải tất cả đều có triệu chứng rõ ràng.
1.1.4.3 Tính cảm nhiễm và miễn dịch
Vi rút gây bệnh tay chân miệng (TCM) có khả năng lây nhiễm cho tất cả mọi người, nhưng không phải ai cũng biểu hiện triệu chứng bệnh Bệnh này thường phổ biến hơn ở trẻ em dưới 5 tuổi.
5 tuổi, đặc biệt là trẻ em dưới 3 tuổi có tỷ lệ mắc cao hơn [40].
Dịch tễ học bệnh tay-chân-miệng
Bệnh tay chân miệng (TCM) là một bệnh nhiễm virus đường ruột, lây truyền từ người sang người qua tiếp xúc với dịch tiết từ mũi họng và nước bọt Bệnh này có sự phân bố theo thời gian, độ tuổi, giới tính và địa lý.
1.2.1.Phân bố mắc bệnh tay-chân-miệng theo thời gian
Bệnh tay chân miệng (TCM) thường xuất hiện quanh năm nhưng có xu hướng bùng phát theo mùa, đặc biệt là vào mùa hè – thu, từ tháng 3 đến tháng 5 và tháng 9 đến tháng 12 Theo báo cáo của Viện Pasteur Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh phía Nam ghi nhận sự gia tăng số ca bệnh TCM trong hai đợt cao điểm hàng năm Nghiên cứu của Phan Công Hùng và cộng sự đã chỉ ra các đặc điểm dịch tễ của bệnh TCM tại khu vực phía Nam trong giai đoạn 2010.
Nghiên cứu của Trần Như Dương và cộng sự vào năm 2012 chỉ ra rằng, bệnh tay chân miệng (TCM) thường có tỷ lệ mắc cao nhất vào tháng 9 và tháng 10 hàng năm tại miền Bắc.
Bệnh tay chân miệng (TCM) thường gia tăng vào các tháng 3-5 và 9-10 hàng năm, theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới từ 2010-2013 Đặc biệt, tại khu vực Tây – Thái Bình Dương, như Trung Quốc, Hồng Kông, Nhật Bản và Ma Cao, số ca mắc bệnh TCM có xu hướng tăng cao trong những khoảng thời gian này Gần đây, bệnh TCM cũng ghi nhận sự gia tăng vào mùa đông - xuân, mặc dù vẫn có một số ca rải rác trong suốt cả năm.
1.2.2.Phân bố mắc bệnh tay-chân-miệng theo tuổi
Bệnh tay-chân-miệng thường gặp ở trẻ em, đặc biệt là nhóm dưới 5 tuổi, với tỷ lệ cao nhất ở trẻ dưới 3 tuổi Nghiên cứu của Liu Y tại tỉnh Shandong (2007-2011) chỉ ra rằng bệnh này chủ yếu xuất hiện ở trẻ dưới 5 tuổi Tại Singapore, nghiên cứu của Li Wei Ang (2001-2007) cũng cho thấy tỷ lệ mắc bệnh cao nhất ở nhóm 0-4 tuổi Tại Anh, trong dịch bệnh năm 1994, 952 ca mắc bệnh chủ yếu tập trung ở trẻ từ 1-5 tuổi Tại Việt Nam, theo nghiên cứu dịch tễ ở miền Bắc (2012-2014), 98% trẻ mắc bệnh là dưới 5 tuổi, trong khi nghiên cứu ở miền Nam (2010-2012) cho thấy tỷ lệ này là 95,8%.
2011-2014 tại Tây Nguyên cho thấy tỷ lệ mắc bệnh của trẻ dưới 5 tuổi chiếm
1.2.3.Phân bố mắc bệnh tay-chân-miệng theo giới
Tỷ lệ mắc bệnh tay chân miệng (TCM) ở trẻ em nam thường cao hơn ở trẻ em nữ, nhưng các bằng chứng vẫn chưa rõ ràng Một báo cáo từ Singapore trong giai đoạn 2000-2007 cho thấy tỷ số mắc TCM nam/nữ dao động từ 1,3-1,7/1 Ngược lại, một nghiên cứu dịch tễ học tại Ấn Độ trên 78 trường hợp từ tháng 9 đến tháng 11 năm 2009 chỉ ra rằng tỷ lệ mắc bệnh giữa nam và nữ là tương đương Nghiên cứu của Nino Khetsuriani và cộng sự, phân tích dữ liệu từ hệ thống giám sát bệnh do virus EV71 gây ra tại Hoa Kỳ từ 1970 đến 2005, cho thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ mắc bệnh giữa nam và nữ ở độ tuổi dưới 20, nhưng ở độ tuổi từ 20 trở lên, tỷ số mắc nam/nữ là 1,4/0,9 Tại Việt Nam, nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Quỳnh và cộng sự cũng chỉ ra tỷ lệ mắc TCM đáng chú ý.
Trong giai đoạn 2011 - 2014, tỷ lệ mắc bệnh ở trẻ em nam tại Hà Nội (61,5%) cao hơn trẻ em nữ (38,5%) Nghiên cứu của Vũ Trọng Phòng tại huyện Bình Giang, Hải Dương cho thấy tỷ lệ mắc bệnh ở trẻ nam là 64,7%, trong khi trẻ nữ chỉ đạt 35,3% Theo nghiên cứu của Ngô Huy Tú và cộng sự, nam giới chiếm 60,7% số người bệnh, cao hơn so với nữ giới (39,3%) Mặc dù sự khác biệt giữa nam và nữ tương đối đều trong ba năm giám sát, nhưng không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) Một số báo cáo thống kê khác lại cho thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ mắc bệnh giữa hai giới.
1.2.4.Phân bố mắc bệnh tay-chân-miệng theo địa dư
Bệnh tay chân miệng (TCM) đang lan rộng trên toàn cầu, với Enterovirus 71 là nguyên nhân chủ yếu gây ra dịch bệnh này tại các nước Đông Nam Á Một trong những vụ dịch nghiêm trọng nhất xảy ra tại Đài Loan vào năm 1998, khi hơn 100.000 người mắc bệnh, hơn 400 trẻ em phải nhập viện do các biến chứng liên quan đến hệ thần kinh trung ương, và 78 trẻ đã không qua khỏi.
Bệnh tay-chân-miệng (TCM) đang có xu hướng gia tăng và duy trì ở mức cao tại một số quốc gia ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, với số liệu năm 2013 cho thấy số ca bệnh tăng hơn so với năm 2012 Tại Việt Nam, bệnh xuất hiện ở hầu hết các địa phương, đặc biệt tập trung nhiều ở các tỉnh phía Nam, nơi tỷ lệ mắc và biến chứng nặng hơn so với các tỉnh phía Bắc Để chủ động phòng chống bệnh TCM, Bộ Y tế khuyến cáo người dân và cộng đồng thực hiện 6 biện pháp phòng ngừa hiệu quả.
1 Rửa tay thường xuyên với xà phòng dưới vòi nước chảy nhiều lần trong ngày (cả người lớn và trẻ em), đặc biệt là trước khi chế biến thức ăn, trước khi cho trẻ ăn, trước khi bế ẵm trẻ, sau khi đi vệ sinh, thay tã và vệ sinh cho trẻ.
2 Thực hiện tốt vệ sinh ăn uống: ăn chín, uống chín, vật dụng ăn uống phải bảo đảm được rửa sạch sẽ trước khi sử dụng, đảm bảo sử dụng nước sạch hàng ngày, không mớm thức ăn cho trẻ, không cho trẻ ăn bốc, mút tay, ngậm mút đồ chơi, không cho trẻ dùng chung khăn ăn, khăn tay, vật dụng ăn uống như cốc, thìa, bát, dĩa, đồ chơi chưa được khử trùng.
3 Thường xuyên lau sạch các bề mặt, dụng cụ tiếp xúc hàng ngày như đồ chơi, dụng cụ học tập, tay nắm cửa, tay vịn cầu thang, mặt bàn/ghế, sàn nhà bằng xà phòng hoặc chất tẩy rửa thông thường.
4 Không cho trẻ tiếp xúc với người bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh.
5 Sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh, phân và chất thải của người bệnh được thu gom và đổ vào nhà tiêu hợp vệ sinh.
6 Khi phát hiện trẻ có dấu hiệu nghi ngờ mắc bệnh, cần đưa trẻ đi khám hoặc thông báo ngay cho cơ quan y tế gần nhất.
Tình hình mắc bệnh tay chân miệng trên thế giới và Việt Nam
1.3.1.Tình hình mắc bệnh tay-chân-miệng trên thế giới
Bệnh tay chân miệng (TCM) lần đầu tiên được Robinson và cộng sự mô tả trong một đợt dịch tại Toronto, Canada vào năm 1957 Đến năm 1960, trong một đợt dịch tại Birmingham, Anh, bệnh được chính thức đặt tên là bệnh tay chân miệng dựa trên các đặc điểm lâm sàng của nó.
Năm 1969 tại California đã phát hiện ca bệnh đầu tiên nhiễm EV71, trong những năm tiếp theo EV71 cũng được phát hiện tại Hoa Kỳ, Úc, Thụy Điển, Nhật
Bệnh tay chân miệng (TCM) chủ yếu do virus Coxsackie A16 và Enterovirus 71 gây ra Từ những năm 1985 đến 1998, bệnh TCM đã được ghi nhận tại Hồng Kông, Malaysia và Singapore Tiếp theo, vào các năm 2000, 2001, 2003 và 2008, bệnh này tiếp tục xuất hiện tại Đài Loan, Trung Quốc, Việt Nam và Phần Lan.
Trong những năm gần đây, tình hình dịch bệnh TCM trên thế giới có xu hướng tăng cao tại nhiều nước đặc biệt tại khu vực Thái bình Dương.
Tính đến ngày 05/07/2012, Thái Lan đã ghi nhận 12.500 ca mắc bệnh tay chân miệng (TCM), buộc chính phủ phải ra lệnh đóng cửa 18 trường tiểu học nhằm ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh này.
Tại Trung Quốc, năm 2012 ghi nhận 2.071.237 ca mắc và 550 ca tử vong, tăng so với 1.512.064 ca mắc và 470 ca tử vong của năm 2011 Báo cáo của WHO năm 2013 cho biết có 1.757.078 ca mắc, trong khi năm 2014, số ca mắc tăng cao lên 2.819.581 và có 394 ca tử vong Tỷ lệ này đã giảm so với năm trước đó.
2015, có 2.014.999 ca mắc, 124 ca tử vong [100].
Tại Hồng Kông, tỷ lệ trẻ em trên 5 tuổi mắc bệnh tăng từ 25,4% năm 2001 lên 33% năm 2009 Số ca mắc bệnh tay chân miệng (TCM) ghi nhận là 353 ca năm 2011, 423 ca năm 2012, và đạt đỉnh với 1625 ca vào năm 2013.
2014, có 351 ca mắc, năm 2015, có 359 ca mắc [98].
Tại Macao, số ca mắc bệnh đã có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây, với 1777 ca vào năm 2011, 1956 ca vào năm 2012, và 2109 ca vào năm 2013 Năm 2014 ghi nhận mức cao nhất với 4089 ca mắc, sau đó giảm xuống 3299 ca vào năm 2015.
2010 đã bùng phát dịch TCM do Coxackievirus A6 (CA6) và đã có nhiều đã có những biến chứng sau bệnh này [93].
Năm 2011, Nhật Bản đã phải đối mặt với dịch TCM và khởi động chiến dịch giám sát dịch tễ học quốc gia Các mẫu xét nghiệm từ Shimane, Hyogo, Hiroshima và Shizuoka đã được gửi đi để tiến hành giải trình tự gen Kết quả từ 108 mẫu xét nghiệm cho thấy 74 trường hợp dương tính với CAV6 (Coxsackie virus A6) Hệ thống giám sát trọng điểm cho thấy số ca bệnh TCM vẫn duy trì ở mức thấp và có xu hướng giảm trong năm này.
Tính đến năm 2012, Nhật Bản đã ghi nhận 67.981 ca mắc bệnh tay chân miệng (TCM) Đến năm 2014, số ca mắc tăng lên 79.188 Đặc biệt, vào năm 2015, tỷ lệ mắc bệnh TCM đã tăng vọt với 381.581 ca, cao hơn nhiều so với năm trước đó.
Tại Singapore, bệnh tay chân miệng (TCM) vẫn là một vấn đề y tế công cộng quan trọng, với tỷ lệ mắc bệnh hàng năm gia tăng bất chấp các biện pháp phòng ngừa nghiêm ngặt tại các trung tâm giáo dục mầm non Năm 2011, số ca mắc bệnh ghi nhận là 19.654, và con số này đã tăng gấp đôi lên 36.518 ca vào năm 2012 Năm 2013, Singapore tiếp tục báo cáo 30.875 ca mắc bệnh TCM Tuy nhiên, đến năm 2014, số ca mắc đã giảm đáng kể xuống còn 21.420.
Năm 2015, có 28.216 ca mắc, tăng 29% so với năm 2014 [100].
Bảng 1.2: Tình hình bệnh TCM tại một số nước trong khu vực châu Á năm
Quốc gia Số mắc bệnh TCM cộng dồn báo cáo Tỷ số
Nguồn số liệu: Western Pacific Regional Office of the World Health Organization [98].
Bệnh TCM đang gia tăng và duy trì ở mức cao tại một số quốc gia ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương Do đó, cần thiết phải tiến hành nghiên cứu và triển khai kịp thời các hoạt động liên quan đến bệnh TCM, đồng thời nhanh chóng áp dụng các biện pháp toàn diện để phòng ngừa và kiểm soát dịch bệnh.
1.3.2.Tình hình mắc bệnh tay-chân-miệng ở Việt Nam
Bệnh tay chân miệng (TCM) tại Việt Nam diễn ra quanh năm, chủ yếu tập trung ở các tỉnh phía Nam, nơi chiếm hơn 60% tổng số ca mắc Tỷ lệ mắc bệnh cao nhất thường rơi vào khoảng thời gian từ tháng 3 đến tháng 5 và từ tháng 9 đến tháng 12 Nguyên nhân chính gây ra bệnh TCM là do virus Enterovirus 71, chiếm gần một nửa số ca mắc bệnh.
Theo báo cáo của viện Paster thành phố Hồ Chí Minh, năm 2003 Enterovirus
Enterovirus 71 lần đầu tiên được phát hiện tại Việt Nam qua mẫu phân của một trẻ 2 tuổi mắc bệnh tay chân miệng (TCM) ở Tây Ninh Nhiều trường hợp khác cũng đã được ghi nhận ở trẻ nhỏ dưới 3 tuổi với các triệu chứng lâm sàng nghi ngờ liên quan đến virus này.
Năm 2005, nghiên cứu hợp tác giữa Bệnh viện Nhi Đồng 1, Viện Pasteur TP.HCM, Đại học Sarawak, Bệnh viện Sibu (Malaysia) và Đại học Sydney (Úc) cho thấy, trong số 764 bệnh nhân mắc bệnh tay chân miệng (TCM), 96,2% là trẻ dưới 5 tuổi Trong đó, 42,1% trường hợp được xác định là nhiễm Enterovirus 71 và 52,1% là Coxsackievirus 16 Đáng chú ý, 29,3% bệnh nhân nhiễm Enterovirus 71 đã gặp biến chứng thần kinh cấp tính, và 1,7% đã tử vong Mặc dù bệnh TCM có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, nhưng chủ yếu xuất hiện ở trẻ dưới 10 tuổi, với tỷ lệ cao nhất ở trẻ từ 1 đến 2 tuổi, chiếm 71,5% theo thống kê của Bệnh viện Nhi Đồng 1 tại TP.HCM trong năm 2005.
Năm 2011, bệnh tay chân miệng (TCM) bùng phát nghiêm trọng trên toàn quốc, ghi nhận số ca mắc và tử vong cao nhất từ trước đến nay Bệnh đã lan rộng đến 63/63 tỉnh thành, với tổng cộng 113.121 ca mắc, trong đó có 169 ca tử vong, tăng gấp 6 lần so với năm trước.
Năm 2010, 76% ca bệnh tay chân miệng (TCM) được xác định do virus Enterovirus Đến năm 2012, cả nước ghi nhận 157.391 ca TCM, tăng 1,3 lần so với năm 2011, với sự gia tăng xảy ra ở hầu hết các tỉnh thành Mặc dù số ca tử vong đã giảm, chỉ còn 45 ca trong năm đó.
Một số nghiên cứu về kiến thức, thực hành và một số yếu tố liên quan đến phòng chống bệnh tay-chân-miệng trên thế giới và Việt Nam
Kiến thức và thực hành phòng chống bệnh tay chân miệng (TCM) đóng vai trò quan trọng trong việc dự phòng bệnh, đặc biệt là cho trẻ nhỏ Mặc dù nhiều nghiên cứu trên thế giới đã tập trung vào dịch tễ học và vi rút gây bệnh TCM, nhưng nghiên cứu về kiến thức và thực hành phòng bệnh vẫn còn hạn chế, chủ yếu được thực hiện ở Trung Quốc, Thái Lan và Pakistan Các nghiên cứu thường hướng đến đối tượng như phụ huynh, giáo viên mầm non và người chăm sóc trẻ Kết quả cho thấy, mặc dù các đối tượng này có kiến thức tốt về bệnh TCM, nhưng thực hành phòng bệnh vẫn chưa đạt yêu cầu.
Về kiến thức phòng bệnh TCM:
Nghiên cứu cho thấy kiến thức về phòng bệnh TCM còn hạn chế ở nhiều bậc phụ huynh Cụ thể, nghiên cứu của Wang Li Hua (2010) tại huyện Dingtao, Trung Quốc cho thấy chỉ 57,76% cha mẹ có kiến thức đạt yêu cầu về bệnh TCM Tại Karachi, Pakistan, nghiên cứu của Shikandar Khan Sherwani (2012) cho thấy 24% bà mẹ không nhận thức được tầm quan trọng của việc rửa tay, chỉ 6% thực hiện rửa tay hàng ngày, và 40% bà mẹ có móng tay dài, bẩn Tại Từ Châu, Trung Quốc, nghiên cứu của Chen Yong (2011) cho thấy 90% cha mẹ đã nghe về bệnh TCM, nhưng chỉ 19,96% biết cần rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn Cuối cùng, nghiên cứu của Jakrapong Aiewtrakun (2012) tại Thái Lan cho thấy 95% người chăm sóc trẻ có đủ kiến thức để phát hiện bệnh, nhưng chỉ 39,8% có kiến thức phòng bệnh, và chỉ 35% biết rửa tay đúng cách.
Theo nghiên cứu KAP về phòng chống bệnh tay chân miệng (TCM) năm 2012 tại khoa Nhi, bệnh viện Tengku Ampuan Afzan, Malaysia, có 23,7% đối tượng không cho trẻ bệnh tránh tiếp xúc và 19,1% không thông báo cho cơ sở y tế Hơn một nửa (53,1%) người tham gia biết về dấu hiệu và triệu chứng của bệnh TCM, 56,3% nhận thức rằng bệnh có thể gây tử vong, và 40,6% tin rằng TCM lây qua tiếp xúc thông thường Đáng chú ý, 93,8% đồng ý đi khám khi có triệu chứng bệnh, trong khi 65,6% cho rằng vệ sinh sạch sẽ có thể phòng ngừa bệnh TCM.
Thực hành phòng bệnh TCM:
Nghiên cứu WANG Wen-ming và cộng sự [90] trên 335 giáo viên mẫu giáo và
Năm 2012, một nghiên cứu tại khu đô thị Kunshan, Trung Quốc đã khảo sát 852 phụ huynh, cho thấy tỷ lệ thực hành phòng bệnh bằng phương pháp y học cổ truyền Trung Quốc (TCM) ở cha mẹ đạt 86,25%, trong khi tỷ lệ này ở giáo viên mẫu giáo lên tới 98,04% Nghiên cứu này được thực hiện bởi Ruttiya Charoenchokpanit và Tepanata Pumpaibool.
Một nghiên cứu năm 2013 trên 456 người chăm sóc trẻ dưới 5 tuổi tại Bangkok, Thái Lan cho thấy 60,3% có thực hành phòng ngừa bệnh tay chân miệng (TCM) tốt Tuy nhiên, 41,2% hiếm khi hoặc không bao giờ rửa tay đúng cách, và 43,6% không làm sạch đồ chơi sau khi trẻ sử dụng Nghiên cứu của Dao Weiangkham vào tháng 12/2014 trên 200 người tại tỉnh Phayao cho thấy hành vi của người chăm sóc trẻ là yếu tố quan trọng trong việc ngăn ngừa TCM, với 67,5% rửa tay trước khi chuẩn bị thức ăn, 72,1% trước khi cho trẻ ăn, và 86,0% sau khi sử dụng nhà vệ sinh Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của các hành vi phòng ngừa để kiểm soát sự lây lan của bệnh TCM trong các trung tâm chăm sóc trẻ.
Nghiên cứu cho thấy kiến thức và thực hành phòng bệnh tay chân miệng (TCM) có thể được cải thiện thông qua giáo dục sức khỏe (GDSK) tại trường học và trung tâm GDSK Một nghiên cứu năm 2007 tại tỉnh Surin, Thái Lan, với 124 người chăm sóc trẻ, cho thấy 80% nhận thông tin về bệnh TCM từ truyền hình, 61,6% từ báo chí và 50,5% từ phát thanh Kết quả nghiên cứu của Wang Li Hua năm 2010 tại Tứ Xuyên, Trung Quốc cho thấy kiến thức của đối tượng nghiên cứu đạt 84,3% sau khi tham gia GDSK về bệnh TCM, chứng tỏ GDSK là phương pháp hiệu quả trong giáo dục về bệnh này Một nghiên cứu khác của Chen Yong tại Giang Tô, Trung Quốc năm 2011 cho thấy 63,32% cha mẹ có nhu cầu được cung cấp kiến thức về kiểm soát và phòng bệnh TCM, 53,75% cần kiến thức về thói quen sinh hoạt, và 29,19% cần kiến thức về phòng bệnh Nghiên cứu của Wang Wen-ming năm 2012 cũng đã khảo sát 335 giáo viên mẫu giáo và 852 phụ huynh tại Kunshan, Trung Quốc, nhấn mạnh tầm quan trọng của GDSK trong việc nâng cao nhận thức về bệnh TCM.
Theo nghiên cứu, 76,53% phụ huynh và 79,7% giáo viên mẫu giáo nhận định rằng thông tin về bệnh tay chân miệng (TCM) chủ yếu được cập nhật qua các phương tiện truyền thông Điều này cho thấy vai trò quan trọng của truyền thông trong việc cung cấp kiến thức kiểm soát và phòng ngừa bệnh TCM, cũng như hướng dẫn cha mẹ và trường học trong việc thực hiện các biện pháp phòng bệnh.
Trong báo cáo năm 2011 về các chính sách quản lý và phòng bệnh tay-chân-miệng (TCM) tại Trung Quốc, tác giả Zhang Yanpin từ CDC Trung Quốc chỉ ra rằng một trong bốn lý do chính khiến dịch bệnh TCM gia tăng là do sự thiếu kiến thức và thực hành của người lớn về bệnh và biện pháp phòng ngừa Tại Malaysia, nghiên cứu của Kaw Bing Chua và Abdul Rasid Kasri cho thấy bệnh tay-chân-miệng do virus EV71 bùng phát theo chu kỳ 2 đến 4 năm, với số liệu giám sát từ năm 2006 cho thấy EV71 lây truyền nhanh trong các đợt dịch, và sự thay đổi nhân khẩu học như tăng dân số, đô thị hóa, cùng với cách chăm sóc trẻ em tại gia đình và nhà trẻ đã góp phần vào sự lây lan của bệnh này.
Về các yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành phòng bệnh TCM
Nghiên cứu của Ruan F và cộng sự năm 2011 cho thấy ba yếu tố nguy cơ chính liên quan đến bệnh tay chân miệng (TCM) ở trẻ em, bao gồm chơi với trẻ hàng xóm, đi khám bệnh, và đến nơi đông người Cụ thể, trẻ chơi với trẻ hàng xóm có nguy cơ mắc TCM cao gấp 11 lần, trẻ đi khám bệnh có nguy cơ cao gấp 20 lần, và trẻ đến chỗ đông người có nguy cơ cao gấp 7,3 lần so với trẻ không tham gia những hoạt động này Nghiên cứu của Dingmei Zhang cũng chỉ ra rằng thói quen rửa tay và vệ sinh ga giường có liên quan đến nguy cơ mắc bệnh, trong đó rửa tay trước bữa ăn là yếu tố bảo vệ Để phòng ngừa hiệu quả bệnh TCM, việc xác định các yếu tố liên quan và triển khai truyền thông phù hợp là rất quan trọng, đặc biệt trong các nhóm có thu nhập và trình độ học vấn thấp Nghiên cứu của Ruttiya Charoenchokpanit và Tepanata Pumpaibool năm 2013 cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao kiến thức và hành vi phòng bệnh trong cộng đồng.
Các nghiên cứu cho thấy hầu hết các ĐTNC có kiến thức tốt về bệnh tay chân miệng (TCM), nhưng thực hành phòng bệnh vẫn còn hạn chế Việc tăng cường tuyên truyền giáo dục sức khỏe (TT-GDSK) cho phụ huynh có con dưới 5 tuổi là cần thiết và hiệu quả Kiến thức và thái độ của cha mẹ về bệnh TCM phụ thuộc nhiều vào nguồn thông tin tiếp cận, với việc nhiều phụ huynh ưa chuộng các buổi tuyên truyền GDSK Do đó, đa dạng hóa phương pháp truyền thông và cung cấp các biện pháp phòng ngừa là rất quan trọng để nâng cao kiến thức và thực hành phòng bệnh TCM Cần giảm rào cản đối với hành vi phòng bệnh, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc rửa tay thường xuyên, tránh đưa trẻ đến nơi công cộng trong thời gian dịch bệnh, không dùng chung đồ dùng và làm sạch đồ chơi thường xuyên để phòng bệnh TCM hiệu quả.
Tại Việt Nam, nghiên cứu về bệnh tay chân miệng (TCM) chủ yếu tập trung vào dịch tễ học, bệnh học và vi rút, trong khi các nghiên cứu về kiến thức và thực hành phòng ngừa TCM còn hạn chế Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là người chăm sóc trẻ và cha mẹ có con dưới 5 tuổi Kết quả cho thấy nhiều bà mẹ chưa có thái độ tích cực trong việc phòng chống bệnh TCM, dẫn đến việc thực hiện các biện pháp vệ sinh cá nhân, vệ sinh ăn uống và vệ sinh môi trường chưa được chú trọng Hơn nữa, trình độ học vấn và nghề nghiệp của bà mẹ ảnh hưởng đáng kể đến kiến thức và thực hành phòng bệnh TCM của họ.
Về kiến thức phòng bệnh TCM
Nghiên cứu gần đây cho thấy kiến thức của các bà mẹ về phòng bệnh tay chân miệng (TCM) còn hạn chế Cụ thể, nghiên cứu của Đặng Quang Ánh năm 2013 tại Đà Nẵng cho thấy chỉ 17,6% bà mẹ có kiến thức đạt về bệnh TCM, trong khi 77,0% biết rằng dịch nốt phỏng nước là nguyên nhân gây bệnh Nghiên cứu của Trần Thị Anh Đào năm 2013 tại Đồng Nai cho thấy 43,7% bà mẹ có kiến thức tốt về phòng bệnh TCM, với 30,2% hiểu đúng về đường lây truyền và 75,0 - 85,9% biết các biện pháp phòng bệnh hiệu quả Những kết quả này cho thấy cần nâng cao kiến thức phòng bệnh TCM cho các bà mẹ.
5 tỉnh/thành phố: Thanh Hóa, Quảng Ngãi, Bình Dương, Đồng Nai, và thành phố
Nghiên cứu về bệnh tay chân miệng (TCM) cho thấy 60,0% đối tượng tại Hồ Chí Minh có kiến thức đúng về bệnh này Tại xã Lệ Chi, Gia Lâm, Hà Nội, nghiên cứu của tác giả Phan Trọng Lân cho thấy 62,8% bà mẹ có kiến thức chung về phòng bệnh TCM, nhưng kiến thức về triệu chứng bệnh còn hạn chế Nghiên cứu của Lê Quang Minh trên 294 bà mẹ có con dưới 5 tuổi cho thấy chỉ 58,3% bà mẹ có kiến thức đúng, mặc dù 69,4% trong số họ nắm rõ đường lây truyền của bệnh Hội chữ thập đỏ Việt Nam cùng IFRC cũng đã tiến hành khảo sát ban đầu về vấn đề này.
08 tỉnh miền Nam: An Giang, Bến Tre, Long An, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Đồng Tháp, Quảng Ngãi và Đà Nẵng [70], nghiên cứu trên 416 bà mẹ có con dưới 5 tuổi,
Một nghiên cứu được thực hiện tại 75 xã với 318 người chăm sóc trẻ ở các nhà trẻ và mẫu giáo cho thấy rằng 55% bà mẹ chăm sóc trẻ tại nhà nhận biết các triệu chứng bệnh, trong khi 50% hiểu rằng việc quản lý phân của trẻ bị bệnh là một biện pháp phòng ngừa hiệu quả Ngoài ra, 65% người chăm sóc trẻ cho biết rửa tay có thể ngăn ngừa bệnh, nhưng vẫn có 21,2% không nắm rõ về đường lây truyền của bệnh Theo báo cáo của Viện Chiến Lược và Chính sách y tế, Bộ Y tế năm 2012, tỷ lệ người chăm sóc trẻ dưới 5 tuổi có kiến thức đúng về phòng bệnh tay chân miệng đạt trên 80%.
Nghiên cứu năm 2012 tại phường Trung Liệt, quận Đống Đa cho thấy chỉ 41,5% bà mẹ có kiến thức về sức khỏe trẻ em Tại Tiền Giang, 72,2% người chăm sóc trẻ dưới 5 tuổi biết về các bệnh thường gặp, nhưng chỉ 25% biết rằng một số bệnh chưa có vắc xin phòng ngừa Nghiên cứu năm 2013 tại Cần Thơ cho thấy 69,2% bà mẹ biết đường lây truyền bệnh tay-chân-miệng (TCM), nhưng 60,8% không biết rằng bệnh này chưa có thuốc điều trị đặc hiệu Tại Thái Nguyên, chỉ 3,4% bà mẹ có kiến thức đúng về TCM, trong khi 78,8% có kiến thức ở mức kém Năm 2015, nghiên cứu tại Sóc Trăng cho thấy 82,4% bà mẹ không biết tác nhân gây bệnh TCM, và chỉ 37,9% biết bệnh lây qua tay bẩn, mặc dù 62,5% biết dấu hiệu trẻ sốt nhẹ và 84,6% nhận diện được các nốt phỏng nước.
Về thực hành phòng bệnh TCM
Hoạt động truyền thông phòng bệnh tay-chân-miệng
1.5.1 Vai trò của truyền thông giáo dục sức khoẻ phòng chống bệnh tay-chân- miệng
Truyền thông giáo dục sức khoẻ (TT-GDSK) đóng vai trò quan trọng trong việc chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, giúp mọi người chủ động hơn trong việc bảo vệ và cải thiện sức khoẻ của bản thân.
Trong việc phòng bệnh tay chân miệng (TCM) tại cộng đồng, việc thực hiện truyền thông giáo dục sức khỏe (TT-GDSK) là rất quan trọng Các hoạt động TT-GDSK giúp người dân nâng cao kiến thức về bệnh và thực hành các biện pháp phòng ngừa thông qua các hình thức truyền thông trực tiếp và gián tiếp Để đạt hiệu quả trong TT-GDSK phòng bệnh TCM, cần lập kế hoạch cụ thể, xác định rõ vấn đề cần truyền thông, đối tượng ưu tiên, mức độ và phương pháp thực hiện Việc chủ động TT-GDSK có vai trò then chốt trong nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi của cộng đồng đối với các biện pháp phòng chống dịch bệnh TCM Quá trình này cần được thực hiện thường xuyên và liên tục, kết hợp nhiều phương pháp khác nhau, với sự tham gia của ngành Y tế, các ngành liên quan và toàn thể cộng đồng.
Bệnh TCM hiện chưa có vắc xin và thuốc điều trị đặc hiệu, do đó, việc tăng cường tuyên truyền giáo dục sức khỏe (TT-GDSK) là cần thiết để phòng ngừa bệnh cho cộng đồng, đặc biệt là các bà mẹ Qua TT-GDSK, người dân sẽ được trang bị kiến thức về nguy cơ, triệu chứng và nguồn lây bệnh TCM, từ đó có biện pháp xử trí kịp thời, giảm thiểu lây lan và bảo vệ sức khỏe trẻ em Đồng thời, nâng cao kỹ năng thực hành như rửa tay thường xuyên và tránh tiếp xúc với người bệnh là rất quan trọng Đẩy mạnh TT-GDSK không chỉ giúp người dân có nhận thức đúng đắn về sức khỏe mà còn khuyến khích hành động chủ động trong phòng chống dịch bệnh Để đạt hiệu quả cao trong các chương trình TT-GDSK, sự phối hợp giữa ngành y tế và các cấp chính quyền, đoàn thể là cần thiết, nhằm lồng ghép hoạt động này với các chương trình khác để nâng cao kiến thức phòng bệnh cho cộng đồng.
1.5.2 Đối tượng cần truyền thông giáo dục sức khoẻ trong phòng chống bệnh tay- chân-miệng
Bệnh tay chân miệng (TCM) là bệnh truyền nhiễm dễ lây lan và có khả năng gây dịch Hiện tại, chưa có vắc xin phòng ngừa và thuốc điều trị đặc hiệu cho bệnh TCM, do đó, việc thực hiện vệ sinh phòng bệnh cho người chăm sóc trẻ là rất quan trọng Để phòng ngừa bệnh TCM hiệu quả trong cộng đồng, cán bộ y tế, tuyên truyền viên và lãnh đạo cộng đồng cần nắm vững kiến thức về bệnh và thực hiện đúng các biện pháp phòng ngừa Ngoài ra, cần triển khai các hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe đến tất cả các đối tượng, đặc biệt là các bà mẹ có con dưới 5 tuổi và những người chăm sóc trẻ tại nhà và trường học.
TT-GDSK phòng bệnh TCM tại các trường học, nhà trẻ và mẫu giáo giúp giáo viên và học sinh hiểu rõ cách phòng ngừa bệnh TCM Học sinh sẽ trở thành tuyên truyền viên cho gia đình, từ đó lan tỏa kiến thức phòng bệnh trong cộng đồng Cần kết hợp các hoạt động chăm sóc sức khỏe tại địa phương, với sự tham gia của cán bộ y tế thôn bản để tiếp cận từng hộ gia đình, nhằm phòng chống dịch bệnh nói chung và TCM nói riêng Tuy nhiên, nhiều đề tài can thiệp tại Việt Nam hiện nay chỉ tập trung vào một số đối tượng, chưa tạo sự đồng bộ trong cộng đồng Để huy động sức mạnh của toàn cộng đồng trong việc phòng chống bệnh TCM, đề tài này thực hiện can thiệp dựa vào cộng đồng, kêu gọi sự tham gia của lãnh đạo cộng đồng, cán bộ y tế, giáo viên mầm non và các bậc phụ huynh có trẻ dưới 5 tuổi.
1.5.3.Nội dung truyền thông giáo dục sức khoẻ phòng chống bệnh tay-chân-miệng
Nội dung tuyên truyền giáo dục sức khỏe (TT-GDSK) về phòng bệnh TCM cần được trình bày cụ thể, rõ ràng và dễ hiểu để người dân có thể thực hiện Các thông tin quan trọng bao gồm kiến thức về bệnh TCM, thời gian dễ mắc, dấu hiệu nhận biết, cách lây truyền, dấu hiệu bệnh nặng, và các biện pháp phòng ngừa như rửa tay thường xuyên, ăn chín uống chín, và xử lý rác thải hợp vệ sinh Việc thay đổi thói quen sống và thực hành các hành vi có lợi sẽ giúp hạn chế sự lây lan của bệnh trong cộng đồng Để nội dung TT-GDSK có hiệu quả, các tuyến y tế từ trung ương đến cơ sở cần tổ chức và quản lý tốt các hoạt động này, đồng thời lồng ghép với các hoạt động văn hóa, xã hội để nâng cao nhận thức và phòng bệnh TCM Chú trọng vai trò chỉ đạo của hệ thống TT-GDSK từ trung ương đến cơ sở là rất quan trọng trong việc triển khai các hoạt động này.
Mô hình lý thuyết truyền thông giáo dục sức khoẻ phòng chống bệnh tay- chân-miệng cho cộng đồng
Nâng cao kiến thức và hiểu biết về sức khoẻ là yếu tố quan trọng trong việc thúc đẩy hành động hỗ trợ sức khoẻ và cải thiện điều kiện xã hội, kinh tế, môi trường Nhiều mô hình lý thuyết đã được đề xuất để nâng cao kiến thức sức khoẻ cộng đồng, như mô hình David Berlolo S-M-C-R, mô hình Claude Shannon và Warren Weaver, mô hình chiến lược truyền thông, và mô hình hệ thống về truyền thông Việc lựa chọn mô hình truyền thông phù hợp phụ thuộc vào từng chương trình và đối tượng đích Đề tài của chúng tôi, thuộc dự án cấp Nhà nước mã số ĐTĐL.2012-G/32, đã được Bộ Khoa học và Công nghệ cùng Trường Đại học Y Hà Nội phê duyệt, áp dụng mô hình lý thuyết chiến lược truyền thông để can thiệp, giáo dục sức khoẻ nhằm thay đổi hành vi và cải thiện kiến thức phòng ngừa một số bệnh liên quan đến biến đổi khí hậu trong cộng đồng, bao gồm cả bệnh tay chân miệng.
Mô hình chiến lược truyền thông (The Stratetegic Communication Model)
Mỗi tình huống truyền thông đều có sự khác biệt, nhưng có những câu hỏi chung giúp phân tích và cải thiện khả năng ứng phó với các tình huống cụ thể Những câu hỏi này là công cụ hữu ích để hiểu rõ hơn về các khía cạnh của truyền thông trong mỗi trường hợp.
+ Động cơ: Vì sao cần phải truyền thông (Why)?
+ Đối tượng: Ai là đối tượng truyền thông (Who)?
+ Loại truyền thông: Loại truyền thông nào được sử dụng (What)?
+ Áp dụng: Truyền thông như thế nào (How)?
Động cơ truyền thông là yếu tố quan trọng để xác định nhu cầu thiết yếu trong một tình huống cụ thể Việc đặt câu hỏi về lý do cần truyền thông giúp nhận diện những thiếu hụt về kiến thức, niềm tin, thái độ hoặc hành động Hiểu rõ động cơ sẽ hỗ trợ người truyền thông xác định mục đích rõ ràng, từ đó phác thảo chiến lược hiệu quả nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra.
Về đối tượng đích: Ai là đối tượng trong tình huống truyền thông này?
Để xác định đối tượng đích và nhu cầu của họ, người truyền thông cần hiểu rõ họ đã biết gì và cần biết gì Nghiên cứu đối tượng không chỉ giúp nhận diện nhu cầu mà còn xem xét mối quan hệ giữa đối tượng đích và người truyền thông, từ đó xây dựng chiến lược truyền thông hiệu quả.
Truyền thông là một khía cạnh quan trọng trong việc mô tả và truyền đạt thông tin Trong tình huống này, loại truyền thông thích hợp là truyền thông đa phương tiện, kết hợp cả hình ảnh, âm thanh và văn bản để tạo ra một trải nghiệm toàn diện cho người nhận Cấu trúc đặc trưng của loại truyền thông này bao gồm việc sử dụng các yếu tố như hình ảnh động, video, âm thanh và văn bản để tạo ra một nội dung phong phú và hấp dẫn.
Để áp dụng hiệu quả thông tin trong truyền thông, người truyền thông cần kết hợp động cơ, đối tượng và loại hình truyền thông một cách hợp lý Việc hiểu rõ ba yếu tố này sẽ giúp tối ưu hóa hành động và tạo ra kết quả tích cực trong các tình huống truyền thông cụ thể.
Các bà mẹ có thể phòng ngừa bệnh tay chân miệng cho trẻ bằng cách rửa tay đúng cách bằng xà phòng cho cả trẻ và người chăm sóc, khử trùng đồ chơi và đồ dùng của trẻ, cũng như vệ sinh các bề mặt như bàn ghế và đồ chơi Việc xử lý chất thải theo hướng dẫn y tế cũng góp phần giảm nguy cơ nhiễm virus gây bệnh Nếu tất cả trẻ em được chăm sóc bởi những bàn tay sạch và những người chăm sóc chủ động thực hiện các biện pháp vệ sinh tại gia đình, bệnh tay chân miệng và các bệnh truyền nhiễm khác sẽ được kiểm soát hiệu quả.
Một số nghiên cứu can thiệp phòng chống bệnh tay-chân-miệng trên thế giới và Việt Nam
Bệnh tay chân miệng (TCM) hiện chưa có vắc xin phòng ngừa và điều trị đặc hiệu, vì vậy việc thực hiện các biện pháp vệ sinh cá nhân và vệ sinh nơi sinh hoạt là rất cần thiết Nhiều quốc gia đã triển khai các chương trình phòng chống dịch TCM tại cộng đồng, với các nội dung chính như giáo dục về vệ sinh tốt, xây dựng hệ thống giám sát dịch, hỗ trợ các trường học và cơ sở chăm sóc trẻ, cùng với việc tuyên truyền về các yếu tố nguy cơ và biện pháp phòng bệnh.
Rửa tay thường xuyên bằng xà phòng là biện pháp phòng ngừa bệnh tay chân miệng (TCM) hiệu quả Điều này đặc biệt quan trọng trước khi chế biến và ăn uống, cũng như sau khi đi vệ sinh và thay tã cho trẻ Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), việc rửa tay bằng xà phòng và nước sạch không chỉ giúp ngăn ngừa 80% bệnh tật mà còn giảm rõ rệt nguy cơ nhiễm vi rút gây bệnh TCM.
Một số can thiệp y tế công cộng hiệu quả trong phòng chống bệnh tay chân miệng (TCM) đã được áp dụng tại Trung Quốc, Singapore và Hồng Kông, được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo Những biện pháp này bao gồm thiết lập hệ thống giám sát và cảnh báo dịch sớm, triển khai các chiến dịch truyền thông, thực hiện các chiến dịch vệ sinh và rửa tay bằng xà phòng, cũng như chủ động xây dựng kế hoạch và chính sách phòng bệnh TCM.
Năm 2009, các cơ quan y tế địa phương ở Trung Quốc đã triển khai chương trình "tuần lễ làm sạch vệ sinh môi trường" nhằm tuyên truyền vệ sinh môi trường và giáo dục sức khỏe cho người dân Chương trình khuyến khích rửa tay và vệ sinh đồ chơi của trẻ bằng xà phòng, đồng thời hạn chế hành vi ngậm, mút ngón tay của trẻ, và đã đạt được kết quả tích cực Tại Singapore và Malaysia, cha mẹ cũng được tư vấn về các dấu hiệu bệnh và biện pháp vệ sinh tại nhà để phòng ngừa lây nhiễm bệnh tay chân miệng.
Y tế nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tuyên truyền và giám sát hành vi rửa tay bằng xà phòng trong cộng đồng, đặc biệt trong bối cảnh dịch bệnh TCM Các đội giám sát cơ động đóng vai trò quan trọng trong việc này, theo nghiên cứu của China Papers.
Mục tiêu của chương trình tăng cường truyền thông giáo dục sức khỏe (TT-GDSK) về bệnh tay chân miệng (TCM) cho cha mẹ trẻ dưới 5 tuổi ở Dingtao đã đạt được những kết quả tích cực Sau khi can thiệp thông qua các phương tiện truyền thông như truyền hình, gia đình, bạn bè, đài phát thanh và phát sách mỏng, tỷ lệ người có kiến thức đúng về bệnh TCM đã tăng từ 57,76% lên 84,3% Điều này chứng tỏ rằng TT-GDSK là phương pháp hiệu quả trong việc nâng cao nhận thức cộng đồng về bệnh TCM.
Bộ Y tế Việt Nam đã ban hành quyết định số 581/QĐ-BYT vào ngày 24/2/2012, nhằm hướng dẫn giám sát và phòng bệnh tay chân miệng (TCM) Quyết định này tập trung vào việc tuyên truyền cho người dân về nguy cơ mắc bệnh, đường lây truyền, triệu chứng và dấu hiệu bệnh nặng, giúp họ chủ động phòng ngừa và phát hiện sớm để đưa đến cơ sở y tế kịp thời, ngăn chặn bệnh lây lan trong cộng đồng Bên cạnh đó, Bộ Y tế khuyến khích thực hiện 3 sạch: ăn sạch, ở sạch, và giữ vệ sinh tay cùng đồ chơi sạch Mặc dù không quy định cụ thể hình thức tuyên truyền, Bộ nhấn mạnh cần sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, phù hợp với điều kiện từng địa phương, để đảm bảo chất lượng và hiệu quả trong hoạt động tuyên truyền.
Từ tháng 2/2012, Bộ Y tế đã yêu cầu các địa phương triển khai các hoạt động trọng tâm và truyền thông về biện pháp phòng bệnh tay chân miệng (TCM) tới từng gia đình và trường học Bộ Y tế cùng các ban ngành đã ban hành công điện và văn bản hướng dẫn về giám sát, phòng và điều trị bệnh TCM Các hoạt động kiểm tra, giám sát, báo cáo tình hình bệnh, tăng cường chiến dịch truyền thông, cấp phát Chloramin B, và cải thiện vệ sinh môi trường đã được thực hiện trên toàn quốc Để kiểm soát bệnh hiệu quả, cần tiếp tục tăng cường công tác thông tin, giáo dục sức khỏe, thay đổi hành vi, và vệ sinh cá nhân, đặc biệt tại các vùng có dịch bệnh lưu hành.
Dự án của Liên đoàn Chữ thập đỏ Quốc tế và quỹ hỗ trợ thiên tai khẩn cấp năm 2011 đã hỗ trợ Hội Chữ thập đỏ Việt Nam can thiệp cho 144.995 người tại 75 xã/quận thuộc 5 tỉnh/thành phố: Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Quảng Ngãi, Thanh Hóa Mục tiêu của dự án là cải thiện kiến thức và thực hành về bệnh tay chân miệng (TCM) nhằm giảm sự lây lan trong cộng đồng thông qua các thông điệp truyền thông Mặc dù thời gian thực hiện ngắn (từ tháng 8 đến tháng 12 năm 2011), nhưng dự án đã đạt được các mục tiêu nâng cao nhận thức và thực hành phòng chống bệnh TCM, đồng thời làm việc chặt chẽ với các cơ quan y tế địa phương Hội Chữ thập đỏ đã tập trung vào các bà mẹ và người chăm sóc trẻ để truyền thông thay đổi hành vi, với các thông điệp phòng ngừa quan trọng như rửa tay, cách ly người bệnh, ăn thức ăn đã nấu chín và uống nước an toàn.
4) làm sạch bề mặt, sàn nhà, đồ chơi thường xuyên bằng xà phòng nhằm làm giảm nguy cơ lây lan của bệnh Kết quả, người dân trong 75 xã của 5 tỉnh đã được cải thiện kiến thức và thực hành trong phòng, chống bệnh TCM [63] Nghiên cứu đã huy động được sự tham gia của các ban ngành, xây dựng mạng lưới tuyên truyền viên ở các xã, phường, nỗ lực truyền thông nhằm giảm sự lây lan của bệnh Hạn chế của nghiên cứu là thời gian can thiệp quá ngắn (4 tháng), chưa can thiệp toàn bộ cộng đồng, chỉ nhằm đến đối tượng đích, chưa có đánh giá sau can thiệp để biết hiệu quả thực sự của mô hình can thiệp.
Dự án phòng bệnh truyền nhiễm khu vực tiểu vùng sông Mekông (giai đoạn
2) đã đưa ra phương pháp can thiệp hiệu quả đó là truyền thông thay đổi hành vi phòng bệnh truyền nhiễm dựa vào cộng đồng Với đặc điểm lây lan cực kỳ nguy hiểm của bệnh truyền nhiễm, vì vậy, việc phòng dịch dựa vào cộng đồng thông qua truyền thông nhằm nâng cao nhận thức chuyển đổi hành vi trong nhân dân Dự án đã xây dựng mô hình điểm về truyền thông phòng bệnh TCM tại thị trấn Đinh Văn (huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng) Mục tiêu đưa ra mô hình can thiệp TT-GDSK vào cộng đồng nhằm thay đổi hành vi về phòng bệnh TCM, cụ thể: Có ít nhất 90% hộ gia đình ở Đinh Văn – Lâm Hà – Lâm Đồng có kiến thức đúng về bệnh TCM, 80% hộ gia đình thực hành đúng các biện pháp phòng bệnh TCM Theo ghi nhận, huyệnLâm Hà là địa phương có tỉ lệ mắc bệnh TCM cao, trong đó số xã có nhiều người mắc bệnh như: Đinh Văn, Tân Văn, Tân Hà, Đạ Đờn Tại mô hình điểm, Trung tâmTT-GDSK tỉnh đã tổ chức 88 buổi thảo luận nhóm, 1.738 buổi thăm hộ gia đình, tư vấn sức khỏe cho 14.537 lượt người, 93 buổi nói chuyện sức khỏe, 8 buổi làm mẫu, tăng cường truyền thông trên loa, đài, … Hạn chế của nghiên cứu là chưa huy động được các ban ngành đoàn thể vào việc phòng bệnh, chưa xây dựng đội ngũ các tuyên truyền viên ở các địa phương để duy trì việc phòng bệnh TCM cho cộng đồng.
Nghiên cứu của Hồ Thị Thiên Ngân và cộng sự đánh giá hiệu quả chương trình can thiệp nâng cao kiến thức và thực hành của người trực tiếp chăm sóc trẻ (NTTCST) về phòng bệnh tay chân miệng (TCM) tại quận Gò Vấp, TP Hồ Chí Minh từ tháng 6/2011 đến tháng 12/2012 Phương pháp nghiên cứu so sánh tỷ lệ kiến thức và thực hành đúng của NTTCST trước và sau can thiệp Kết quả cho thấy 76,5% NTTCST là nữ giới, 73,4% có trình độ học vấn cấp 3 trở lên, trong đó 43,1% là cha mẹ và 38% là người giúp việc Thông tin về bệnh và phòng bệnh chủ yếu từ tờ rơi (100%), thầy cô giáo (98%) và tivi (87,6%) Kiến thức nhận biết bệnh sau can thiệp tăng từ 54% lên 99%, kiến thức về dấu hiệu chuyển nặng tăng 30%, kiến thức phòng bệnh đúng tăng từ 43,8% lên 75,1%, và thực hành phòng bệnh đúng tăng từ 33,8% lên 57,6% Nghiên cứu cho thấy kiến thức về bệnh TCM của NTTCST đã tăng trên 30% và thực hành phòng bệnh tăng 23,8%, có ý nghĩa thống kê, khẳng định chiến lược phòng bệnh hiệu quả thông qua chương trình can thiệp nâng cao nhận thức và thực hành, góp phần giảm số ca mắc và tử vong.
Nghiên cứu của Vũ Thị Thuý Mai và Đỗ Minh Sinh cho thấy, sau can thiệp, 100% bà mẹ nhận thức được rằng tiếp xúc với người mắc bệnh là yếu tố nguy cơ, và 53% có khả năng phân biệt bệnh TCM với các bệnh khác Kiến thức về biện pháp phòng bệnh cũng được cải thiện, với 77,3% bà mẹ biết cần vệ sinh cá nhân trước can thiệp, trong khi sau can thiệp, tỷ lệ này tăng lên trên 93,3% và duy trì cao sau 3 tháng Mặc dù có sự khác biệt rõ rệt trong điểm kiến thức giữa các thời điểm phỏng vấn, nghiên cứu vẫn gặp hạn chế do thiết kế tiền thực nghiệm.
Nhóm so sánh trước sau có một số hạn chế có thể ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu, bao gồm tác động ngoại lai, sai số chọn và sự trưởng thành của đối tượng.
Nghiên cứu chỉ mới đề cập đến kiến thức về bệnh TCM của ĐTNC, chưa đề cập đến thực hành phòng bệnh của ĐTNC.
Nghiên cứu về phòng bệnh tay chân miệng (TCM) tại Việt Nam và trên thế giới đã chỉ ra nhiều phương pháp hiệu quả, bao gồm giáo dục vệ sinh và truyền thông sâu rộng Các chương trình phòng bệnh TCM được triển khai tại nhiều quốc gia như Trung Quốc và Singapore, tập trung vào việc xây dựng hệ thống giám sát dịch, hỗ trợ trường học và cơ sở chăm sóc ban ngày, cũng như tuyên truyền về các yếu tố nguy cơ và biện pháp phòng ngừa Tại Việt Nam, Bộ Y tế đã ban hành các văn bản hướng dẫn về giám sát, phòng và điều trị bệnh TCM, nhấn mạnh việc tuyên truyền cần linh hoạt theo điều kiện từng địa phương nhưng vẫn đảm bảo chất lượng và hiệu quả.
Khung lý thuyết nghiên cứu
Cơ sở xây dựng khung lý thuyết nghiên cứu:
Các nghiên cứu tại Việt Nam và trên thế giới cho thấy việc nâng cao kiến thức về phòng bệnh tay chân miệng (TCM) cho các bà mẹ có con dưới 5 tuổi là rất cần thiết Kết quả này phù hợp với nguyên lý của mô hình niềm tin sức khỏe: nếu các bà mẹ thiếu kiến thức về phòng bệnh TCM, điều này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe của trẻ, gia đình và có thể lây lan ra cộng đồng Do đó, việc cung cấp kiến thức cho các bà mẹ và cộng đồng về phòng bệnh TCM là vấn đề quan trọng trong truyền thông y tế Sự thiếu hụt kiến thức, niềm tin và thái độ đã chỉ ra nhu cầu cấp thiết phải có các hoạt động truyền thông nhằm nâng cao hiểu biết và tuyên truyền cho gia đình và cộng đồng, tạo hiệu quả trong công tác truyền thông giáo dục sức khỏe phòng bệnh TCM.
Bên cạnh các yếu tố thuộc về cá nhân, những yếu tố tác động từ môi trường xung quanh như gia đình và cộng đồng cũng ảnh hưởng đến việc phòng bệnh TCM Từ tổng quan tài liệu, việc huy động sự tham gia của các tổ chức, ban ngành và đoàn thể đã góp phần quan trọng vào công tác phòng bệnh TCM tại địa phương, nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa.
Chúng tôi đã phát triển khung lý thuyết cho nghiên cứu này bằng cách kết hợp hai mô hình lý thuyết: Mô hình niềm tin sức khoẻ để phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sức khỏe và xác định các yếu tố có thể can thiệp, cùng với Mô hình chiến lược truyền thông để xác định đối tượng, nội dung và phương pháp truyền thông phù hợp.
Sơ đồ 1.1: Khung lý thuyết nghiên cứu
Khái quát về địa bàn nghiên cứu huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam
Tỉnh Hà Nam, nằm cách thủ đô Hà Nội hơn 50 km, đóng vai trò là cửa ngõ phía Nam của thủ đô, giáp với nhiều tỉnh lân cận như Hà Tây, Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình và Hòa Bình Vị trí địa lý thuận lợi này giúp tỉnh phát triển kinh tế và xã hội mạnh mẽ, với hệ thống giao thông đa dạng tạo điều kiện cho giao lưu văn hóa, kinh tế và khoa học - kỹ thuật Tuy nhiên, Hà Nam vẫn gặp nhiều thách thức trong lĩnh vực văn hóa xã hội, đặc biệt là chất lượng khám chữa bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm, ô nhiễm môi trường, đặc biệt tại lưu vực sông Nhuệ-Đáy và các khu vực nông thôn, làng nghề.
Tỉnh Hà Nam gồm có 1 thành phố và 5 huyện: Thành phố Phủ Lý, huyện Duy Tiên, Kim Bảng, Lý Nhân, Thanh Liêm, Bình Lục.
Huyện Bình Lục, nằm ở phía Đông tỉnh Hà Nam, giáp ranh với tỉnh Nam Định và cách thành phố Nam Định 15 km qua quốc lộ 21A Với vị trí địa lý và khí hậu đặc trưng của Hà Nam, huyện bao gồm một thị trấn Bình Mỹ và 20 xã.
Tính đến tháng 2013, huyện có dân số 792.408 người, trong đó lao động nông nghiệp chiếm 69,1%, lao động trong ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chiếm 7,5%, lao động trong ngành xây dựng chiếm 3%, lao động trong lĩnh vực thương mại chiếm 4,1%, và lao động trong quản lý nhà nước và hành chính sự nghiệp chiếm 3,28%.
Tình hình mắc bệnh tay chân miệng (TCM) tại tỉnh Hà Nam phản ánh xu thế chung của cả nước Theo báo cáo của Cục Y tế Dự phòng, số ca mắc TCM ở Hà Nam đã tăng từ 270 ca vào năm 2011 lên 729 ca vào năm 2012, trước khi giảm xuống còn 437 ca vào năm 2013.
Biểu đồ 1.2: Phân bố số ca mắc bệnh TCM của tỉnh Hà Nam theo tháng.
(Nguồn số liệu: Cục Y tế Dự phòng - Thống kê bệnh TCM của tỉnh Hà Nam)
Xã Đồn Xá và xã An Lão là hai xã được lựa chọn cho nghiên cứu, trong đó xã Đồn Xá nằm ở phía Bắc huyện Bình Lục với diện tích 7,66 km2 và dân số khoảng 7012 người, còn xã An Lão nằm ở phía Nam huyện Bình Lục, có diện tích khoảng 11,9 km2 và dân số khoảng 14.000 người Xã An Lão được chọn làm xã nghiên cứu can thiệp trong đề tài cấp nhà nước “Nghiên cứu thực trạng, xây dựng mô hình dự báo, kiểm soát một số nhóm bệnh có liên quan đến biến đổi khí hậu ở Việt Nam” của Trường Đại học Y Hà Nội, mã số ĐTĐL.2012-G/32, với hai mục tiêu nghiên cứu chính.
1 Đánh giá thực trạng một số nhóm bệnh có liên quan đến biến đổi khí hậu ở Việt Nam.
2 Xây dựng mô hình dự báo và mô hình kiểm soát một số nhóm bệnh có liên quan đến biến đổi khí hậu dựa vào cộng đồng. Đề tài Nhà nước phân thành 4 đề tài nhánh:
1 Xây dựng mô hình kiểm soát một số nhóm bệnh liên quan đến biến đổi khí hậu dựa vào cộng đồng Mã số ĐTĐL.2012-G1/32.
2 Thực trạng một số bệnh Lây và mối liên quan với điều kiện khí hậu tại Việt Nam Mã số ĐTĐL.2012-G2/32.
3 Thực trạng và xu hướng một số bệnh không lây liên quan đến biến đổi khí hậu ở Việt Nam Mã số ĐTĐL.2012-G3/32.
4 Xác định các yếu tố ảnh hưởng và xây dựng mô hình dự báo bệnh sốt xuất huyết và biến đổi Huyết áp liên quan đến biến đổi khí hậu, vi khí hậu tại một số vùng sinh thái của Việt Nam Mã số ĐTĐL.2012-G4/32.
Nghiên cứu của tôi thuộc đề tài nhánh 1, trong đó tôi tham gia với vai trò nghiên cứu viên Công việc của tôi bao gồm xây dựng bộ công cụ, thu thập số liệu, phát triển tài liệu truyền thông, tham gia các hoạt động can thiệp truyền thông giáo dục sức khỏe phòng bệnh tại cộng đồng, cũng như viết báo cáo chuyên đề và báo cáo đề tài liên quan đến bệnh tay chân miệng (TCM).