1. Trang chủ
  2. » Nông - Lâm - Ngư

PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CUNG CẤP VÀ SỬ DỤNG GIỐNG CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

122 56 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Phân Tích Tình Hình Cung Cấp Và Sử Dụng Giống Cá Tra (Pangasianodon hypophthalmus) Ở Đồng Bằng Sông Cửu Long
Tác giả Lê Lệ Hiền
Người hướng dẫn TS. Lê Xuân Sinh
Trường học Trường Đại Học Cần Thơ
Chuyên ngành Nuôi Trồng Thủy Sản
Thể loại Luận Văn Tốt Nghiệp Cao Học
Năm xuất bản 2008
Thành phố Cần Thơ
Định dạng
Số trang 122
Dung lượng 3,45 MB

Cấu trúc

  • TÓM TẮT

  • ABSTRACT

  • MỤC LỤC

  • DANH SÁCH BẢNG

  • DANH SÁCH HÌNH

  • DANH MỤC VIẾT TẮT

  • CHƯƠNG I

  • GIỚI THIỆU

  • CHƯƠNG II

  • TỔNG QUAN TÀI LIỆU

  • CHƯƠNG III

  • PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

  • CHƯƠNG IV

  • KẾT QUẢ THẢO LUẬN

  • CHƯƠNG V

  • KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • PHỤ LỤC

Nội dung

Đặt vấn đề

Trong những năm qua, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ về số lượng, chủng loại và giá trị, trở thành mặt hàng chủ lực trong nền kinh tế quốc dân Năm 2006, Việt Nam đứng thứ 5 thế giới về nuôi trồng thủy sản và là một trong những nước xuất khẩu lớn nhất Tổng sản lượng nuôi thủy sản đã tăng từ 1,11 triệu tấn năm 1994 lên 3,04 triệu tấn năm 2004 Cá tra, sau tôm sú, là mặt hàng phát triển mạnh nhất, với kim ngạch xuất khẩu đạt 700 triệu USD năm 2006 và 1 tỷ USD năm 2007, dự kiến sẽ đạt 1,2 tỷ USD năm 2008 Đồng bằng sông Cửu Long chiếm 55-60% tổng sản lượng nuôi trồng và hơn 60% tổng sản lượng xuất khẩu thủy sản, chủ yếu sản xuất cá tra Thị trường cá tra đang mở rộng với nhu cầu cao, nhưng sự gia tăng nhanh chóng diện tích nuôi cá tra cũng kéo theo nhiều rủi ro như ô nhiễm môi trường, dịch bệnh và biến động giá cả, ảnh hưởng đến tính bền vững của nghề nuôi cá tra tại ĐBSCL.

Con giống là yếu tố quan trọng trong sản xuất, mặc dù chỉ chiếm khoảng 10% trong giá thành, nhưng ảnh hưởng lớn đến năng suất và sản lượng nuôi cá (Nguyễn Thị Ngọc Trinh, 2006) Để đảm bảo chất lượng con giống và sản phẩm cá sạch đạt tiêu chuẩn quốc tế, cần chú ý đến nguồn gốc cá bố mẹ, quy trình nuôi vỗ, nguồn thức ăn, phương pháp phòng trị bệnh, và công nghệ chế biến Việc chọn con giống tốt không chỉ giảm thiểu rủi ro trong quá trình nuôi mà còn là điều kiện thiết yếu để nâng cao hiệu quả sản xuất Đề tài: “Phân tích tình hình cung cấp và sử dụng giống cá tra.”

Nghiên cứu về cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) tại Đồng bằng sông Cửu Long nhằm tìm hiểu quy trình sản xuất, cung cấp và sử dụng giống cá tra, cũng như quản lý chất lượng đàn cá bố mẹ Mục tiêu là xây dựng cơ sở cho sự phát triển bền vững của nghề nuôi cá tra trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu.

Mục tiêu nghiên cứu

Đề tài này nhằm phân tích thực trạng sản xuất, kinh doanh và sử dụng giống cá tra ở ĐBSCL, từ đó cung cấp thông tin hữu ích cho các bên liên quan Bài viết cũng đề xuất các giải pháp cơ bản để cải thiện hiệu quả sản xuất, sử dụng và quản lý chất lượng giống cá tra, đồng thời chú trọng đến lợi ích của cả người cung cấp và người tiêu thụ.

(1) Làm rõ được tình hình cung cấp và tiêu thụ cá tra giống từ khâu sản xuất giống tới người nuôi cá thương phẩm ở khu vực ĐBSCL.

Tính toán các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật chủ yếu là rất quan trọng đối với các tác nhân trong ngành hàng cá tra giống, bao gồm trại sản xuất cá bột, cơ sở ương bột lên giống và cơ sở nuôi cá tra thương phẩm Việc này giúp tối ưu hóa quy trình sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế cho toàn ngành.

Để nâng cao hiệu quả của các tác nhân liên quan đến năng suất và lợi nhuận trong ngành nuôi cá tra, cần xác định rõ các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến chúng Đồng thời, việc hiểu rõ nhận thức của các nhóm tác nhân tham gia vào việc cung cấp và sử dụng giống cá tra cũng là điều cần thiết.

(4) Đề xuất được một số giải pháp mang tính khả thi để cải thiện tình hình cung cấp và sử dụng giống cá tra ở khu vực ĐBSCL.

Giả thiết nghiên cứu

Các giả thiết cơ bản của nghiên cứu này là:

Không có sự khác biệt về tỷ lệ sống, năng suất cá bột và lợi nhuận của trại giống khi sử dụng cá bố mẹ khác nhau.

Nghiên cứu chỉ ra rằng không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ sống, năng suất và lợi nhuận khi sử dụng nguồn cá tra bột trong quá trình ương cá tra giống.

(3) H03: Không có sự khác biệt về năng suất và lợi nhuận cá tra nuôi do tác động của kích cỡ và mật độ thả nuôi cá giống.

Kết luận được rút ra từ các kết quả kiểm định thống kê để chấp nhận hay bác bỏ các giả thiết trên đây.

Nội dung nghiên cứu

Nghiên cứu này được thực hiện ở các tỉnh nuôi cá tra chủ yếu ở ĐBSCL với các nội dung sau đây:

- Khảo sát tình hình hoạt động và khả năng cung cấp của các cơ sở sản xuất giống và các cơ sở ương giống cá tra;

- Phân tích các chỉ tiêu kinh tế-kỹ thuật chủ yếu của các nhóm đối tượng nghiên cứu trong sản xuất và kinh doanh giống cá tra;

Phân tích khả năng cung cấp giống cá tra từ các cơ sở giống và cơ sở ương là rất quan trọng, đồng thời cần đánh giá nhu cầu của người nuôi cá thương phẩm để đảm bảo sự phát triển bền vững của ngành nuôi trồng thủy sản Việc hiểu rõ nguồn cung và nhu cầu sẽ giúp cải thiện chất lượng giống, đáp ứng tốt hơn thị trường và tăng cường hiệu quả sản xuất cho người nuôi.

- Đánh giá công tác quản lý ngành đối với việc sản xuất kinh doanh và sử dụng giống cá tra.

Hình 1.1: Bản đồ Đồng bằng sông Cửu Long Địa bàn nghiên cứu

Tình hình nghề nuôi cá tra trên thế giới

Thủy sản đóng vai trò quan trọng trong chế độ dinh dưỡng của con người, cung cấp protein thiết yếu Nhu cầu tiêu thụ thủy sản toàn cầu đang gia tăng, đặc biệt là xu hướng thay thế thịt gia cầm Tuy nhiên, thị trường hiện nay đang thiếu nguồn cung, tạo ra cơ hội lớn cho các quốc gia như Việt Nam, vốn có tiềm năng trong sản xuất, chế biến và xuất khẩu thủy sản.

Theo thống kê của FAO năm 2004, từ năm 1970 đến năm 2002, nuôi trồng thủy sản (NTTS) có tỷ lệ tăng trưởng trung bình hàng năm là 8,9%, với 91,2% sản lượng đến từ các quốc gia Châu Á Trung Quốc dẫn đầu về sản lượng NTTS, chiếm 71,2% tổng sản lượng và 54,7% giá trị năm 2002 Trong giai đoạn 1970 – 2000, nuôi nước ngọt có mức tăng cao nhất với 9,7%, tiếp theo là nuôi nước lợ 8,4% và nuôi biển 8,3% Đến năm 2003, sản lượng NTTS toàn cầu đạt 68,32%, và năm 2004, Việt Nam đứng đầu trong số 10 quốc gia hàng đầu về nuôi trồng thủy sản.

Cá tra và basa là hai loài cá nuôi có giá trị kinh tế cao, phân bố chủ yếu ở các nước Đông Nam Á như Campuchia, Thái Lan, Indonesia và Việt Nam Chúng được nuôi phổ biến và là một trong những loài cá nuôi quan trọng nhất trong khu vực, đặc biệt ở bốn nước hạ lưu sông Mêkong Tại Campuchia, cá tra chiếm 98% trong số các loài thuộc họ cá tra, trong khi cá basa và cá vồ đém chỉ chiếm 2% Ngoài ra, Malaysia và Indonesia cũng đã bắt đầu nuôi cá tra hiệu quả từ thập niên 70-80 Tại Thái Lan và Campuchia, cá Pangasius sutchi được nuôi chủ yếu trong ao và bè.

Từ xưa cá Pangasius được nuôi trong những bè nổi bằng tre ở Thái Lan và Campuchia Hệ thống nuôi này cũng được áp dụng ở Châu Âu và Mỹ (Pillay,

Trước đây, nhu cầu về sản phẩm cá da trơn tại Mỹ rất hạn chế, nhưng sau các chiến dịch tiếp thị từ các trại nuôi và doanh nghiệp chế biến thủy sản, nhu cầu đã gia tăng đáng kể Sản lượng cá da trơn tại Mỹ đã tăng từ 2,580 tấn vào năm 1970 lên 271,000 tấn vào năm 2001, chủ yếu tập trung ở đồng bằng sông Mississippi, bao gồm các bang Mississippi, Alabama, Arkansas và Louisiana Theo nghiên cứu của Didi Sadidi (1998), nhu cầu giống cá P.hypophthalmus ở miền Nam Sumatra khoảng 2,000,000 con giống mỗi tháng, mặc dù nhu cầu này có sự dao động hàng năm do cá sinh sản chủ yếu vào mùa mưa, cùng với tỷ lệ sống của ấu trùng rất thấp, chỉ khoảng 10-20%.

Tình hình phát triển nghề nuôi cá tra ở Việt Nam và ĐBSCL

Nuôi cá tra, basa ở Việt Nam bắt đầu từ những năm 50 của thế kỷ 20 tại ĐBSCL, với quy mô nhỏ phục vụ thực phẩm tại chỗ Các hình thức nuôi chủ yếu dựa vào ao hầm, mương vườn và nguồn thức ăn sẵn có Từ cuối thập niên 90, ngành nuôi cá tra, basa đã có những bước tiến mạnh mẽ khi các doanh nghiệp chế biến tìm được thị trường xuất khẩu, và các viện nghiên cứu thành công trong quy trình sản xuất giống và nuôi thâm canh đạt năng suất cao Việc chủ động sản xuất giống cá tra, basa nhân tạo đã tạo điều kiện cho sản xuất hàng hóa tập trung, phục vụ xuất khẩu và tiêu dùng nội địa.

Từ nửa đầu thế kỷ 20, nuôi cá tra trong ao đã xuất hiện tại ĐBSCL, góp phần duy trì nguồn thực phẩm chính yếu và có mặt trên thị trường quanh năm Cá tra được nuôi phổ biến trong ao hầm và lồng bè, với sự phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây nhằm phục vụ tiêu thụ nội địa và cung cấp nguyên liệu cho chế biến, xuất khẩu Đặc biệt, việc chủ động về giống nhân tạo đã giúp nghề nuôi cá tra ngày càng ổn định và phát triển vượt bậc.

Ngành nuôi cá tra, basa đã phát triển mạnh mẽ tại các tỉnh ĐBSCL, đặc biệt là huyện Châu Đốc, An Giang, nơi tập trung nhiều bè cá và cung cấp giống cá cho toàn vùng Từ An Giang và Đồng Tháp, nghề nuôi cá tra, basa đã nhanh chóng lan tỏa đến Cần Thơ, Vĩnh Long, Bến Tre và Tiền Giang Sự thành công trong sản xuất giống nhân tạo đã thúc đẩy nghề nuôi cá trong ao và bè phát triển mạnh, biến cá tra, basa thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực với nhiều sản phẩm chế biến đa dạng, được xuất khẩu sang nhiều nước và vùng lãnh thổ Hiện nay, cá tra đang dẫn đầu về sản lượng xuất khẩu trong số các loài cá nước ngọt tại Việt Nam.

Sản lượng cá tra/basa gia tăng rất nhanh năm 2004 ở ĐBSCL chiếm 300,000 tấn trong tổng sản lượng 315,000 tấn cá tra/basa của Việt Nam (Bộ Thủy sản,

Năm 2005, Bộ Thuỷ sản dự kiến sản xuất khoảng 1 triệu tấn cá tra/basa tại vùng ĐBSCL vào năm 2010 Để đảm bảo sự phát triển bền vững cho ngành thuỷ sản, đặc biệt là nuôi cá tra/basa, cần phải cân bằng giữa sản lượng, thị trường, môi trường và các dịch vụ hỗ trợ như cung cấp con giống, thức ăn, tín dụng và đảm bảo tính hợp pháp.

Dự báo nhu cầu tiêu thụ cá da trơn trên toàn cầu sẽ tiếp tục tăng cao trong dài hạn, mặc dù có thể gặp phải những hạn chế về môi trường dẫn đến sự chậm lại trong nhịp tăng trưởng Do đó, sản lượng cá tra/basa được yêu cầu không vượt quá 600,000 tấn vào năm 2010, theo thông tin từ Bộ Thuỷ sản năm 2005.

2007 đã đạt 1 triệu tấn tăng 34,4% so với năm 2006 (Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, tháng 1 - 2008)

Theo Nguyễn Phú Son (2007), diện tích nuôi cá tra ao hầm đã tăng từ 2.720 ha vào năm 2002 lên 3.548 ha vào năm 2005, với mức tăng bình quân 18,6% Đến năm 2007, diện tích nuôi cá tra đạt gần 5.000 ha, cùng với gần 50 nhà máy chế biến cá tra có công suất thiết kế vượt quá 300.000 tấn/năm (Nguyễn Huyền).

& Phú Khởi, 2007) Theo thống kê của Sở Tài nguyên và Môi trường An Giang (2007) toàn tỉnh có 750 ha đất phát sinh nuôi thủy sản mới, trong đó có

Trong vùng quy hoạch được phê duyệt, có 450 ha, trong khi khoảng 300 ha nằm ngoài quy hoạch do nhu cầu xuất khẩu cá tra tăng mạnh và giá nguyên liệu cao, dẫn đến việc người dân đầu tư ồ ạt vào nuôi cá Tuy nhiên, việc nuôi cá tra tự phát đã vượt ngoài tầm kiểm soát và thiếu sự kết nối giữa người nuôi và doanh nghiệp Do đó, tổ chức quy hoạch lại vùng nuôi trồng thủy sản là một giải pháp quan trọng cho sự phát triển bền vững của ngành thủy sản.

Sự phát triển tự phát của nghề nuôi cá ở vùng ĐBSCL đã dẫn đến nguồn nguyên liệu cá tra, basa không ổn định, gây ra biến động giá cá nguyên liệu mạnh mẽ và thiệt hại cho người nuôi Hơn nữa, ý thức chưa cao trong việc xử lý và bảo vệ môi trường đã làm gia tăng tình trạng ô nhiễm, có nguy cơ gây ra dịch bệnh lớn Đây là những vấn đề nghiêm trọng ảnh hưởng đến ngành hàng cá tra, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu.

An toàn vệ sinh thực phẩm là thách thức lớn đối với ngành xuất khẩu thủy sản Việt Nam Các nước nhập khẩu ngày càng đặt ra tiêu chuẩn cao về hóa chất và dư lượng kháng sinh Để vượt qua rào cản kỹ thuật này, Việt Nam cần kiểm soát chất lượng thủy sản từ khâu nuôi trồng, bao gồm con giống, chất lượng thức ăn và nguồn nước.

Do chất lượng môi trường nước ngày càng xấu, nhiều hộ nuôi bè đã chuyển sang nuôi ao, dẫn đến tỷ lệ sống trung bình của cá thả trong bè giảm từ 80% năm 2002 xuống 70% năm 2004, trong khi tỷ lệ này ở ao là 90% năm 2002 và 85% năm 2004 Tại An Giang, tỷ lệ sống trung bình của cá ở vùng nuôi mới đạt 90,5%, cao hơn so với vùng nuôi truyền thống (88,6%) Việc thay đổi mô hình nuôi nhiều loài cá được xem là giải pháp giảm rủi ro cho nuôi đơn, với nhiều hộ nuôi cá tra/basa đã áp dụng phương pháp này, ưu tiên thêm các loài như cá rô phi đỏ và cá chép Tại tỉnh Vĩnh Long, cá tra vẫn chiếm khoảng 82% tổng số giống thả trong bè.

Năm 2003, tỷ lệ hao hụt trong nuôi trồng thủy sản đạt 42%, nhưng đã giảm xuống còn 42% vào năm 2004 (Khoa Thuỷ sản, 2004; Viện Nghiên cứu NTTS II, 2004) Theo khảo sát của Trần Anh Dũng (2005), có hai nguyên nhân chính gây hao hụt trong quá trình nuôi: (i) ô nhiễm môi trường và suy giảm chất lượng nước, đặc biệt do các yếu tố như pH và chất thải từ đồng ruộng, dẫn đến bệnh tật ở cá nuôi; (ii) chất lượng con giống không đảm bảo, do người sản xuất giống chú trọng vào số lượng, sử dụng quá nhiều kháng sinh trong giai đoạn cá giống, gây khó khăn trong việc phòng trị bệnh cho cá thịt.

Năm 2002, 99% hộ nuôi cá tra/basa sử dụng thức ăn tự chế, với cá tạp chiếm 20-30% nguyên liệu (Lê Xuân Sinh, 2005) Tuy nhiên, do thiếu nguồn cung cá tạp và vấn đề môi trường, các hộ nuôi đã chuyển sang thức ăn công nghiệp (Phạm Văn Khánh, 2003) Hiện nay, giá thức ăn đang gia tăng, chiếm phần lớn trong tổng chi phí nuôi cá tra cho cả hệ thống nuôi ao và bè (Lê Thanh Hùng và Huỳnh Phạm Việt Huy, 2006) Chi phí thức ăn trung bình cho nghề nuôi cá tra/basa ở An Giang là 70,5% tại các vùng nuôi mới, thấp hơn so với 74,5% ở vùng nuôi truyền thống (Trần Văn Nhì, 2005).

Quản lý sức khỏe cá gặp khó khăn do người nuôi thiếu thông tin và kiến thức về bệnh cá, theo kết quả điều tra của Lê Xuân Sinh và cộng sự.

Các bệnh nguy hiểm thường gặp trên cá tra nuôi vào năm 2006 bao gồm bệnh mủ gan, bệnh xuất huyết, ký sinh trùng, bệnh vàng da, bệnh đường ruột, trương bụng, nổ mắt, tuột nhớt, lở loét và nấm Tỷ lệ xuất hiện bệnh do vi khuẩn gây ra rất khác nhau, với bệnh mủ gan gây hao hụt nghiêm trọng, trong khi bệnh vàng da có thể gây chết hàng loạt mà chưa có thuốc đặc trị Theo ghi nhận, 83,3% hộ nuôi tăng cường sử dụng thuốc và hóa chất do ô nhiễm môi trường nước Bộ Thủy sản đã ban hành danh mục thuốc và hóa chất cho phép, hạn chế và cấm sử dụng trong nuôi trồng thủy sản, với 10 loại kháng sinh bị cấm vào năm 2002, tăng lên 17 loại vào tháng 2/2005 và 34 loại hạn chế sử dụng vào tháng 8/2005, trong đó có 11 sản phẩm thuộc nhóm Fluoroquinolones bị cấm.

US và Canada (Bộ thủy sản, 2005).

Tình hình sản xuất giống cá tra ở ĐBSCL

Nghề nuôi cá da trơn là một nghề truyền thống của Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam, bắt đầu với việc thu hoạch cá bột từ tự nhiên vào mùa nước nổi để nuôi trong ao và bè, phục vụ chủ yếu cho tiêu dùng nội địa Tuy nhiên, từ năm 1990, cá da trơn đã được xuất khẩu ra thị trường quốc tế và nhanh chóng được người tiêu dùng ưa chuộng nhờ hương vị đặc biệt và chất lượng thịt ngon.

Hàng năm, cá tra bột được thu hoạch từ sông Tiền và sông Hậu, nhưng từ năm 1998, cá tra giống nhân tạo đã thay thế hoàn toàn cá tra vớt tự nhiên Theo Hội Nghề cá Việt Nam, trong những thập niên 60-70, sản lượng cá bột vớt đạt từ 500-800 triệu con, trong khi cá giống ương nuôi chỉ đạt 70-120 triệu con Tuy nhiên, sản lượng cá bột vớt ngày càng giảm do biến động môi trường và khai thác quá mức Việc sản xuất giống cá tra nhân tạo đã đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người nuôi, với khoảng 3 tỷ cá bột được sản xuất vào năm 2004, góp phần quan trọng cho sự phát triển nghề nuôi cá tra/basa.

Nghiên cứu năm 2005 chỉ ra rằng vào mùa vụ, nhu cầu về con giống tăng cao, gây ra tình trạng thiếu hụt con giống cung cấp Điều này buộc các trại sản xuất giống phải sử dụng cá bố mẹ để đẻ nhiều lần, dẫn đến sự giảm sút chất lượng của con giống (Lê Xuân Sinh & Nguyễn Thị Phương Nga, 2004).

Theo Phạm Văn Khánh (2004), nhu cầu cao về giống cá đã khiến các cơ sở sản xuất chỉ chú trọng vào việc tạo ra cá bột mà bỏ qua yếu tố năng suất và chất lượng Điều này dẫn đến tình trạng đàn cá bố mẹ có sức sinh sản thấp và năng suất cá bột kém Chất lượng con giống là yếu tố then chốt để thành công trong nghề nuôi cá tra, do đó cần chú ý đến nguồn gốc cá bố mẹ, chế độ nuôi vỗ và nguồn thức ăn Báo Sài Gòn Giải Phóng (2006) cũng chỉ ra rằng một số trại giống tư nhân vì lợi nhuận đã sử dụng kích dục tố không hợp lý, dẫn đến cá giống kém chất lượng và chết hàng loạt do bệnh vàng da Để rút ngắn thời gian nuôi vỗ, nhiều nông hộ chọn cá thịt làm cá bố mẹ, trong khi một số ít giữ lại cá giống để ương nuôi hoặc mua cá bố mẹ từ trại khác nhằm làm đa dạng đàn cá bố mẹ (Dương Thúy Yên, 2006).

Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường (2007), nghề nuôi cá tra, ba sa ở ĐBSCL mặc dù có sản lượng lớn nhưng đang gặp nhiều khó khăn về con giống, dịch bệnh, thủy lợi và quy hoạch Mặc dù Bộ Thủy sản đã ban hành các tiêu chuẩn ngành như 28 TCN211: 2004 và 28 TCN167: 2001 để cải thiện chất lượng giống, nhưng chất lượng cá tra giống vẫn không ổn định, gây ra nhiều phàn nàn từ người nuôi Nguyên nhân có thể do kỹ thuật ương cá và nguồn giống cá bố mẹ bị cận huyết, dẫn đến hiện tượng thoái hóa Theo Dương Thúy Yên (2006), phần lớn người dân vẫn chưa nhận thức rõ về cận huyết, với 90% chọn giống từ cá thịt nuôi trong trại hoặc từ các hộ nuôi khác, làm gia tăng nguy cơ lai cận huyết Chương trình sản xuất giống tại các trại có thể dẫn đến tỷ lệ lai cận huyết 3-5% sau mỗi thế hệ, và sau khoảng 3-5 thế hệ, đàn cá sẽ bị suy thoái do cận huyết (Tave, 1999).

Khoảng 30% trại sản xuất giống cá tra và basa có đủ ao và bè để nuôi vỗ cá bố mẹ, trong khi phần lớn các trại tư nhân thiếu cơ sở vật chất này, dẫn đến việc nuôi vỗ cá bố mẹ với mật độ cao Nhiều đàn cá bố mẹ không được khai thác sinh sản do không tiêu thụ được cá bột (Phạm Văn Khánh, 2004) Theo Dương Thúy Yên (2006), số đợt sản xuất hàng năm khá nhiều, mỗi cá bố mẹ được sử dụng trung bình 3 lần/năm, điều này ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng đàn cá tra bột.

Mặc dù sản xuất giống cá tra và basa đã được xã hội hóa, cung cấp đủ con giống cho nhu cầu nuôi trồng, nhưng hiện nay vẫn gặp khó khăn do sự phụ thuộc vào cơ chế thị trường Khi cầu vượt cung, chất lượng con giống thường không được các lái cá chú trọng, họ chỉ tập trung vào việc mua bán số lượng lớn để thu lợi nhuận cao.

Những thuận lợi và khó khăn của nghề nuôi cá tra ở ĐBSCL

Thị trường tiêu thụ cá tra của Việt Nam đang mở rộng, với EU là thị trường lớn nhất, đạt hơn 120,000MT và giá trị 340 triệu USD vào năm 2006 Trong quý I/2007, xuất khẩu cá tra/basa tăng mạnh, đạt 80,851 tấn và 206,338 triệu USD, trong đó EU dẫn đầu với 35,853 tấn, tăng 38,9% về sản lượng và 50,6% về giá trị Thị trường Nga cũng ghi nhận sự tăng trưởng cao với 13,819 tấn, tăng 61,7%, trong khi Mỹ đạt 3,810 tấn, tăng 47,3% về sản lượng.

Ngành nuôi cá đang phát triển nhanh chóng nhưng thiếu quy hoạch, dẫn đến nhiều vấn đề ảnh hưởng đến năng suất, đặc biệt là chất lượng con giống và thức ăn Mặc dù sản xuất giống cá tra ngày càng tăng, nhưng việc thiếu kiểm soát đã làm giảm chất lượng con giống và không đáp ứng đủ nhu cầu Cạnh tranh gia tăng giữa các hộ sản xuất và sự gia tăng số lượng trại nuôi đã khiến giá cả đầu ra không ổn định, đồng thời gây khó khăn cho các cơ quan chức năng trong việc kiểm tra vệ sinh thủy sản và kiểm soát dịch bệnh, từ đó làm giảm chất lượng cá giống sản xuất ra.

Thị trường tiêu thụ cá tra không ổn định đã dẫn đến sự biến động giá cả mạnh mẽ Theo báo Sài Gòn Giải Phóng (2006), trong 9 năm xuất khẩu cá tra/basa, đã có 8 lần giá cá biến động bất thường Trong quý I/2007, các doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất do nguồn cung hạn chế và giá nguyên liệu cao, với giá cá tra nguyên liệu tăng lên đến 17,500-17,800đ/kg (VASEP).

Ngành thủy sản tại địa phương vẫn phát triển một cách tự phát, thiếu sự quản lý hiệu quả, dẫn đến tình trạng cung cầu không cân đối và giá cả không ổn định, ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của ngành (Báo Cần Thơ, 2007) Sự gia tăng quá nhanh diện tích nuôi cá tra/basa không chỉ làm tổn hại đến môi trường sinh thái mà còn gây ra những tác động tiêu cực đến các ngành nuôi trồng thủy sản khác và nảy sinh vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm (Đức Hoàng, 2007).

Phạm vi và đối tượng nghiên cứu

Thời gian: Đề tài này được tiến hành từ tháng 6/2007 đến tháng 6/2008.

Khảo sát thu mẫu đã được tiến hành tại 9 tỉnh thành ở Đồng bằng sông Cửu Long, bao gồm An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Vĩnh Long, Hậu Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre và Tiền Giang Toàn bộ quá trình nhập, xử lý, phân tích số liệu và viết báo cáo được thực hiện tại Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ.

Nghiên cứu tập trung vào sản xuất và sử dụng giống cá tra, đặc biệt là mô hình nuôi cá trong ao Thông tin về nuôi bè và đăng quầng được tham khảo từ các nghiên cứu trước đây.

Phương pháp thu thập thông tin và số liệu

Thông tin thứ cấp được thu thập từ các tài liệu xuất bản, nghiên cứu trước đây, báo cáo của các cơ quan chuyên ngành, thông tin trên website và bài báo chuyên ngành liên quan đến chủ đề nghiên cứu Ngoài ra, tiến hành phỏng vấn cán bộ địa phương phụ trách thủy sản bằng biểu mẫu đã chuẩn bị sẵn.

Sử dụng bản phỏng vấn đã chuẩn bị sẵn để thu thập thông tin trực tiếp từ các cơ sở sản xuất giống, cơ sở ương cá giống và hộ nuôi cá tra là một phương pháp hiệu quả nhằm nắm bắt thông tin cần thiết trong ngành nuôi trồng thủy sản.

Phân bố mẫu theo từng địa bàn nghiên cứu

Các mẫu khảo sát được từ các nhóm đối tượng tham gia sản xuất kinh doanh và sử dụng cá tra được trình bày trong bảng sau đây.

Bảng 3.1: Phân bố số mẫu thu được theo từng nhóm đối tượng nghiên cứu

Sản xuất giống Tỉnh An Giang Đồng Tháp Tổng

Số mẫu 7 26 33 Ương Tỉnh An Giang Đồng Tháp Các tỉnh khác Tổng

Nuôi thương phẩm Tỉnh Các tỉnh nội đồng Các tỉnh ven biển Tổng

(Các tỉnh nội đồng gồm các tỉnh: An Giang; Đồng Tháp; Cần Thơ; Hậu Giang và Vĩnh Long

Các tỉnh ven biển gồm các tỉnh: Tiền Giang; Bến Tre; Trà Vinh và Sóc Trăng)

Danh mục các biến chủ yếu được sử dụng trong nghiên cứu

Các bảng phỏng vấn trong nghiên cứu này được thiết kế riêng cho từng nhóm đối tượng, dựa trên các biến chủ yếu được nêu trong Bảng 3.2.

Bảng 3.2: Các biến chủ yếu theo từng nhóm đối tượng nghiên cứu

Các biến chủ yếu Cơ sở sản xuất giống

Cơ sở ương Hộ nuôi

1 Các thông tin chung như: địa chỉ; họ tên chủ cơ sở; lao động gia đình; lao động thuê; nguồn thông tin kinh tế-kỹ thuật; … x x x

2 Thiết kế & trang thiết bị như: diện tích; số lượng bể/ao; công suất thiết kế; máy móc thiết bị; … x x x

3 Quy trình sản xuất & các chỉ tiêu về kỹ thuật như: mùa vụ; cách chọn cá bố mẹ/cá bột/cá giống; số đợt cho cá đẻ/ương/nuôi trong năm; thời gian sản xuất giống/ương/nuôi trong đợt/vụ; nguồn nước; cải tạo ao; … x x x

4 Năng suất & sản lượng (cá bột; cá giống; cá thịt) x x x

5 Chi phí (chi phí cố định và chi phí biến đổi), tiêu thụ, thu nhập, lợi nhuận trong sản xuất giống; ương; nuôi x x x

6 Nhận thức (có liên quan tới cá bố mẹ, cá bột, cá giống, quản lý chất lượng,…) x x x

Phương pháp xử lý và phân tích số liệu

Sau khi thu thập, số liệu sẽ được kiểm tra, phân tích và mã hoá trước khi nhập vào máy tính Phần mềm Excel và SPSS for Windows được sử dụng để nhập số liệu, kiểm tra và hoàn thiện trước khi tiến hành xử lý và phân tích Đồng thời, phần mềm Word được kết hợp với Excel và SPSS for Windows để biên soạn báo cáo.

Phương pháp phân tích thống kê mô tả được sử dụng để trình bày các chỉ tiêu kinh tế-kỹ thuật thông qua việc áp dụng các giá trị trung bình, lớn nhất, nhỏ nhất, độ lệch chuẩn, tần suất và tỷ lệ phần trăm Bên cạnh đó, việc kết hợp với so sánh bảng chéo (Cross-tabulation) giúp làm rõ mối quan hệ giữa các biến và tăng cường khả năng phân tích dữ liệu.

* Phương pháp so sánh thống kê: để kiểm định giá trị trung bình của các biến nhằm so sánh giữa các nhóm đối tượng nghiên cứu (độ tin cậy α = 95%).

Phương pháp phân tích tương quan đa biến được sử dụng để nghiên cứu mối quan hệ giữa các biến độc lập có khả năng ảnh hưởng đến năng suất trong sản xuất giống, ương giống và nuôi cá tra thịt.

Phương trình tương quan đa biến ở dạng tổng quát là:

- Y là năng suất hay lợi nhuận trong sản xuất giống, ương cá giống và nuôi cá tra thương phẩm.

- Xi là biến độc lập giả định có ảnh hưởng tới Y

- bi là hệ số tương quan

Kết quả từ các mô hình tương quan đa biến sẽ làm nền tảng để phân tích các tương tác đơn biến giữa các biến độc lập Xi và biến phụ thuộc Y, bao gồm năng suất và lợi nhuận.

* Sử dụng phương pháp phân tích bảng chéo và tần suất để phân tích nhận thức của nhóm đối tượng nghiên cứu.

Thông tin chung về các cơ sở sản xuất và ương giống cá tra ở ĐBSCL 30

Tuổi trung bình của các chủ cơ sở sản xuất và ương cá tra giống là 47 và 44 tuổi Cụ thể, 40,6% chủ cơ sở sản xuất giống nằm trong độ tuổi từ 40-50, trong khi đó tỷ lệ này ở cơ sở ương là 47,4% Đặc biệt, 37% các chủ cơ sở đều trên 50 tuổi Điều này cho thấy hầu hết các chủ cơ sở trong hai nhóm nghiên cứu đều trên 40 tuổi.

Theo khảo sát, 48,3% chủ cơ sở sản xuất giống có trình độ văn hóa cấp 3, trong khi ở cơ sở ương tỷ lệ này là 38,9% Trình độ cấp 2 ở cơ sở sản xuất giống chiếm 34,5% và ở cơ sở ương là 27,8% Hầu hết các cơ sở không thuê cán bộ kỹ thuật chuyên môn, chỉ có một cơ sở sản xuất giống nhà nước và một cơ sở ương công ty có cán bộ quản lý Phần lớn chủ cơ sở học hỏi chuyên môn từ kinh nghiệm và các khóa tập huấn, với tỷ lệ 56,3% cho sản xuất giống và 31,6% cho ương Mặc dù trình độ chỉ ở cấp 2, 3 và thiếu cán bộ kỹ thuật, các cơ sở sản xuất giống vẫn thành công trong việc sinh sản nhân tạo nhờ vào kinh nghiệm thực tế và kỹ thuật tiếp thu từ tập huấn, đạt hiệu quả ngày càng cao.

4.1.2 Lao động tham gia sản xuất và ương cá giống

Nhiều cơ sở sản xuất giống và ương cá tra sử dụng lao động gia đình để tiết kiệm chi phí thuê nhân công Trung bình, mỗi cơ sở có khoảng 3 lao động gia đình tham gia, với số lượng dao động từ 1 đến 3 người.

Trong một nghiên cứu về lực lượng lao động, có 6 người tham gia, trong đó lao động nam chiếm 75,6% và lao động nữ chiếm 24,4% Tại cơ sở ương, trung bình mỗi gia đình có 2 người tham gia lao động, với số lượng ít nhất là 1 người và nhiều nhất là 4 người; trong số này, lao động nam chiếm 82,8% và lao động nữ chiếm 17,2%.

Lao động thuê tại các cơ sở sản xuất phụ thuộc vào quy mô, với trung bình 4,6 người, dao động từ 1 đến 10 người Đặc biệt, lao động nam chiếm tới 97,7% trong tổng số lao động thuê mướn Nhiều cơ sở ương cá tra không thuê lao động thường xuyên do quy mô diện tích nhỏ, chủ yếu dựa vào nguồn lao động gia đình Ngược lại, các cơ sở có diện tích lớn thường thuê nhiều lao động hơn, trung bình khoảng 5 người, dao động từ 1 đến 11 người.

Bảng 4.1: Một số thông tin chung của các cơ sở SXG và cơ sở ương giống cá tra

Diễn giải Đvt Sản xuất giống Ương

1 Tuổi của chủ cơ sở n 33 39

2 Trình độ văn hóa chủ cơ sở n 29 36

3 Chuyên môn về thủy sản n 32 38

4 Lao động gia đình tham gia sản xuất n 33 39

5 Lao động thuê thường xuyên n 33 39

4.1.3 Nguồn thông tin kinh tế-kỹ thuật trong sản xuất và ương giống cá tra

Để nâng cao hiệu quả và giảm chi phí sản xuất, các cơ sở sản xuất và ương cá giống đã thu thập nhiều thông tin kỹ thuật từ nhiều nguồn khác nhau Kết quả điều tra cho thấy, cách tiếp nhận thông tin phổ biến nhất là từ kinh nghiệm sản xuất cá nhân, với 87,9% cơ sở sản xuất giống và 79,5% cơ sở ương đánh giá đây là nguồn thông tin tốt Tiếp theo, thông tin từ các đợt tập huấn cũng được tiếp nhận rộng rãi, với 84,8% cơ sở sản xuất giống và 78,9% cơ sở ương cho rằng đây là nguồn hữu ích Ngoài ra, một số cơ sở còn nhận thông tin từ chương trình học tại các trường trung cấp, đại học/cao đẳng, tài liệu, tạp chí thủy sản và các phương tiện truyền thông, và nhiều ý kiến cho rằng các nguồn này cũng khá tốt.

Bảng 4.2: Nguồn thông tin kỹ thuật của cơ sở SXG và ương giống cá tra (Thống kê nhiều lựa chọn)

Nguồn thông tin kỹ thuật Đvt Sản xuất giống Ương

- Tài liệu khuyến ngư, tạp chí thủy sản % 72,7 59,0

- Người cung cấp TA/thuốc, hóa chất % 15,2 23,1

- Đại học hoặc cao hơn % 9,1 15,4

- Người cung cấp giống cá tra % 6,1 12,8

Kinh nghiệm sản xuất và ương giống cá tra

Kinh nghiệm sản xuất và ương giống cá tra của các chủ cơ sở đã được tích lũy qua nhiều năm Theo khảo sát, chủ trại sản xuất giống cá tra có trung bình 8 năm kinh nghiệm, với thời gian ít nhất là 1 năm và nhiều nhất là 18 năm Trong khi đó, các hộ ương cá tra giống có kinh nghiệm trung bình là 11 năm.

Trong vòng 35 năm qua, người ương cá ở An Giang và Đồng Tháp đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm, trong khi đó, các tỉnh khác chỉ có từ 1-3 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực này, do nghề ương cá mới chỉ được chú ý gần đây.

Bảng 4.3: Số năm kinh nghiệm trong sản xuất và ương giống cá tra

Mô hình Số mẫu Trung bình Độ lệch chuẩn Nhỏ nhất Lớn nhất

4.2 Thông tin chung về thiết kế và kỹ thuật của các cơ sở SXG và cơ sở ương giống cá tra ở ĐBSCL

4.2.1 Thiết kế và kỹ thuật của cơ sở SXG

4.2.1.1 Mô tả thiết kế của cơ sở SXG

Quy mô sản xuất của các cơ sở sản xuất giống cá ở Việt Nam tương đối lớn, với công suất thiết kế trung bình đạt 818,3 triệu bột, dao động từ 50 triệu đến 3,5 tỷ bột Tổng diện tích đất dùng cho sản xuất giống trung bình là 8.303 m², chủ yếu dành cho nhà trại và ao nuôi vỗ cá bố mẹ, trong đó ao nuôi vỗ chiếm phần lớn với diện tích trung bình 863,6 m² Ao nuôi vỗ có diện tích nhỏ nhất là 300 m² và lớn nhất là 4.000 m², với số lượng ao trung bình là 7 ao, dao động từ 1 đến 20 ao và độ sâu mực nước trung bình là 2,2 m Kết quả khảo sát cho thấy thiết kế ao nuôi vỗ cá bố mẹ không có sự chênh lệch lớn so với nghiên cứu của Nguyễn Văn Kiểm (2005), với diện tích từ 500 đến 5.000 m², và cần đảm bảo không gian hoạt động cho cá cũng như tránh ảnh hưởng xấu từ sự thay đổi môi trường.

Theo khảo sát, hầu hết các trại sản xuất giống cá (SXG) đều trang bị bể chứa cá bố mẹ trước khi cho đẻ, với thể tích trung bình là 326,6 m³ Cụ thể, tại An Giang, thể tích bể chứa cá bố mẹ chỉ đạt 27 m³, thấp hơn nhiều so với Đồng Tháp với 443,1 m³ Sau khi cá bố mẹ đẻ trứng, trứng sẽ được chuyển vào ấp trong bình Wies, với thể tích bình ấp trung bình của mỗi cơ sở là 290,4 lít, tuy nhiên độ lệch chuẩn tương đối lớn (± 242,4) do sự khác biệt về công suất thiết kế giữa các trại.

Bảng 4.4: Một số chỉ tiêu về thiết kế của các trại sản xuất giống cá tra được khảo sát

Diễn giải Đvt An Giang Đồng Tháp Tổng

1 Tổng diện tích cơ sở SXG n 7 26 33

2 Diện tích ao nuôi vỗ n 7 26 33

- Độ lệch chuẩn tr.bột 1157.5 679.7 804.2

4.2.1.2 Cung cấp và sử dụng cá bố mẹ trong trại SXG

Nguồn gốc đàn cá bố mẹ

Hiện nay, nguồn cá bố mẹ tự nhiên rất khan hiếm, dẫn đến 78,1% cá bố mẹ được cung cấp từ sinh sản nhân tạo, trong khi chỉ có 12,5% cơ sở sử dụng cả hai nguồn và 6,3% hoàn toàn từ tự nhiên An Giang và Đồng Tháp là hai tỉnh chủ yếu cung cấp cá bố mẹ, với An Giang sử dụng 100% nguồn trong tỉnh, còn Đồng Tháp chỉ 66,7% Giai đoạn nuôi vỗ chủ yếu bắt đầu từ cá thịt (59,4%), trong khi 31,3% cá bố mẹ được mua từ trại khác nhằm rút ngắn thời gian nuôi vỗ và đảm bảo sản xuất liên tục.

Khối lượng và tuổi đàn cá bố mẹ

Bảng 4.5 cho thấy tổng khối lượng đàn cá bố mẹ hiện nay trung bình đạt 13.592,4 kg, với mức thấp nhất là 1.500 kg và cao nhất là 60.000 kg Độ tuổi trung bình của cá cái cho đẻ là 4,6 tuổi, trọng lượng trung bình 4 kg/con, dao động từ 2,5 đến 6 kg/con Phương pháp sử dụng đàn cá bố mẹ tại hai tỉnh An Giang và Đồng Tháp tương đối giống nhau, và dữ liệu cho thấy cá bố mẹ cần được thay thế khi đạt 7 tuổi và có trọng lượng 8,1 kg.

Bảng 4.5: Khối lượng cá bố mẹ

Diễn giải Đvt An Giang Đồng Tháp Tổng

1 Tổng khối lượng cá bố mẹ n 7 26 33

2 Trọng lượng bình quân cá bố mẹ n 7 26 33

- Độ lệch chuẩn kg/con 0.7 0.9 0.9

3 Tuổi bình quân cá cái cho đẻ n 7 26 33

Theo kinh nghiệm từ các chủ cơ sở sản xuất giống, cá bố mẹ thường bắt đầu sinh sản lần đầu vào khoảng 3 tuổi với trọng lượng trung bình khoảng 3,1 kg Độ tuổi sinh sản tối ưu của cá bố mẹ là 4,6 tuổi, khi chúng đạt trọng lượng khoảng 4,4 kg.

Trong tổng đàn cá bố mẹ của các cơ sở sản xuất giống, có đến 58,9% cá bố mẹ thuộc độ tuổi từ 3-5 năm, với Đồng Tháp ghi nhận tỷ lệ cao nhất là 65%.

Tại An Giang, tỷ lệ cá bố mẹ từ 5-7 tuổi chiếm 36,4%, trong khi đó độ tuổi từ 5-7 chiếm 25,8%, và tỷ lệ cá bố mẹ dưới 3 tuổi và trên 7 tuổi lần lượt là 10,3% và 5,0% Điều này cho thấy các chủ trại sản xuất giống cá ở An Giang ưu tiên sử dụng cá bố mẹ trong độ tuổi 5-7 vì họ tin rằng đây là thời điểm cá sinh sản hiệu quả nhất Sức sinh sản trung bình của cá cái được khảo sát là 150 gram trứng/kg cá cái, với số lần tham gia sinh sản trung bình là 4,3 lần mỗi năm.

Hình 4.1: Cơ cấu tuổi cá tra bố mẹ của các cơ sở SXG

Lượng cá bổ sung và chất lượng đàn cá bố mẹ

Hàng năm, các cơ sở sản xuất giống cá thường xuyên thay đổi đàn cá bố mẹ, với 72,7% trong số đó bổ sung cá bố mẹ, trung bình mỗi cơ sở bổ sung khoảng 4.532,1 kg, dao động từ 1.000 kg đến 15.000 kg Các chủ cơ sở cho biết chất lượng đàn cá bố mẹ hiện tại khá tốt, nhưng họ cần thay thế do sức sinh sản giảm (63,6%), chất lượng trứng giảm (54,5%), chất lượng bột/giống giảm (31,8%) và tỷ lệ đẻ giảm (27,3%) Đặc biệt, không có ý kiến nào cho rằng tuổi cá bố mẹ ảnh hưởng đến chất lượng cá thịt, điều này trái ngược với khảo sát của Dương Thúy Yên (2006) khi sức sinh sản giảm chiếm 93,33% và tỷ lệ đẻ giảm 66,66%, trong khi chất lượng trứng và chất lượng cá bột/giống chưa được chú trọng nhiều.

Bảng 4.6: Lý do thay cá tra bố mẹ (Thống kê nhiều lựa chọn)

Lý do thay cá bố mẹ Đvt An Giang (n=6) Đồng Tháp (n) Tổng (n")

Chất lượng bột/giống giảm % 33,3 31,3 31,8

Thụ tinh và tỷ lệ nở giảm % 25,0 18,2

4.2.1.3 Quy trình sản xuất giống cá tra

Mùa vụ và số đợt cho cá bố mẹ đẻ

Mùa vụ cho cá đẻ có ảnh hưởng lớn đến chất lượng trứng, tỷ lệ nở và chất lượng cá bột Tuy nhiên, do nhu cầu con giống ngày càng cao, nhiều cơ sở thường cho cá đẻ quanh năm Theo khuyến cáo của Hội Nghề cá Việt Nam (VINAFIS), mùa vụ thành thục của cá bố mẹ bắt đầu từ tháng 2-3 ÂL và kéo dài đến tháng 10 ÂL Các tháng cá đẻ tốt nhất là từ tháng 1-6 ÂL, chiếm 93,1%, trong khi chỉ 6,9% là từ tháng 11-4 ÂL, nhờ thời tiết ổn định và cá bột ít bệnh Ngược lại, tháng 9-11 ÂL không nên cho cá đẻ do thời tiết xấu và cá thành thục không tốt Để đảm bảo cá thành thục và sinh sản tốt, cần cải tạo ao nuôi theo tiêu chuẩn kỹ thuật như bơm cạn nước, vét bùn và bón vôi Trong khảo sát, nhiều cơ sở sản xuất chủ yếu cải tạo ao bằng cách hút bùn và bón vôi (33,3%), trong khi ở An Giang, cải tạo khô chiếm 42,9%.

Trong những năm gần đây, thị trường tiêu thụ cá tra đã mở rộng, dẫn đến sự gia tăng số lượng người nuôi và nhu cầu con giống Để đáp ứng nhu cầu này, các cơ sở sản xuất giống cá tra đã tăng cường công suất hoạt động, với trung bình 29,8 đợt sản xuất mỗi năm, dao động từ 9 đến 50 đợt Thời gian sản xuất cá bột cho mỗi đợt trung bình là 7 ngày, tuy nhiên, theo khảo sát của Dương Thúy Yên (2006), số đợt cho đẻ thực tế thấp hơn trung bình là 17 - 19 đợt Việc tăng số đợt sản xuất đã dẫn đến tình trạng cá bố mẹ liên tục được nuôi vỗ và tái sử dụng, ảnh hưởng lớn đến chất lượng cá bột và cá giống.

Bảng 4.7: Mùa vụ và số đợt cho cá tra đẻ trong năm

Diễn giải Đvt An Giang Đồng Tháp Tổng

1 Lý do các tháng SXG tốt nhất n 3 20 23

- Thời tiết ổn định, mùa thuận, cá bột ít bệnh % 66,7 65,0 65,2

- Chất lượng nước tốt, tỷ lệ thành thục cao % 33,3 20,0 21,7

- Đầu vụ, nhu cầu con giốngcao % 15,0 13,0

2 Lý do các tháng không SXG n 4 16 20

- Cá thành thục không tốt, không lên trứng, cá bột yếu % 50,0 18,8 25,0

Khi lựa chọn và đánh giá sự thành thục của cá bố mẹ, các cơ sở thường đánh dấu trên đầu cá để theo dõi, với tỷ lệ 85,2% Tuy nhiên, 3,7% các cơ sở không sử dụng phương pháp này và dựa vào kinh nghiệm cá nhân Theo nghiên cứu của Nguyễn Văn Kiểm (2005), sự thành thục của cá cái được đánh giá qua các đặc điểm như bụng lớn và thuôn đều, lỗ sinh dục có màu đỏ hồng và hơi lồi, cùng với bụng dưới mềm Kết quả khảo sát cho thấy 64,3% ý kiến chọn cá bố mẹ có bụng mỏng to, tròn đều; 39,3% chọn dựa trên vây kì to và đuôi thon nhỏ; 32,1% ưu tiên cá da bóng khỏe, không bệnh tật; 21,4% dựa vào lỗ sinh dục đỏ hồng và màu sắc sáng; và 7,1% theo độ tuổi.

Việc kiểm tra độ thành thục của cá bố mẹ là rất quan trọng vì ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng cá bột Các cơ sở thường sử dụng que thăm trứng (88,9%) để kiểm tra, với 100% cơ sở ở An Giang áp dụng phương pháp này kết hợp với kinh nghiệm (16,7%) Tại Đồng Tháp, ngoài que thăm trứng và kinh nghiệm, một số cơ sở còn kiểm tra bằng cách vuốt tinh và trứng (23,8%) cũng như kiểm tra bằng tay (4,8%) Để đánh giá chất lượng đàn cá bố mẹ, các chủ cơ sở chú trọng đến nhiều chỉ tiêu, trong đó cá dài đòn, bụng mỏng và buồng trứng dài được nhấn mạnh nhiều nhất (75%), tiếp theo là ngoại hình đẹp (43,8%), cá khỏe mạnh, không dị hình và có màu xám xanh (18,8%), cùng với lỗ sinh dục đỏ hồng (12,5%).

Bảng 4.8: Cách theo dõi cá tra bố mẹ trong cơ sở sản xuất giống

Diễn giải ĐVT An Giang Đồng Tháp Tổng

1 Cách theo dõi cá bố mẹ n 7 20 27

- Không đánh dấu theo dõi % 5,0 3,7

- Bụng mỏng to, tròn đều % 83,3 59,1 64,3

- Vây, kì to, đuôi thon nhỏ, dài đòn % 33,3 40,9 39,3

- Da bóng, khỏe, không bệnh, không dị tật % 40,9 32,1

- Lỗ sinh dục đỏ hồng % 66,7 9,1 21,4

Mật độ nuôi vỗ ảnh hưởng đến mức độ thành thục của cá tra, theo tiêu chuẩn ngành 211:2004, mật độ nuôi vỗ cá bố mẹ là 0,1-0,2 kg/m², nhưng khảo sát cho thấy mật độ trung bình là 1,2 kg/m² Tỉ lệ đực:cái lý tưởng trong sinh sản nhân tạo là 1:1, tuy nhiên, các cơ sở sản xuất ghi nhận tỷ lệ cái:đực trung bình là 3,45 (± 1,28) Theo Nguyễn Văn Kiểm (2005), một số loại kích thích tố cho cá tra đẻ bao gồm HCG, não thùy cá chép và LH.Rha+DOM, nhưng các cơ sở chỉ sử dụng HCG với 3 liều dẫn và 1 liều quyết định Thời gian giữa hai lần đẻ của một con cái trung bình là 63 ngày (±24,3), và mật độ ấp trứng trung bình là 179 ngàn con/lít, dao động từ 86.

Các chỉ tiêu kinh tế-kỹ thuật của cơ sở sản xuất giống cá tra

4.3.1 Năng suất cá bột và đánh giá chất lượng

Năng suất cá bột trung bình của các trại sản xuất giống cá tra đạt 2,8 triệu bột/lít bình quân mỗi năm, với sự dao động từ 0,28 đến 10 triệu bột Khả năng sản xuất của các trại này rất lớn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng tại các tỉnh ĐBSCL Để đánh giá chất lượng cá bột, các cơ sở sản xuất chủ yếu dựa vào hoạt động và màu sắc của cá (76,9%), tiếp theo là yêu cầu cá phải đồng đều và không dị tật (46%), tỷ lệ nở cao, cá khỏe mạnh và sạch bệnh (30,8%) Chất lượng cá bột khi thu hoạch được đánh giá là tương đối tốt nhờ vào việc thường xuyên thay đổi và làm mới đàn cá bố mẹ.

4.3.2 Chi phí trong sản xuất giống cá tra

Chi phí cố định trung bình của các cơ sở sản xuất giống (SXG) là 19,4 triệu đồng/năm (±27), bao gồm khấu hao công trình, máy móc và thuê đất Trong đó, chi phí khấu hao công trình chiếm tỷ lệ lớn nhất với 66,1% tổng chi phí cố định, chủ yếu dành cho việc xây dựng ao nuôi cá bố mẹ và nhà trại Tiếp theo là chi phí máy móc thiết bị, chiếm 27,9%, bao gồm các thiết bị như máy bơm và bể chứa cá bố mẹ trước khi cho đẻ Cuối cùng, chi phí thuê đất chỉ chiếm 5,9% tổng chi phí.

Bảng 4.13 : Chi phí cố định của cơ sở sản xuất giống cá tra

Diễn giải Đvt An Giang Đồng Tháp Tổng

1 Chi phí cố định/năm n 7 26 33

Trung bình tr.đ 11,6 21,4 19,4 Độ lệch chuẩn tr.đ 6,7 30,0 27,0

3 Cơ cấu chi phí cố định % 100 100 100

KH xây dựng công trình % 62,2 66,7 66,1

Chi phí biến đổi và tổng chi phí

Chi phí biến đổi hằng năm trung bình của một cơ sở sản xuất giống là 568,9 triệu đồng, với dao động từ 89,7 đến 3.223,5 triệu đồng Trong đó, chi phí thức ăn chiếm tỷ lệ cao nhất với 250,4 triệu đồng (44%), tiếp theo là thuốc/hóa chất (24,2%) và chi phí cho cá bố mẹ (10,3%) Tổng chi phí trung bình hàng năm là 588,3 triệu đồng, trong đó chi phí biến đổi chiếm 96,7% Để sản xuất 1 triệu cá tra bột, chi phí trung bình khoảng 1,2 triệu đồng Tổng chi phí của các trại sản xuất giống ở An Giang và Đồng Tháp không có sự khác biệt thống kê đáng kể.

Bảng 4.14: Chi phí biến đổi và tổng chi phí của cơ sở SXG cá tra

Diễn giải ĐVT An Giang Đồng Tháp Tổng

Trung bình tr.đ 518,9 606,9 588,3 Độ lệch chuẩn tr.đ 187,8 630,1 564,0

2 Tổng chi phí/tr.bột n 7 26 33

Trung bình tr.đ 1,3 1,2 1,2 Độ lệch chuẩn tr.đ 0,5 0,9 0,8

3 Chi phí biến đổi/năm n 7 26 33

Trung bình trđ 507,3 585,5 568,9 Độ lệch chuẩn trđ 187,2 617,6 552,8

4 Cơ cấu chi phí biến đổi % 100 100 100

CP hằng năm cho cá bố mẹ % 11,2 10,2 10,3

Lãi ngân hàng % 0,4 2,4 2,0 Điện thoại,giao dịch… % 1,3 1,8 1,7

Thu nhập và lợi nhuận

Kết quả khảo sát cho thấy sản lượng cá bột trung bình đạt 569,4 triệu bột/trại, mang lại tổng thu nhập bình quân 1.371,1 triệu đồng và lợi nhuận 802,2 triệu đồng Mỗi triệu bột sản xuất ra tạo ra thu nhập trung bình 2,7 triệu đồng và lợi nhuận 1,5 triệu đồng Điều này cho thấy, với mỗi đồng chi phí, các cơ sở sản xuất giống có thể thu về 3 đồng doanh thu và 2 đồng lợi nhuận, trong đó 0,5 đồng trên mỗi đồng thu nhập là lợi nhuận Tất cả các trại sản xuất giống đều có lợi nhuận, với mức thấp nhất là 33,3 triệu đồng và cao nhất là 3.776,5 triệu đồng.

Bảng 4.15: Các chỉ tiêu tài chính của cơ sở SXG cá tra ở các tỉnh đã khảo sát

Diễn giải Đvt An Giang Đồng Tháp Tổng

2 Tổng thu nhập/tr.bột n 7 26 33

4.3.3 Các yếu tố ảnh hưởng tới năng suất cá tra bột

Nghiên cứu đã thực hiện xét tương quan đa biến giữa các biến độc lập và năng suất cá tra bột trong sản xuất giống (SXG) Mô hình tương quan cho thấy có ba yếu tố chính ảnh hưởng đến năng suất cá bột với mức ý nghĩa thống kê p

Ngày đăng: 26/08/2021, 08:47

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
7. Bộ Thủy sản. 2004. Tiêu chuẩn ngành 28 TCN211:2004: Quy trình kỹ thuật sản xuất giống cá tra (Pangasianodon hypophthalamus) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Pangasianodon hypophthalamus
12. Didi, S. 1998. Marketing of Pagansius catfishes in Java and Sumatra, Indonesia. Proceeding of the mid-term workshop of the “catfish Asia project” Cần Thơ, Việt Nam, 11-15/5/1998. P 21-26 Sách, tạp chí
Tiêu đề: catfish Asiaproject
18. Huỳnh Phước Lợi. 2007. Đồng bằng sông Cửu Long: Dân “kêu trời” vì giá thức ăn cho cá liên tục tăng cao. Báo Sài Gòn Giải Phóng.http://www.vietlinh.com.vn/. Cập nhật ngày 27/5/2007 Sách, tạp chí
Tiêu đề: kêu trời
25. Lê Xuân Sinh. 2007. Issues related to a sustainable farming of pangasius catfish in Việt Nam. Chapter 23 in “Selected species for sustainable aquaculture”. Blackwell Publishing Sách, tạp chí
Tiêu đề: Selected species forsustainable aquaculture
26. Nguyễn Chính. 2005. Đánh giá tình sử dụng kháng sinh trong nuôi cá tra (Pangasius hypophthalmus) thâm canh tại An Giang và Cần Thơ.Luận văn tốt nghiệp Cao học Nuôi trồng thuỷ sản. Đại học Cần Thơ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Pangasius hypophthalmus
27. Nguyễn Đức Hiền. 2008. Giải pháp giúp tăng hiện quả điều trị các bệnh nhiễm khuẩn trên cá tra (Pangasianodon hypophthalmus). Tạp chí khoa học 2008. Đại học Cần Thơ. Trang 210 – 214 Sách, tạp chí
Tiêu đề: (Pangasianodon hypophthalmus)
28. Nguyễn Huyền & Long Bào. 2006. Cá tra giống “sốt” giá. Thời báo Kinh tế Việt Nam.http://vneconomy.vn/?home=detail&page=category&cat_name=~0&id=5e7b237686b92c.Cập nhật ngày 21/11/2006 Sách, tạp chí
Tiêu đề: sốt
40. Trần Văn Nhì. 2005. Đánh giá việc sử dụng các nguồn nguyên liệu địa phương làm thức ăn nuôi cá tra (Pangasius hypophthalmus Sauvage, 1978) trong bè ở An Giang. Luận văn tốt nghiệp Cao học Nuôi trồng thuỷ sản. Đại học Cần Thơ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Pangasius hypophthalmus
1. Anh Thi. 2007. Sự cần thiết phải thay đổi đàn cá tra bố mẹ trong tỉnh An Giang. Sở Khoa học & Công nghệ An Giang.http://sokhoahoccn.angiang.gov.vn/xemnoidung.asp?maidtt=2530&page=17. Cập nhật ngày 03/8/2007 Link
2. Báo Cần Thơ. 2007. An Giang: phát huy ưu thế thủy sản nước ngọt.http://www.fistenet.gov.vn. Cập nhật ngày 14/5/2007 Link
3. Bình Nguyên (2007). Thiếu cá tra giống giá tăng mạnh. Trung tâm Tin học - Bộ Thủy sản.http://www.fistenet.gov.vn/details.asp?Object=1015068&NewsID=28533911. Cập nhật ngày 18/4/2007 Link
4. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 2008. Báo cáo tháng 1/2008.http://.agroviet.gov.vn/portal/page?_pageid=35,648312&_dad=portal&_schema=PORTAL Link
5. Bộ Tài Nguyên & Môi Trường. 2007. Để nghề nuôi cá tra phát triển bền vững.http://www.monre.gov.vn/monrenet/default.aspx?tabid=209&idmid=&ItemID=26810. Cập nhật ngày 17/5/2007 Link
13. Đức Hoàng. 2007. Nguy cơ tăng trưởng nóng. http://www.thuonghieunongsan.org.vn/index.php?p=tt&id=4&idsp=64,cập nhật ngày 31/01/2007 Link
15. Hàn Ngọc. 2007. Xuất khẩu thủy sản tăng mạnh. Thời báo Kinh tế Việt Nam. http://www.vneconomy.vn/?home=detail&page=category&catname=0904&id=e0e8971084ec9d. Cập nhật ngày 3/3/2007 Link
17. Hưng Nhân. 2007. Xuất khẩu cá tra, ba sa - người nuôi và doanh nghiệp cùng thắng. Báo Thương mại. Số 9, tháng 1/2007.http://www.baomoi.com/Home/KinhTe/2007/1/518236.epi?refer=www.baothuongmai.com.vn/article.aspx?article_id=34512 Link
19. Kim Cương & Trung Dũng. 2007. Cá tra, basa - Phát huy sức mạnh kinh tế vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Sở Nông nghiệp An Giang.http://www.vietlinh.com.vn/. Cập nhật ngày 5/6/2007 Link
36. Sản xuất và tiêu thụ cá tra, basa ở ĐBSCL: không nên chạy theo sản lượng.http://www.fistenet.gov.vn/details.asp?Object=23&News_ID=20958026. Cập nhật ngày 20/9/2006 Link
6. Bộ Thương mại, Viện Nghiên cứu Thương mại. 2005. Thị trường xuất khẩu thủy sản. Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội Khác
11. Braa, K. 2007. Công nghiệp cá da trơn Việt Nam – các quy phạm hiện tại, sự phát triển và các vấn đề liên quan đến xuất khẩu vào EU. Trường Đại học Wageningen và Nghiên cứu cho Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về phát triển bền vững (WSSD). Hội thảo tháng 4/2007 tại Thành phố Cần Thơ. 39 trang Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình 1.1: Bản đồ Đồng bằng sông Cửu Long - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CUNG CẤP VÀ SỬ DỤNG GIỐNG CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Hình 1.1 Bản đồ Đồng bằng sông Cửu Long (Trang 18)
Bảng 3.1: Phân bố số mẫu thu được theo từng nhóm đối tượng nghiên cứu - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CUNG CẤP VÀ SỬ DỤNG GIỐNG CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Bảng 3.1 Phân bố số mẫu thu được theo từng nhóm đối tượng nghiên cứu (Trang 27)
Bảng 4.1: Một số thông tin chung của các cơ sở SXG và cơ sở ương giống cá tra - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CUNG CẤP VÀ SỬ DỤNG GIỐNG CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Bảng 4.1 Một số thông tin chung của các cơ sở SXG và cơ sở ương giống cá tra (Trang 31)
Bảng 4.4: Một số chỉ tiêu về thiết kế của các trại sản xuất giống cá tra được khảo sát - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CUNG CẤP VÀ SỬ DỤNG GIỐNG CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Bảng 4.4 Một số chỉ tiêu về thiết kế của các trại sản xuất giống cá tra được khảo sát (Trang 33)
Bảng 4.5: Khối lượng cá bố mẹ - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CUNG CẤP VÀ SỬ DỤNG GIỐNG CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Bảng 4.5 Khối lượng cá bố mẹ (Trang 34)
Bảng 4.7: Mùa vụ và số đợt cho cá tra đẻ trong năm - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CUNG CẤP VÀ SỬ DỤNG GIỐNG CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Bảng 4.7 Mùa vụ và số đợt cho cá tra đẻ trong năm (Trang 37)
Bảng 4.11: Chất lượng cá tra bột theo quan điểm của các cơ sở ương cá giống - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CUNG CẤP VÀ SỬ DỤNG GIỐNG CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Bảng 4.11 Chất lượng cá tra bột theo quan điểm của các cơ sở ương cá giống (Trang 41)
Bảng 4.15: Các chỉ tiêu tài chính của cơ sở SXG cá tra ở các tỉnh đã khảo sát - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CUNG CẤP VÀ SỬ DỤNG GIỐNG CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Bảng 4.15 Các chỉ tiêu tài chính của cơ sở SXG cá tra ở các tỉnh đã khảo sát (Trang 45)
Bảng 4.16: Tương quan đa biến giữa các biến độc lập ảnh hưởng đến năng suất cá bột - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CUNG CẤP VÀ SỬ DỤNG GIỐNG CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Bảng 4.16 Tương quan đa biến giữa các biến độc lập ảnh hưởng đến năng suất cá bột (Trang 46)
Bảng 4.17: Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cá tra giống - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CUNG CẤP VÀ SỬ DỤNG GIỐNG CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Bảng 4.17 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cá tra giống (Trang 50)
Bảng 4.20: Một số chỉ tiêu tài chính chủ yếu của cơ sở ương cá tra giống ở các tỉnh đã khảo sát - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CUNG CẤP VÀ SỬ DỤNG GIỐNG CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Bảng 4.20 Một số chỉ tiêu tài chính chủ yếu của cơ sở ương cá tra giống ở các tỉnh đã khảo sát (Trang 52)
Bảng 4.22: Độ tuổi và trình độ văn hóa của chủ cơ sở nuôi cá thương phẩm - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CUNG CẤP VÀ SỬ DỤNG GIỐNG CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Bảng 4.22 Độ tuổi và trình độ văn hóa của chủ cơ sở nuôi cá thương phẩm (Trang 57)
Bảng 4.23: Nguồn thông tin và kinh nghiệm nuôi cá tra thương phẩm (Thống kê nhiều lựa chọn) - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CUNG CẤP VÀ SỬ DỤNG GIỐNG CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Bảng 4.23 Nguồn thông tin và kinh nghiệm nuôi cá tra thương phẩm (Thống kê nhiều lựa chọn) (Trang 58)
Bảng 4.25: Số lượng và giá cá giống mua bởi các hộ nuôi cá tra - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CUNG CẤP VÀ SỬ DỤNG GIỐNG CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Bảng 4.25 Số lượng và giá cá giống mua bởi các hộ nuôi cá tra (Trang 60)
Bảng 4.28: Thông tin về quản lý nước trong nuôi cá tra thương phẩm - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CUNG CẤP VÀ SỬ DỤNG GIỐNG CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Bảng 4.28 Thông tin về quản lý nước trong nuôi cá tra thương phẩm (Trang 63)
Bảng 4.30: Năng suất cá tra nuôi và các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cá giống trong nuôi cá tra thương phẩm (Thống kê nhiều lựa chọn) - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CUNG CẤP VÀ SỬ DỤNG GIỐNG CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Bảng 4.30 Năng suất cá tra nuôi và các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cá giống trong nuôi cá tra thương phẩm (Thống kê nhiều lựa chọn) (Trang 67)
Bảng 4.31: Tổng chi phí và chi phí cố định nuôi cá tra thương phẩm - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CUNG CẤP VÀ SỬ DỤNG GIỐNG CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Bảng 4.31 Tổng chi phí và chi phí cố định nuôi cá tra thương phẩm (Trang 68)
Bảng 4.32: Chi phí biến đổi trong nuôi cá tra thương phẩm - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CUNG CẤP VÀ SỬ DỤNG GIỐNG CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Bảng 4.32 Chi phí biến đổi trong nuôi cá tra thương phẩm (Trang 70)
Bảng 4.33: Các chỉ tiêu tài chính khác của các vùng khảo sát - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CUNG CẤP VÀ SỬ DỤNG GIỐNG CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Bảng 4.33 Các chỉ tiêu tài chính khác của các vùng khảo sát (Trang 71)
Bảng 4.34: Tương quan đa biến giữa các biến độc lập ảnh hưởng đến năng suất cá nuôi thương phẩm - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CUNG CẤP VÀ SỬ DỤNG GIỐNG CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Bảng 4.34 Tương quan đa biến giữa các biến độc lập ảnh hưởng đến năng suất cá nuôi thương phẩm (Trang 72)
Nhìn vào (Hình 4.19) cho thấy lượng TACN càng tăng thì năng suất cũng tăng theo, nhưng xét về mặt kinh tế thì không có hiệu quả, với lượng thức ăn từ 800 – 1000 tấn/ha thì cho lợi nhuận cao nhất, khi tăng lượng thức ăn >1000 mặc dù năng suất cao nhưng  - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CUNG CẤP VÀ SỬ DỤNG GIỐNG CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
h ìn vào (Hình 4.19) cho thấy lượng TACN càng tăng thì năng suất cũng tăng theo, nhưng xét về mặt kinh tế thì không có hiệu quả, với lượng thức ăn từ 800 – 1000 tấn/ha thì cho lợi nhuận cao nhất, khi tăng lượng thức ăn >1000 mặc dù năng suất cao nhưng (Trang 76)
Hình 4.18: Kênh cung cấp và tiêu thụ giống cá tra ở ĐBSCL - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CUNG CẤP VÀ SỬ DỤNG GIỐNG CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Hình 4.18 Kênh cung cấp và tiêu thụ giống cá tra ở ĐBSCL (Trang 81)
Bảng 4.35: Kết quả phân tích bảng chéo về nhận thức của các nhóm tham gia ngành hàng cá tra - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CUNG CẤP VÀ SỬ DỤNG GIỐNG CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Bảng 4.35 Kết quả phân tích bảng chéo về nhận thức của các nhóm tham gia ngành hàng cá tra (Trang 83)
Ngoại hình đẹp % 53.8 43.8 - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CUNG CẤP VÀ SỬ DỤNG GIỐNG CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
go ại hình đẹp % 53.8 43.8 (Trang 99)
7. Hình thức thanh tóan khi ba nn 619 25 - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CUNG CẤP VÀ SỬ DỤNG GIỐNG CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
7. Hình thức thanh tóan khi ba nn 619 25 (Trang 100)
5. Hình thức thanh toán khi mua cá bột n9 105 24 - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CUNG CẤP VÀ SỬ DỤNG GIỐNG CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
5. Hình thức thanh toán khi mua cá bột n9 105 24 (Trang 104)
không dị hình % 50.0 66.7 100.0 66.7 - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CUNG CẤP VÀ SỬ DỤNG GIỐNG CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
kh ông dị hình % 50.0 66.7 100.0 66.7 (Trang 105)
9. Mức độ quan tâm hình thức th.toá nn 133 87 220 - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CUNG CẤP VÀ SỬ DỤNG GIỐNG CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
9. Mức độ quan tâm hình thức th.toá nn 133 87 220 (Trang 112)
6. Quan tâm hình thức thanh toán khi bá nn 100 87 187 - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CUNG CẤP VÀ SỬ DỤNG GIỐNG CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
6. Quan tâm hình thức thanh toán khi bá nn 100 87 187 (Trang 114)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w