Phương pháp nghiên cứu
Trong nghiên cứu này, tác giả áp dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh Các phương pháp nghiên cứu khoa học được sử dụng bao gồm tổng hợp và phân tích, logic và lịch sử, điều tra xã hội và khảo sát Trong đó, phương pháp tổng hợp và phân tích là phương pháp chính được tác giả lựa chọn để hoàn thành đề tài.
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân của các cơ quan chức năng, bao gồm các khía cạnh lý luận, thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng Phạm vi nghiên cứu sẽ tập trung vào các vấn đề liên quan đến quản lý thuế thu nhập cá nhân trong bối cảnh hiện nay.
Khóa luận này nghiên cứu về công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam, tập trung vào phạm vi toàn quốc và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật liên quan Bài viết sẽ phân tích những thách thức và cơ hội trong quản lý thuế thu nhập cá nhân trong bối cảnh hội nhập hiện nay.
- Về mặt thời gian: Nghiên cứu thực trạng công tác quản lý thuế TNCN, giai đoạn 2009 - 2012; giải pháp đến năm 2015
Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân (TNCN) và đánh giá thực trạng của công tác quản lý thuế TNCN hiện nay Các yếu tố này bao gồm chính sách thuế, công nghệ thông tin, và ý thức chấp hành của người nộp thuế Bài viết cũng sẽ chỉ ra những thách thức trong quản lý thuế TNCN và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác này.
5 Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận bao gồm ba chương chính với nội dung:
Chương 1: Khái quát chung về thuế thu nhập cá nhân và thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân
Chương 2: Thực trạng pháp luật hiện hành về quản lý thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân của cá nhân cư trú
Chương 3 đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật liên quan đến quản lý thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân của cá nhân cư trú Các biện pháp này bao gồm việc cải thiện quy trình thu thuế, tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao năng lực cho cán bộ thuế, và áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế Đồng thời, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng để đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong việc thu thuế Những giải pháp này sẽ góp phần tăng cường hiệu quả thu ngân sách và thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững.
PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
VÀ THU NHẬP CHỊU THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
1.1 Khái quát chung về thuế thu nhập cá nhân
1.1.1 Khái niệm thuế thu nhập cá nhân
Thuế TNCN, một trong những loại thuế xuất hiện sớm trong lịch sử thuế khoá toàn cầu, đặc biệt phổ biến ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển Loại thuế này lần đầu tiên được áp dụng tại Hà Lan vào năm 1797, tiếp theo là Anh Quốc vào năm 1799 Ban đầu, Anh Quốc triển khai thuế TNCN như một biện pháp tạm thời nhằm tài trợ cho cuộc chiến tranh chống Pháp, và sau đó chính thức áp dụng vào năm.
1942, một số nước tư bản phát triển khác cũng áp dụng thuế này như Ðức
(1899), Hoa Kỳ (1903), Pháp (1916) Các nước Châu Á như: Thái Lan áp dụng năm 1939, Philipin năm 1945, Hàn Quốc năm 1948, In-đô-nê-xia năm
1949, Trung quốc năm 1984; Những nước Đông Âu thuộc các nền kinh tế chuyển đổi như Rumani năm 1990, Nga năm 1991, Ba Lan năm 1992
Hiện nay, khoảng 180 quốc gia trên thế giới áp dụng thuế thu nhập cá nhân (TNCN), với ưu điểm là đơn giản, dễ thực hiện và giúp thu ngân sách Nhà nước kịp thời Tuy nhiên, phương pháp này còn tồn tại nhược điểm là chưa đảm bảo phân phối lại thu nhập quốc dân một cách hiệu quả, không đáp ứng được yêu cầu công bằng xã hội, đặc biệt là đối với những cá nhân có nhiều người phụ thuộc.
Tất cả cá nhân và tổ chức khi nhận thu nhập dưới mọi hình thức, từ các nguồn như lao động hay đầu tư, đều có nghĩa vụ trích một phần thu nhập để nộp thuế thu nhập cho Nhà nước.
Cho đến nay, có nhiều khái niệm khác nhau về thuế do quan điểm về Thuế ở các nước khác nhau như:
Thuế là khoản thu bắt buộc mà nhà nước áp dụng đối với các tổ chức và cá nhân trong xã hội, theo quy định của pháp luật, và không được hoàn trả trực tiếp.
“Thuế TNCN là thuế trực thu đánh vào thu nhập chịu thuế có được của cá nhân trong kỳ tính thuế (thường là một năm)”
Theo Marx, thuế đóng vai trò quan trọng trong nền tảng kinh tế của bộ máy Nhà nước, là phương tiện hiệu quả để ngân sách nhà nước thu nhận tiền và tài sản từ người dân, phục vụ cho các hoạt động chi tiêu của chính phủ.
Các nhà nghiên cứu kinh tế nhận định rằng thuế là phương thức phân phối thu nhập tài chính của Nhà nước nhằm thực hiện các chức năng của mình Dựa vào quyền lực chính trị, Nhà nước tiến hành phân phối sản phẩm thặng dư của xã hội một cách cưỡng chế và không hoàn lại.
Thuế là khoản thu bắt buộc mà tổ chức và cá nhân phải nộp cho Nhà nước khi đáp ứng các điều kiện nhất định Đặc điểm của thuế là tính bắt buộc và không hoàn trả trực tiếp, ngang giá Một phần thuế nộp vào ngân sách Nhà nước sẽ được hoàn lại cho người dân qua các hình thức gián tiếp như trợ cấp xã hội, phúc lợi xã hội và quỹ tiêu dùng khác.
Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) theo pháp luật hiện hành là loại thuế chủ yếu đánh vào thu nhập của cá nhân, nhằm thực hiện công bằng xã hội và động viên một phần thu nhập vào ngân sách nhà nước Thuế TNCN không chỉ giúp điều tiết vĩ mô nền kinh tế mà còn khuyến khích cá nhân làm việc hoặc nghỉ ngơi thông qua việc điều chỉnh mức thuế đối với các khoản thu nhập từ kinh doanh, đầu tư Đặc biệt, thuế TNCN được coi là loại thuế linh hoạt, có tính đến hoàn cảnh của các cá nhân nộp thuế thông qua việc xác định các chính sách miễn, giảm thuế hoặc các khoản miễn trừ đặc biệt.
1.1.2 Đặc điểm của thuế thu nhập cá nhân
Thuế TNCN là loại thuế trực thu, đánh vào thu nhập hợp pháp của từng cá nhân, thể hiện sự đồng nhất giữa người nộp thuế và người chịu thuế theo quy định của pháp luật Điều này có nghĩa là người nộp thuế TNCN không thể chuyển giao gánh nặng thuế cho đối tượng khác tại thời điểm bị đánh thuế.
Hai là, thuế TNCN có diện đánh thuế rất rộng, thể hiện trên hai khía cạnh:
Đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân (TNCN) bao gồm tất cả các khoản thu nhập của cá nhân, không phân biệt nguồn gốc phát sinh từ trong nước hay nước ngoài.