MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ CÓ ĐỐI TƯỢNG LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA HỘ GIA ĐÌNH
Khái quát chung về giao dịch dân sự có sự tham gia của hộ gia đình
Khái ni ệ m giao d ị ch dân s ự
Giao dịch dân sự là căn cứ phổ biến nhất để phát sinh, thay đổi và chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự, đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển nhượng tài sản và cung cấp dịch vụ Nó đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các thành viên trong xã hội, đồng thời là một trong những sự kiện pháp lý cơ bản nhất trong quan hệ pháp luật dân sự.
Giao dịch dân sự là sự kiện pháp lý quan trọng, phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa các bên Về mặt pháp lý, giao dịch dân sự được chia thành hai loại: hợp đồng và hành vi pháp lý đơn phương, có khả năng làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự.
Theo Điều 153 Bộ luật Dân sự Liên bang Nga (sửa đổi năm 2021), giao dịch được định nghĩa là hành động của công dân hoặc pháp nhân nhằm xác lập, thay đổi, hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự Giao dịch dân sự bao gồm cả giao dịch đa phương và đơn phương, như quy định tại khoản 1 Điều 154 Tương tự, Bộ luật Dân sự Trung Quốc (ban hành năm 2020) cũng xác định hành vi dân sự là hành động của chủ thể nhằm xác lập, thay đổi, hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự thông qua việc thể hiện ý chí.
Giao dịch dân sự là sự kiện pháp lý quan trọng tạo ra quan hệ pháp luật dân sự, cho phép các chủ thể tự do thỏa thuận và bày tỏ ý chí nhằm thiết lập, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ này Tuy nhiên, sự tự do trong ý chí của các bên vẫn phải tuân theo khuôn khổ và kiểm soát của pháp luật Khi tham gia vào quan hệ dân sự, các chủ thể thực hiện việc trao đổi lợi ích một cách hợp pháp và công bằng.
1 Đinh Văn Thanh, Nguyễn Minh Tuấn (Chủ biên) (2006), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tập 1, tr.282
2 Điều 116 Bộ luật Dân sự 2015
8 xảy ra trong lĩnh vực dân sự, dưới góc độ pháp lý thì người ta gọi đó là giao dịch dân sự
Giao dịch dân sự có thể được phân loại thành hành vi pháp lý đơn phương, khi chỉ có ý chí của một bên, hoặc thành hợp đồng, khi có sự đồng thuận từ hai bên trở lên Mục đích của các giao dịch này là để phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự.
Điề u ki ệ n có hi ệ u l ự c c ủ a m ộ t giao d ị ch dân s ự
Theo Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015, điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự được chia thành hai nhóm chính: các điều kiện chung và các điều kiện cụ thể.
M ộ t, nhóm điều kiện liên quan đến chủ thể:
Chủ thể tham gia giao dịch dân sự cần có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự phù hợp Hiện nay, pháp luật dân sự công nhận hai chủ thể là cá nhân và pháp nhân Năng lực hành vi dân sự của cá nhân thể hiện khả năng xác lập và thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự, đồng thời phản ánh ý chí và khả năng nhận thức của họ Điều này là cơ sở để xác định khả năng tham gia vào giao dịch dân sự, bao gồm cả việc tự tham gia hoặc thông qua người đại diện hợp pháp Đối với người đại diện hợp pháp, cần tuân thủ các quy định liên quan đến giám hộ và đại diện Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng có quyền và nghĩa vụ dân sự, trong khi pháp nhân phải đáp ứng các điều kiện luật định và tham gia giao dịch qua người đại diện hợp pháp.
Yếu tố tự nguyện là điều kiện thiết yếu để giao dịch dân sự có hiệu lực Tự nguyện thể hiện nguyện vọng và ý chí thực sự của cá nhân Sự liên kết giữa ý chí và cách bày tỏ ý chí là rất chặt chẽ, phản ánh sự thống nhất giữa mong muốn chủ quan và hành động thể hiện ý chí đó.
3 Điểm a khoản 1 Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015
4 Điều 19 Bộ luật Dân sự 2015
5 Khoản 1 Điều 16 Bộ luật Dân sự 2015
6 Điều 87 Bộ luật Dân sự 2015
7 Điểm b khoản 1 Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015
Để xác định tính tự nguyện trong giao kết hợp đồng, cần xem xét sự thống nhất giữa ý chí và sự bày tỏ ý chí Ý chí tự nguyện của các bên chỉ được bảo đảm khi họ bình đẳng trong mọi khía cạnh của hợp đồng Do đó, các hợp đồng thiếu bình đẳng và không có sự tự nguyện sẽ không được pháp luật công nhận Nếu thiếu yếu tố tự nguyện, giao dịch dân sự sẽ bị coi là vô hiệu, ví dụ như trong các trường hợp giao dịch giả tạo, nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, cưỡng đoạt, hoặc khi người xác lập không nhận thức được hành vi của mình.
Hai, nhóm điều kiện liên quan đến nội dung và hình thức của giao dịch:
Nội dung của giao dịch bao gồm các điều kiện, điều khoản, cam kết và ý định mà các bên mong muốn thể hiện Đây là sự thể hiện cụ thể của thỏa thuận giữa các bên Tuy nhiên, mục đích và nội dung của giao dịch cần phải tuân thủ quy định của pháp luật, không vi phạm các điều cấm và không trái với đạo đức xã hội Nếu nội dung hoặc mục đích của giao dịch vi phạm các quy định này, giao dịch sẽ tự động bị coi là vô hiệu.
Hình thức của giao dịch là cách thức biểu hiện nội dung dưới dạng vật chất hữu hình, đóng vai trò là phương tiện ghi nhận những thỏa thuận giữa các bên Đây là yếu tố pháp lý quan trọng, có mối quan hệ biện chứng với bản chất, nội dung, giá trị hiệu lực và thời điểm có hiệu lực của giao dịch Hình thức cũng là cách diễn đạt ý chí của các bên và chứng minh sự tồn tại của giao dịch, có thể được thể hiện qua lời nói, văn bản hoặc hành vi.
8 Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, tập II, tr.131
9 Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2017), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Vũ Thị Hồng Vân (Chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, tập 2, tr.212
10 Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, tlđd (9), tr.212
11 Điều 124 Bộ luật Dân sự 2015
12 Điều 126 Bộ luật Dân sự 2015
13 Điều 127 Bộ luật Dân sự 2015
14 Điều 128 Bộ luật Dân sự 2015
15 Điều 123 Bộ luật Dân sự 2015
16 Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, tlđd (9), tr.199
Hiện nay, pháp luật không yêu cầu hình thức cụ thể cho tất cả các giao dịch, nhưng đối với một số giao dịch như hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hợp đồng mua bán nhà ở, việc tuân thủ hình thức là điều kiện bắt buộc Nếu các bên không tuân thủ các yêu cầu này, hợp đồng có thể bị coi là vô hiệu.
M ộ t s ố giao d ị ch dân s ự điể n hình do h ộ gia đình xác lậ p
Hiện nay, hộ gia đình có thể tham gia nhiều giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất như chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, tặng cho, thế chấp và góp vốn Trong số đó, hai giao dịch phổ biến nhất là chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho cá nhân hoặc hộ gia đình khác và thế chấp quyền sử dụng đất.
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là sự thỏa thuận giữa bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng, trong đó bên chuyển nhượng có nghĩa vụ giao quyền sử dụng đất và bên nhận chuyển nhượng phải trả tiền theo thỏa thuận Đồng thời, các bên cũng phải thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước theo quy định pháp luật Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất là giao dịch mà bên thế chấp dùng quyền sử dụng đất để bảo đảm nghĩa vụ mà không chuyển giao quyền sử dụng đất cho bên nhận thế chấp Mặc dù có tên gọi khác nhau, nhưng bản chất của các hợp đồng này đều là giao dịch dân sự phổ biến, do đó, để hợp đồng có hiệu lực, các bên phải đáp ứng các yếu tố cơ bản của một giao dịch dân sự.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 64 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP, các thành viên trong hộ gia đình tham gia giao kết hợp đồng phải từ đủ mười tám tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực hành vi dân sự Điều kiện tự nguyện cũng rất quan trọng, đảm bảo rằng các giao kết được thực hiện trên cơ sở không bị ép buộc hay đe dọa, và phải có sự đồng ý của tất cả các thành viên trong hộ gia đình.
15 tháng 5 năm 2014 của Chính Phủ Hướng dẫn thi hành Luật Đất đai: “Hợp đồng,
17 Điều 119 Bộ luật Dân sự 2015
18 Điều 129 Bộ luật Dân sự 2015
19 Khoản 1 Điều 167 Luật Đất đai 2013
20 Tạ Thị Thu Trang (2020), “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 21 (421), tr.27
21 Điều 317 Bộ luật Dân sự 2015
Khái quát về hộ gia đình
1.2.1 Ti ế n trình l ị ch s ử v ề “hộ gia đình” trong pháp luậ t Vi ệ t Nam
Gia đình được coi là tế bào của xã hội và tham gia tích cực vào các hoạt động dân sự Theo một số nhà nghiên cứu, địa vị của gia đình trong lĩnh vực dân sự có nguồn gốc từ luật La Mã, nơi người cha đại diện cho gia đình nhưng không phải là chủ thể độc lập Hiện nay, địa vị của gia đình tồn tại dưới ba mô hình: thừa nhận rõ ràng, thừa nhận gián tiếp và không được thừa nhận Trước năm 1988, hộ gia đình chưa được xem là đơn vị kinh tế trong nền kinh tế Việt Nam, dẫn đến việc không có quy định nào công nhận hộ gia đình là chủ thể pháp luật dân sự.
24 Khoản 1 Điều 320 Bộ luật Dân sự 2015
Đỗ Văn Đại (2017) trong tác phẩm "Luật nghĩa vụ và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam – Bản án và bình luận bản án" đã cung cấp những phân tích sâu sắc về luật nghĩa vụ tại Việt Nam Cuốn sách, xuất bản bởi Nxb Hồng Đức và Hội Luật gia Việt Nam, mang đến những nhận định quan trọng trên trang 94, giúp người đọc hiểu rõ hơn về các khía cạnh pháp lý liên quan đến nghĩa vụ và cách thức thực hiện chúng trong thực tiễn.
26 Điều 321 Bộ luật Dân sự 2015
27 Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23 tháng 7 năm 2010 của Chính Phủ Về đăng ký giao dịch bảo đảm và khoản 3 Điều 188 Luật Đất đai 2013
28 Nguồn:http://www.pkulaw.cn/fulltext_form.aspx?Db=qikan&Gid10180084&keywordily&Encodi ngName=&fbclid=IwAR1mU29A0Pi0x221qHZI_QS_9unuUpoC7w43OFjKzdyZgXZKTI9iT4y2Awon, ngày 20/5/2021
29 Nguồn:http://www.pkulaw.cn/fulltext_form.aspx?Db=qikan&Gid10180084&keywordily&Encodi ngName=&fbclid=IwAR1mU29A0Pi0x221qHZI_QS_9unuUpoC7w43OFjKzdyZgXZKTI9iT4y2Awo , ngày 20/5/2021
Thập niên 90 của thế kỷ XX đánh dấu sự chuyển mình của nền kinh tế Việt Nam từ kinh tế hợp tác xã sang kinh tế hộ gia đình, bắt đầu với Nghị Quyết số 10/NQ-TW ngày 05/4/1988, cho phép chuyển giao đất đai và tư liệu sản xuất cho hộ nông dân Hộ gia đình trở thành một phần quan trọng trong cơ cấu kinh tế, với vai trò là chủ thể quản lý đất đai để sản xuất nông nghiệp Luật Đất đai 1993 đã xác lập địa vị pháp lý cho hộ gia đình, công nhận họ là đơn vị kinh tế độc lập trong quan hệ pháp luật đất đai Tuy nhiên, phải đến năm 1995, hộ gia đình mới được công nhận là một chủ thể pháp luật dân sự bên cạnh pháp nhân và cá nhân, mặc dù điều này gặp nhiều tranh cãi Tờ trình của Chính Phủ về dự án Bộ luật Dân sự 1995 đã nhấn mạnh vai trò của hộ gia đình trong các lĩnh vực kinh tế khác nhau và khẳng định họ tham gia vào các quan hệ dân sự mà không phải là pháp nhân Ngày 28 tháng 10 năm 1995, Bộ luật Dân sự đầu tiên của Việt Nam được thông qua, xác nhận hộ gia đình là một chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, phù hợp với sự phát triển kinh tế của đất nước trong thời kỳ đổi mới.
Bài viết của Hà Thị Mai Hiên (2013) tập trung vào các khái niệm pháp nhân, hộ gia đình và tổ hợp tác theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 Tác giả chỉ ra những bất cập trong các quy định này và đề xuất hướng hoàn thiện nhằm nâng cao tính khả thi và hiệu quả trong thực tiễn Nghiên cứu được đăng tải trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 10 (306), trang 44.
Nghị định số 64/CP ngày 27 tháng 9 năm 1993 của Chính phủ quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình và cá nhân nhằm mục đích sử dụng ổn định lâu dài cho sản xuất nông nghiệp.
32 Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Luật Đất đai, Nxb Công an nhân dân, tr.203
Bộ luật Dân sự 1995 đã công nhận hộ gia đình là chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự, quy định rõ ràng về khái niệm hộ gia đình, phương thức sở hữu tài sản chung, đại diện và trách nhiệm dân sự của hộ Hộ gia đình được xác định là những thành viên sở hữu tài sản chung để thực hiện các hoạt động kinh tế, bao gồm sử dụng đất, sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác theo quy định của pháp luật Chủ hộ gia đình đóng vai trò là người đại diện tự động trong các giao dịch dân sự, với trách nhiệm dân sự liên đới và vô hạn khi chứng minh mục đích giao dịch vì lợi ích chung của hộ.
Trong mười năm thực hiện Bộ luật Dân sự 1995, đã xuất hiện nhiều vướng mắc liên quan đến chủ thể hộ gia đình Điều này đã dẫn đến việc bàn luận về khả năng loại bỏ hộ gia đình khỏi nhóm chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự trong quá trình soạn thảo Bộ luật Dân sự thay thế.
Bảng 1: Cơ cấu hộ gia đình khu vực nông thôn phân theo ngành nghề Đơn vị tính: hộ, %
Tiêu chí Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ
Nguồn: Tổng hợp số liệu Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp, thủy sản năm
Dựa trên bảng số liệu, số lượng hộ gia đình hoạt động trong lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp đã giảm đáng kể Tuy nhiên, nhìn chung, các hộ gia đình vẫn tiếp tục tồn tại và duy trì hoạt động trong lĩnh vực này.
33 Điều 116 Bộ luật Dân sự 2015
34 Tổng cục Thống kê, Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản các năm 2001, 2006, 2011
Nền kinh tế hộ gia đình tại Việt Nam vẫn chiếm tỉ trọng lớn, với hàng triệu hộ gia đình tham gia vào các giao dịch Việc bỏ chế định này có thể dẫn đến khó khăn cho các hộ gia đình trong các giao dịch pháp lý, do các chủ thể và cơ quan có thẩm quyền chưa thích nghi với sự thay đổi đột ngột về mặt pháp luật Do đó, Bộ luật Dân sự 2005 vẫn công nhận hộ gia đình là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, nhưng đã có một số thay đổi lập pháp nhằm đảm bảo quyền tham gia của các thành viên trong hộ Thay đổi đáng chú ý nhất là quyền định đoạt tài sản, yêu cầu sự đồng ý của đa số thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên, trừ trường hợp tài sản là tư liệu sản xuất hay tài sản có giá trị lớn, khi đó cần sự đồng ý của tất cả các thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên.
Sự thừa nhận hộ gia đình như một chủ thể pháp luật dân sự ở Việt Nam bắt nguồn từ nền kinh tế hộ gia đình, nơi mà hoạt động sản xuất chủ yếu dựa vào lao động không thuê và nhằm đáp ứng nhu cầu của chính hộ gia đình Hộ gia đình thường không tham gia nhiều vào các giao dịch, ngoại trừ một số giao dịch liên quan đến đất đai và tiện ích Việc xác định hộ gia đình là chủ thể trong Bộ luật dân sự Việt Nam chủ yếu do cá nhân không được công nhận là chủ sở hữu các tư liệu sản xuất, bao gồm đất đai, và không có quyền tự do kinh doanh Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường phát triển, hộ gia đình đang phải đối mặt với nhiều khó khăn do các quy định pháp luật chưa rõ ràng, dẫn đến việc không thể xác định thời điểm chấm dứt tư cách chủ thể của hộ gia đình.
35 Điều 109 Bộ luật Dân sự 2015
36 Sở Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Bình (2008), Tài liệu tập huấn Phát triển kinh tế hộ gia đình, tr.5
37 Hà Thị Mai Hiên, tlđd (30), tr.45
Theo Tòa án nhân dân tối cao, hộ gia đình không được công nhận là đương sự trong pháp luật tố tụng dân sự, dẫn đến việc không thể khởi kiện hoặc bị kiện Chính phủ đã trình bày trong Tờ trình số 390/TTr-CP rằng hộ gia đình không có tư cách chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự Thay vì xác lập giao dịch qua hành vi đại diện của chủ hộ, dự thảo bộ luật mới quy định các thành viên hộ gia đình sẽ thực hiện giao dịch thông qua thỏa thuận cử người đại diện, có thể là chủ hộ hoặc không Điều này đã dẫn đến việc Bộ luật Dân sự 2015 không còn ghi nhận tư cách chủ thể của hộ gia đình trong quan hệ pháp luật dân sự.
Quan hệ dân sự của hộ gia đình đã được pháp luật công nhận và trở thành tập quán trong văn hóa Việt Nam, đặc biệt là trong các giao dịch liên quan đến tài sản chung và lợi ích chung của gia đình Những giao dịch này thường liên quan đến các tài sản quan trọng và phổ biến như nhà ở, đất đai, lối đi, đường điện, đường nước, và các sản phẩm hàng hóa do sự nỗ lực của các thành viên trong gia đình tạo ra Việc ghi nhận các giao dịch dân sự này là cần thiết để bảo vệ quyền lợi của các thành viên trong hộ gia đình.
Từ năm 2005, hộ gia đình được xem là chủ thể độc lập trong quan hệ dân sự, nhưng theo Bộ luật Dân sự 2015, mỗi cá nhân trong hộ gia đình trở thành chủ thể trực tiếp tham gia vào việc xác lập và giao kết giao dịch Sự thay đổi này giúp giải quyết những vướng mắc và hạn chế tồn tại lâu nay, đồng thời tạo ra cơ chế minh bạch hơn trong việc xác định tư cách chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự, từ đó làm rõ quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia.
38 Lê Minh Hùng (2005), “Địa vị pháp lý của hộ gia đình trong pháp luật dân sự”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 4 (51), tr.51
Bài viết của Đỗ Văn Đại (2016) với tiêu đề "Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015" (xuất bản lần 2, có bổ sung) do Nxb Hồng Đức và Hội Luật gia Việt Nam phát hành, đã cung cấp những phân tích sâu sắc về các điểm mới trong Bộ luật Dân sự năm 2015 Tài liệu này không chỉ giúp người đọc hiểu rõ hơn về những thay đổi quan trọng trong bộ luật mà còn góp phần nâng cao nhận thức về pháp luật trong cộng đồng.
40 Đỗ Văn Đại (Chủ biên), tlđd (39), tr.239
Bình luật khoa học về Bộ luật dân sự năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do Trần Thị Huệ và Nguyễn Văn Cừ đồng chủ biên, được xuất bản bởi Nxb Công an nhân dân vào năm 2017, cung cấp cái nhìn sâu sắc và phân tích chi tiết về các quy định pháp lý trong bộ luật này.
Quyền sở hữu chung của hộ gia đình
Hộ gia đình là tập hợp các thành viên, với tài sản chung được hình thành từ sự đóng góp của tất cả Quyền sở hữu chung đối với tài sản này là đặc trưng quan trọng của hộ gia đình, thể hiện rằng mọi thành viên đều có quyền lợi đối với tài sản chung.
Quy ề n chi ế m h ữ u, quy ề n s ử d ụ ng và quy ền định đoạ t tài s ả n chung c ủ a h ộ gia đình
57 Nguyễn Minh Tuấn (Chủ biên), tlđd (44), tr.149
58 Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ (Đồng chủ biên), tlđd (41), tr.360
Việc hộ gia đình không còn là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự theo Bộ luật Dân sự 2015 đã giúp xác định rõ bản chất của hộ gia đình như một nhóm người liên kết qua tài sản chung hoặc cùng tạo ra lợi ích kinh tế Điều này dẫn đến nhiều điểm mới trong quy định về quyền sở hữu tài sản của hộ gia đình so với các Bộ luật trước đây.
Năm 2015, các thành viên hộ gia đình độc lập được phép tham gia giao dịch và tự chịu trách nhiệm cá nhân đối với phần quyền của mình trong khối tài sản chung, với điều kiện đáp ứng tiêu chí về độ tuổi và năng lực hành vi Quy định mới này về sở hữu chung của thành viên gia đình nhằm giải quyết những khó khăn trong việc áp dụng pháp luật.
Khác với các Bộ luật Dân sự năm 1995 và 2005, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã đưa ra một khái niệm tổng quát hơn về tài sản chung của hộ gia đình Khái niệm này vẫn thể hiện rõ ràng rằng tài sản chung được hình thành từ công sức đóng góp, sự tạo lập hoặc thỏa thuận giữa các thành viên trong hộ gia đình Hơn nữa, luật còn mở rộng phạm vi và tránh thiếu sót bằng cách công nhận các loại tài sản khác được quy định bởi các luật khác là tài sản chung của gia đình.
Quyền sở hữu trong BLDS 2015 được ghi nhận rõ ràng với các quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt, nhấn mạnh mối liên hệ với quyền lợi của từng thành viên trong hộ gia đình Quyền sở hữu tài sản được thực hiện dựa trên sự thỏa thuận giữa các thành viên, phản ánh bản chất hộ gia đình như một chủ thể kinh tế kết hợp nguồn lực Mọi thành viên đều có quyền ngang nhau trong việc quyết định tài sản chung, với quan hệ sở hữu dựa trên sự tự nguyện và thỏa thuận Họ có quyền quản lý, khai thác tài sản chung và hưởng lợi từ tài sản đó.
59 Hoàng Gia Linh, tlđd (46), tr.19
60 Nguyễn Minh Tuấn (Chủ biên), tlđd (44), tr.149
61 Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2017), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Vũ Thị Hồng Vân (Chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, tập 1, tr.154
Các thành viên có quyền quyết định chuyển giao tài sản cho bên thứ ba Nếu không có thỏa thuận giữa các bên, quyền sở hữu sẽ được thực hiện một cách ngang nhau.
Quyền định đoạt tài sản là quyền quan trọng của chủ sở hữu, liên quan đến việc quyết định "vận mệnh" của tài sản Việc định đoạt tài sản chung của hộ gia đình có sự khác biệt so với tài sản chung thông thường Bộ luật Dân sự (BLDS) 1995 không quy định rõ quyền sở hữu tài sản của hộ gia đình, do đó, việc định đoạt tài sản yêu cầu sự đồng ý của tất cả đồng sở hữu BLDS 2005 đã trao quyền định đoạt cho các thành viên từ 15 tuổi trở lên, nhưng yêu cầu sự đồng ý của tất cả thành viên đối với tài sản là tư liệu sản xuất hoặc tài sản có giá trị lớn, còn các tài sản khác dựa vào quyết định của đa số BLDS 2015 đã sửa đổi khái niệm tài sản có giá trị lớn, làm rõ rằng đó là bất động sản, động sản có đăng ký, hoặc tài sản là nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình, giúp việc áp dụng pháp luật trở nên đơn giản hơn Mặc dù quyền định đoạt cần sự đồng ý của các thành viên, nhưng một số trường hợp tại khoản 2 Điều 212 không yêu cầu sự thống nhất ý chí của tất cả đồng sở hữu.
Theo Bộ luật Dân sự 2015, việc định đoạt tài sản như bất động sản, động sản có đăng ký và tài sản là nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình yêu cầu sự thỏa thuận của tất cả các thành viên gia đình là người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ Nếu không có sự đồng ý của bất kỳ thành viên nào, giao dịch sẽ bị coi là vô hiệu Đáng chú ý, luật đã điều chỉnh độ tuổi tham gia thỏa thuận từ đủ mười lăm tuổi trong Bộ luật cũ xuống còn đủ mười tám tuổi, điều này hợp lý vì ở độ tuổi mười lăm, các thành viên vẫn còn trong sự bảo bọc của gia đình.
62 Đỗ Văn Đại (Chủ biên), tlđd (39), tr 240, 241
63 Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế
(Tái bản có sửa đổi, bổ sung), Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr.191
Nhiều thành viên trong nhóm không có chính kiến riêng, mà chỉ tuân theo ý kiến của cha mẹ, dẫn đến việc quy định này gần như không có giá trị thực tiễn.
Hình th ứ c s ở h ữ u chung c ủ a h ộ gia đình
Sở hữu chung là quyền sở hữu của nhiều chủ thể đối với một tài sản, và khi có nhiều người cùng sở hữu, việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ thể khác Theo pháp luật dân sự, sở hữu chung được chia thành sở hữu chung hợp nhất và sở hữu chung theo phần Hộ gia đình lần đầu tiên được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự 1995, và đã có nhiều thay đổi trong các Bộ luật 2005 và 2015 Tuy nhiên, ở các giai đoạn khác nhau, khái niệm sở hữu chung của hộ gia đình vẫn chưa được xác định rõ ràng là sở hữu chung hợp nhất hay theo phần Các Tòa án và thẩm phán đã có những quan điểm khác nhau về vấn đề này Hiện nay, pháp luật quy định rằng nếu các thành viên không thể thỏa thuận, thì sẽ áp dụng quy định về sở hữu chung theo phần, xác định quyền sở hữu chung của các thành viên hộ gia đình chủ yếu là theo phần, ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt Bộ luật Dân sự 2015 đã làm rõ rằng đây là sở hữu chung theo phần.
64 Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, tlđd (61), tr.344
Theo thông báo rút kinh nghiệm của Viện Kiểm Sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh số 28/TB-VC3-V4 ngày 25/9/2018, có nhiều điểm cần lưu ý trong vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng.
Giấy chứng nhận số 00303/QSDĐ, cấp ngày 21/10/1999 bởi Ủy ban nhân dân huyện Phụng Hiệp, xác nhận quyền sử dụng 18.407 m² đất tại xã Hiệp Hưng, huyện Phụng Hiệp cho Hộ gia đình ông Tăng Văn Tịnh Hộ gia đình này bao gồm ông Tịnh, mẹ ông là bà Trần Thị Gấm, vợ ông là bà Nguyễn Thị Kim Hoàng và ba con: Tăng Nhựt Trường, Tăng Nhựt Cường, và Tăng Thị Kim Hạnh Theo quy định tại khoản 2 Điều 217 Bộ luật dân sự năm 2005, quyền sử dụng đất này là tài sản chung, do đó cần có sự đồng ý của tất cả thành viên trong hộ gia đình khi thế chấp Tuy nhiên, ông Tăng Văn Tịnh đã thế chấp quyền sử dụng đất mà không có sự đồng ý của các thành viên khác, vi phạm quy định tại Điều 109, Điều 219 và khoản 2 Điều 223 Bộ luật Dân sự số 33/2005/QH11 Do đó, Hợp đồng thế chấp số 0005/2012/HĐTCLienVietPostbank ngày 19/01/2012 bị coi là vô hiệu theo Điều 122 và 127 Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11, và Ngân hàng có trách nhiệm do không xác minh, thẩm định tài sản thế chấp đúng quy định.
66 Khoản 2 Điều 212 Bộ luật Dân sự 2015
Sở hữu chung hợp nhất và sở hữu chung theo phần có những khác biệt quan trọng về hệ quả pháp lý, điều này được quy định rõ ràng trong Bộ luật Dân sự Sự không rõ ràng trong hai Bộ luật cũ đã gây khó khăn trong việc áp dụng các quy định liên quan đến sở hữu chung Việc hiểu đúng về hai hình thức sở hữu này sẽ giúp các bên liên quan thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình một cách hiệu quả hơn.
Năm 2015, khái niệm sở hữu chung theo phần đã được ghi nhận, mặc dù quy định pháp luật hiện tại chưa làm rõ sự khác biệt về hệ quả pháp lý Một số quan điểm cho rằng sự khác nhau này xuất phát từ tính xác định hay không xác định được phần quyền sở hữu của mỗi chủ thể đối với tài sản chung Theo đó, trong trường hợp sở hữu chung theo phần, các đồng chủ sở hữu có quyền chuyển nhượng phần quyền của mình cho người thứ ba, trong khi với sở hữu chung hợp nhất, điều này không được phép Do đó, quyền sở hữu chung theo phần yêu cầu phần tài sản của các đồng sở hữu phải được thể hiện bằng những đơn vị số học cụ thể.
Mỗi đồng sở hữu đều biết rõ tỷ lệ phần quyền của mình đối với tài sản chung, và dù phần quyền có thể không bằng nhau, tài sản vẫn được coi là một thể thống nhất với mối liên hệ chặt chẽ Quyền của mỗi cá nhân bao trùm toàn bộ tài sản, do đó họ có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu và sử dụng tài sản chung Hiện nay, hộ gia đình được nhìn nhận như sự kết hợp của các thành viên, với các giao dịch do chính các thành viên thực hiện, làm rõ sự tách bạch giữa yếu tố thành viên và hộ Việc quy định quyền sở hữu chung theo phần là hợp lý, và thực tế cho thấy Tòa án thường chấp nhận giao dịch liên quan đến phần tài sản của thành viên trong hộ Mỗi thành viên có quyền định đoạt phần tài sản của mình trong khối tài sản chung, bao gồm quyền chuyển nhượng quyền sở hữu mà không cần sự đồng ý của các đồng sở hữu khác.
67 Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ (Đồng chủ biên), tlđd (41), tr.359
68 Nguyễn Minh Tuấn (Chủ biên) (2014), Bình luận khoa học BLDS, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.291
69 Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, tập I, tr.266, 267
70 Trường Đại học Luật Hà Nội, tlđd (69), tr.266
71 Trường Đại học Luật Hà Nội, tlđd (69), tr.267
72 Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh, tlđd (63), tr.192,193
73 Khoản 1 Điều 218 Bộ luật Dân sự 2015
Đặc điểm đặc trưng về giao dịch dân sự có đối tượng là quyền sử dụng đất của hộ gia đình
Giao dịch dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất của hộ gia đình là một trong những giao dịch phổ biến hiện nay, với nhiều khía cạnh pháp lý như chế định tài sản và đại diện Những đặc trưng nổi bật của loại giao dịch này bao gồm tính hợp pháp, quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia, cũng như sự ảnh hưởng đến quyền sử dụng đất của hộ gia đình.
Quyền sử dụng đất được cấp cho hộ gia đình có những đặc trưng khác biệt so với các tài sản chung như ô tô, xe máy, và ti vi.
Hộ gia đình nông dân chủ yếu thực hiện các hoạt động sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp, vì vậy tài sản quan trọng nhất của họ là tư liệu sản xuất và quyền sử dụng đất Mỗi hộ nông dân đều có quyền sử dụng đất do Nhà nước phân chia, và việc xác định từng thửa đất cho hộ nông dân là rất cần thiết để tổ chức sản xuất kinh doanh hiệu quả Theo khảo sát tại một số tỉnh, quyền sử dụng đất nông nghiệp được xác định là tài sản chung quan trọng nhất và có giá trị lớn đối với hộ gia đình.
Quyền sử dụng đất có nguồn gốc phức tạp hơn so với các tài sản khác, bởi vì nó không chỉ đơn thuần là tài sản mà còn mang tính chất lâu dài, kéo dài qua nhiều thế hệ Nguồn gốc của quyền sử dụng đất trong hộ gia đình thường bao gồm đất đai do tổ tiên để lại, đất được phân chia sau khi hệ thống hợp tác xã nông nghiệp tan rã, đất nhận chuyển nhượng, cũng như đất do Nhà nước giao hoặc cho thuê.
Quyền sử dụng đất là một loại tài sản đặc biệt, được quản lý chặt chẽ bởi Nhà nước Từ khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu cho đến khi thực hiện đăng ký, đăng bộ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mọi hoạt động liên quan đều phải tuân thủ quy định pháp lý.
77 Sở Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Bình, tlđd (36), tr.8
Bài viết của Lê Thị Hoàng Thanh đề cập đến những vấn đề phát sinh khi sửa đổi chế định chủ thể trong Bộ luật Dân sự năm 2005 liên quan đến hộ gia đình Tác giả phân tích các khía cạnh pháp lý cần xem xét để đảm bảo tính hợp lý và hiệu quả của các quy định liên quan đến hộ gia đình trong bối cảnh pháp luật hiện hành Việc điều chỉnh này không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của các thành viên trong hộ gia đình mà còn tác động đến các vấn đề xã hội rộng lớn hơn.
79 Lê Thị Hoàng Thanh, Phạm Văn Bằng, tlđd (45), tr.34
29 đến các giao dịch có đối tượng là quyền sử dụng đất, pháp luật điều chỉnh không chỉ là BLDS mà còn có Luật chuyên ngành – Luật Đất đai
Với những đặc điểm trên, quyền sử dụng đất được coi là một đối tượng đặc biệt trong các giao dịch do hộ gia đình thực hiện
Thứ hai, hộ gia đình đã trải qua nhiều thay đổi lớn về mặt lập pháp trong Bộ luật Dân sự Trong khi tư cách pháp lý của cá nhân và pháp nhân hầu như không có sự thay đổi đáng kể qua các thời kỳ, thì hộ gia đình lại có sự chuyển biến rõ rệt trong quy định pháp luật Trước đây, Bộ luật Dân sự đã thiết lập những quy định khác biệt cho chủ thể này.
Luật Dân sự 1995 và 2005 đã công nhận hộ gia đình là một nhóm chủ thể bên cạnh cá nhân và pháp nhân Tuy nhiên, theo Bộ luật Dân sự 2015, hộ gia đình không còn là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự mà các giao dịch dân sự được xác lập bởi các thành viên trong hộ Điều này dẫn đến sự khác biệt trong tư cách xác lập giao dịch so với giai đoạn trước Việc xác định đồng sở hữu tài sản trong trường hợp nhiều người sở hữu rất đơn giản, nhưng với hộ gia đình, sự phức tạp gia tăng do mối quan hệ hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng giữa các thành viên Khái niệm về thành viên hộ gia đình cũng còn nhiều vướng mắc, khiến việc xác định ai tham gia giao kết trở thành một đặc trưng quan trọng Trong khi việc xác định tư cách của pháp nhân hoặc cá nhân là đơn giản, thì đối với hộ gia đình, bên đối tác cần làm rõ các thành viên trước khi tiến hành giao dịch.
Sở hữu của hộ gia đình là sở hữu chung, khác với sở hữu riêng, và việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản đòi hỏi sự đồng thuận giữa các thành viên Quyền sở hữu tài sản của hộ gia đình liên quan mật thiết đến tất cả các thành viên, và bất kỳ quyết định nào không có sự đồng ý của một thành viên sẽ bị coi là không hợp pháp, có thể dẫn đến giao dịch bị vô hiệu Tuy nhiên, một số Tòa án vẫn công nhận hiệu lực của phần giao dịch đã được các thành viên đồng ý Pháp luật cũng ghi nhận sở hữu chung của hộ gia đình là sở hữu chung theo phần, xác định phần tài sản của từng thành viên.
Trong khối tài sản chung, 30 ứng được coi là một thể thống nhất, tuy nhiên, nếu không có thỏa thuận về tỷ lệ phần trăm quyền sở hữu, các thành viên thường không biết rõ phần của mình trong tài sản chung và thường phải nhờ đến phán quyết của Tòa án để chia tài sản Đặc điểm này cho thấy rằng khi tham gia các giao dịch liên quan đến tài sản chung của hộ gia đình, tất cả các thành viên đều có quyền định đoạt hoặc mỗi người có thể quyết định phần tài sản của mình nếu đã xác định được tỷ lệ sở hữu Đây là một yếu tố quan trọng mà các bên khi giao kết giao dịch với hộ gia đình cần lưu ý.
Theo Bộ luật Dân sự 2015, các thành viên trong hộ gia đình có thể tham gia xác lập giao dịch dân sự, thường thông qua việc ủy quyền cho một đại diện Việc ủy quyền này dẫn đến sự phát sinh quan hệ đại diện, liên quan đến các vấn đề pháp lý trong giao dịch Khi nói đến hộ gia đình trong các giao dịch dân sự, vấn đề đại diện giữa các thành viên trở thành một yếu tố quan trọng Khác với các quan hệ sở hữu chung khác, trong hộ gia đình, chỉ những thành viên từ đủ mười tám tuổi trở lên và có năng lực hành vi dân sự mới có quyền quyết định về tài sản lớn như bất động sản Do đó, khi thực hiện giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, cần chú trọng đến các thành viên có đủ năng lực hành vi dân sự, điều này tạo nên sự khác biệt so với các chủ thể sở hữu chung khác như vợ chồng hay các cá nhân hợp tác.
Liên quan đến độ tuổi quyết định tài sản, hộ gia đình có quyền thực hiện tất cả các giao dịch, bao gồm cả giao dịch tặng cho Tuy nhiên, nếu hộ gia đình có thành viên là người chưa thành niên hoặc người mất năng lực hành vi dân sự, các hợp đồng tặng cho có thể không hợp pháp và dẫn đến vô hiệu Điều này vi phạm quy định của Luật HNGĐ 2014 và xâm phạm quyền lợi của các thành viên này, vì giao dịch tặng cho không có đền bù, không mang lại lợi ích hợp pháp và khó có thể chứng minh.
31 là vì lợi ích của những thành viên là người chưa thành niên hay mất năng lực hành vi dân sự
Cuối cùng, theo quy định của pháp luật dân sự, hình thức không phải là điều kiện bắt buộc, ngoại trừ một số trường hợp luật định Trong đó, giao dịch có đối tượng là quyền sử dụng đất là một trong những trường hợp bắt buộc phải tuân thủ hình thức Cụ thể, các giao dịch này phải được công chứng hoặc chứng thực để có hiệu lực pháp luật, theo quy định tại khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai 2013.
Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 117 BLDS 2015 chỉ có hiệu lực từ thời điểm đăng ký, khác với các hợp đồng khác có hiệu lực ngay khi giao kết hoặc theo thỏa thuận của các bên Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thực hiện đăng ký theo Luật Đất đai để đảm bảo tính hợp pháp và hiệu lực của giao dịch.
Giao dịch quyền sử dụng đất của hộ gia đình có những đặc điểm riêng biệt so với các giao dịch tài sản khác, do đó cần được hiểu và xử lý khác biệt.
Hộ gia đình dưới góc nhìn từ pháp luật nước ngoài
Liên bang Nga và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam về văn hóa và xã hội, đặc biệt là giá trị gia đình Cả ba quốc gia đều đã trải qua giai đoạn thực hiện kinh tế xã hội chủ nghĩa, tập trung vào sở hữu tập thể, với người dân làm kinh tế chung qua hợp tác xã và doanh nghiệp quốc doanh Trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã chứng kiến sự xuất hiện của nhiều thành phần kinh tế mới, trong đó kinh tế hộ cá thể và kinh tế tư nhân đóng vai trò quan trọng Pháp luật của Liên bang Nga và Trung Quốc cũng quy định về hộ gia đình, cho thấy sự ảnh hưởng từ các chế định trong luật của Liên Xô và Trung Quốc Nghiên cứu pháp luật của hai quốc gia này giúp hiểu rõ hơn về quy định pháp lý đối với hộ gia đình trong bối cảnh quốc tế.
80 Điều 503 Bộ luật Dân sự 2015
81 Nguyễn Ngọc Điện, tlđd (75), tr.267
Pháp lu ật nướ c C ộ ng hòa Nhân dân Trung Hoa
BLDS Trung Quốc 82 chỉ công nhận cá nhân, pháp nhân và tổ chức chưa hợp nhất là các chủ thể pháp luật dân sự, không bao gồm hộ gia đình Tuy nhiên, pháp luật dân sự nước này vẫn có quy định liên quan đến hộ gia đình, thể hiện qua hình thức thành viên của hộ nông dân nhận khoán và sở hữu chung giữa các thành viên trong gia đình.
Bộ luật Dân sự Trung Quốc không công nhận hộ nông dân nhận khoán là một chủ thể pháp luật dân sự, mà điều chỉnh thông qua các thành viên trong hộ nông dân này Tư cách của hộ nông dân nhận khoán được quy định rõ ràng trong Luật Hợp đồng Đất đai nông thôn năm 2003, đã được sửa đổi và bổ sung.
Năm 2018, có 84 hộ nông dân được phép sử dụng đất nông thôn theo hình thức chủ thể nhận khoán Các thành viên trong hộ gia đình nông dân được hưởng quyền lợi và lợi ích ngang nhau trên diện tích đất được nhận khoán, phù hợp với quy định của pháp luật.
Theo Điều 55 BLDS Trung Quốc, "thành viên của tổ chức kinh tế tập thể nông thôn nhận khoán quản lý đất đai" chỉ có thể là những hộ nhận khoán có quyền quản lý đất theo hợp đồng, trong khi các thành viên gia đình không có quyền này sẽ không được coi là thành viên của hộ nông dân Điều này có nghĩa là số lượng "thành viên hộ nông dân" có thể bằng hoặc ít hơn số lượng "thành viên gia đình" Việc xác định thành viên hộ nông dân dựa vào quyền quản lý đất đai theo hợp đồng gia đình Bên cạnh đó, Điều 56 quy định rằng các khoản nợ của hộ nhận khoán ở nông thôn sẽ được tài sản của hộ đó gánh chịu, và nếu không đủ, một số thành viên trong hộ gia đình nông thôn sẽ phải chịu trách nhiệm.
82 Nguồn: http://www.pkulaw.cn/fulltext_form.aspx?Db=chl&Gid42411 , ngày 20/5/2021
Điều 2 Bộ luật Dân sự Trung Quốc quy định rằng Bộ luật này điều chỉnh các quan hệ về nhân thân và tài sản giữa các cá nhân, pháp nhân và các tổ chức không hợp nhất, với tất cả các chủ thể được coi là bình đẳng.
84 Nguồn:http://www.pkulaw.cn/fulltext_form.aspx?Gid28186&fbclid=IwAR3IK7wQSQZQbNfrIfEjs6A6 OeHc49KSroq4-0VpSgHDBblT8xZxCMEaaQE, ngày 20/5/2021
85 Điều 16 Luật Hợp đồng đất đai nông thôn năm 2003, sửa đổi bổ sung năm 2018
86 Nguồn:http://www.pkulaw.cn/fulltext_form.aspx?Db=qikan&Gid10238735&keyword=&EncodingNa me= , ngày 20/5/2021
Theo quy định, các hộ nhận khoán ở nông thôn phải chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ trả nợ bằng tài sản của chính hộ, và trong trường hợp tài sản không đủ, các thành viên trong hộ sẽ phải dùng tài sản riêng của mình để đảm bảo nghĩa vụ Điều này cho thấy hộ nông dân nhận khoán có trách nhiệm liên đới và vô hạn, với khả năng phải sử dụng tài sản cá nhân nếu tài sản chung không đủ.
Sở hữu chung là trạng thái mà quyền sở hữu một tài sản được chia sẻ giữa hai cá nhân trở lên Theo quy định tại Điều 297 và Điều 299 Bộ luật Dân sự Trung Quốc, bất động sản hoặc động sản có thể thuộc sở hữu chung của nhiều tổ chức, cá nhân Các thành viên trong gia đình có tài sản chung sẽ được xem là đồng sở hữu và có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản đó, với mỗi đồng sở hữu có quyền đối với phần của mình.
Quản lý tài sản chung của hộ phụ thuộc vào sự thỏa thuận giữa các đồng sở hữu Nếu không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng, mỗi thành viên đều có quyền và nghĩa vụ trong việc quản lý tài sản chung.
Theo Điều 301 Bộ luật Dân sự Trung Quốc, quyền định đoạt tài sản chung yêu cầu sự đồng ý của tất cả các chủ sở hữu hoặc ít nhất hai phần ba cổ phần đối với việc sửa chữa lớn, thay đổi tính chất và công dụng của tài sản chung Điều này có nghĩa là nếu không có thỏa thuận khác giữa các đồng sở hữu, việc quyết định liên quan đến tài sản chung phải được thực hiện dựa trên sự đồng thuận của các bên liên quan.
87 Nguồn: https://www.pkulaw.com/qikan/35a9e9f6f22d0666864a4272a48a01c2bdfb.html , ngày 20/5/2021
88 Điều 298 BLDS Trung Quốc: “Một chủ sở hữu chung có quyền sở hữu đối với bất động sản hoặc động sản chung theo phần của nó.”
Theo Điều 300 Bộ luật Dân sự Trung Quốc, việc quản lý tài sản chung, bao gồm bất động sản và động sản, sẽ được thực hiện theo thỏa thuận giữa các chủ sở hữu Nếu không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng, mỗi chủ sở hữu sẽ có quyền và nghĩa vụ tự quản lý tài sản của mình.
Việc định đoạt tài sản chung trong gia đình phải có sự đồng ý của các thành viên Nếu có thành viên không đồng ý, việc định đoạt vẫn có thể tiến hành nếu các đồng sở hữu có phần đóng góp trên hai phần ba tài sản chung đồng ý Một thành viên có quyền chuyển nhượng phần tài sản của mình nhưng phải thông báo cho các đồng sở hữu khác Pháp luật ưu tiên quyền mua trước cho các thành viên còn lại, và họ có quyền từ chối trong khoảng thời gian hợp lý Nếu nhiều đồng sở hữu yêu cầu thực hiện quyền ưu tiên, họ sẽ thương lượng tỷ lệ mua tương ứng; nếu không thành công, quyền ưu tiên sẽ được thực hiện theo tỷ lệ cổ phần tại thời điểm chuyển nhượng.
Theo Điều 309 Bộ luật Dân sự Trung Quốc, việc xác định tỷ lệ phần của mỗi đồng sở hữu trong khối tài sản chung dựa trên thỏa thuận giữa các bên Nếu không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng, tỷ lệ sẽ được xác định theo phần vốn góp của từng thành viên Trong trường hợp không xác định được phần vốn góp của mỗi người, các thành viên sẽ được hưởng phần tài sản chung một cách bình đẳng.
Bộ luật dân sự Trung Quốc quy định sở hữu chung của gia đình là sở hữu chung theo phần, cho phép các đồng sở hữu có quyền chiếm hữu và sử dụng tài sản tương ứng với tỷ lệ phần của mình Điểm khác biệt với pháp luật Việt Nam là quyền quyết định về tài sản chung cần sự đồng ý của tất cả các thành viên hoặc theo nguyên tắc đa số, với yêu cầu ít nhất 2/3 số phần đồng ý Thêm vào đó, trong trường hợp không xác định được phần của mỗi người, pháp luật Trung Quốc quy định rằng mỗi thành viên sẽ được hưởng phần bằng nhau, điều này không có trong quy định của Việt Nam.
Pháp lu ậ t Liên bang Nga
Pháp luật Liên bang Nga quy định về một chủ thể tương tự như hộ gia đình trong pháp luật Việt Nam, đó là kinh tế nông dân hay trang trại Chủ thể này hoạt động dưới sự quản lý và điều chỉnh của pháp luật, nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp và đảm bảo quyền lợi cho các thành viên trong cộng đồng nông dân.