1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tội hiếp dâm trong luật hình sự việt nam thực tiễn trên địa bàn tỉnh nghệ an

69 7 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 69
Dung lượng 765,36 KB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (8)
  • 2. Mục đích, đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận (9)
    • 2.1. Mục đích nghiên cứu (9)
    • 2.2. Đối tượng nghiên cứu (9)
    • 2.3. Nhiệm vụ nghiên cứu (10)
  • 3. Phạm vi nghiên cứu khóa luận (10)
  • 4. Phương pháp nghiên cứu của khóa luận (10)
  • 5. Tình hình nghiên cứu đề tài (11)
  • 6. Đóng góp của khóa luận (12)
  • 7. Bố cục của khóa luận (12)
  • Chương I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỘI HIẾP DÂM THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (13)
    • 1.1. Một số khái niệm cơ bản (13)
      • 1.1.1. Hiếp dâm (13)
      • 1.1.2. Tội hiếp dâm (13)
    • 1.2. Lịch sử hình thành các quy định của tội hiếp dâm trong pháp luật Việt Nam. 7 1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành BLHS (14)
      • 1.2.2. Sự ra đời của BLHS năm 1985 (15)
    • 1.3. Tội hiếp dâm trong BLHS năm 1999 (sđ, bs 2009) (16)
      • 1.3.1. Dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm (17)
      • 1.3.2. Hình phạt (23)
  • Chương II: THỰC TIỄN TỘI HIẾP DÂM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NGHỆ AN (32)
    • 2.1. Đặc điểm về tự nhiên, kinh tế xã hội tỉnh Nghệ An (32)
      • 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên (32)
      • 2.1.2. Về đặc điểm kinh tế, xã hội (0)
    • 2.2. Tình hình tội phạm hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Nghệ An (33)
    • 2.3. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Nghệ An (35)
      • 2.3.1. Hạn chế, thiếu sót trong thực tiễn áp dụng pháp luật quy định về tội hiếp dâm tại Nghệ An (36)
    • 2.4. Thực tiễn xét xử tội phạm hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Nghệ An (2010-2014) (42)
      • 2.4.1. Thực trạng công tác xét xử tội phạm hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Nghệ An. (2010-2014) (43)
      • 2.4.2. Những khó khăn, vướng mắc trong công tác xét xử tội phạm hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Nghệ An (49)
  • Chương III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ XÉT XỬ TỘI HIẾP DÂM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NGHỆ AN (56)
    • 3.1. Giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về tội hiếp dâm (56)
    • 3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xét xử tội hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Nghệ An (61)
    • 3.3. Một số giải pháp nhằm hạn chế tội tình hình tội hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Nghệ An (62)
      • 3.3.1. Giải pháp về kinh tế và quản lý trật tự xã hội (63)
      • 3.3.2. Giải pháp về văn hoá, giáo dục, tuyên truyền ý thức pháp luật (64)
  • KẾT LUẬN (31)

Nội dung

Mục đích, đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận

Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của khóa luận là làm rõ các quy định tại Điều 111 - BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009) và các văn bản pháp luật liên quan Nghiên cứu sẽ đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật và xét xử tội phạm hiếp dâm tại tỉnh Nghệ An, dựa trên số liệu thu thập được, nhằm xác định nguyên nhân và đề xuất giải pháp hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về tội hiếp dâm cũng như công tác xét xử tội phạm này, không chỉ ở Nghệ An mà còn trên toàn quốc.

Đối tượng nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu tập trung vào lý luận về tội hiếp dâm theo Điều 111 Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009) Nghiên cứu sẽ phân tích cơ sở pháp lý liên quan đến tội phạm hiếp dâm và thực trạng áp dụng pháp luật cũng như xét xử loại tội phạm này tại tỉnh Nghệ An Mục tiêu là tìm ra nguyên nhân và đề xuất giải pháp nhằm hạn chế những bất cập trong công tác áp dụng pháp luật và xét xử tội phạm hiếp dâm tại địa phương.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Xuất phát từ mục đích như trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài được đặt ra như sau:

Đầu tiên, cần tiến hành nghiên cứu tài liệu và các văn bản pháp luật liên quan đến tội hiếp dâm, đặc biệt là trong giai đoạn có hiệu lực của Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Hệ thống hóa các quan điểm khoa học liên quan đến tội hiếp dâm, đồng thời làm rõ các dấu hiệu pháp lý được quy định tại Điều 111 Bộ luật Hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009) Bên cạnh đó, cần phân tích các hình phạt tương ứng đối với hành vi hiếp dâm theo quy định của pháp luật.

Thứ ba, nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật và xét xử tội phạm hiếp dâm tại tỉnh Nghệ An là rất cần thiết Bài viết sẽ phân tích các nguyên nhân và hậu quả dẫn đến những hạn chế trong công tác áp dụng pháp luật và xử lý loại tội phạm này trong khu vực.

Dựa trên quy định của Bộ Luật Hình sự về tội hiếp dâm và thực tiễn áp dụng pháp luật tại tỉnh Nghệ An, cần đưa ra một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự liên quan đến tội hiếp dâm, cũng như nâng cao hiệu quả công tác xét xử tội phạm này trong khu vực.

Phương pháp nghiên cứu của khóa luận

Đề tài nghiên cứu áp dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với chính sách của Đảng và Nhà nước Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng duy vật, cùng với các phương pháp đặc thù của khoa học luật học hình sự và tội phạm học như phân tích, so sánh và thống kê hình sự.

Trong đó, phương pháp phân tích, tổng hợp đóng vai trò quan trọng và chủ yếu nhất.

Tình hình nghiên cứu đề tài

Tội hiếp dâm đang trở thành một chủ đề thu hút sự chú ý lớn từ giới nghiên cứu luật học, đặc biệt trong bối cảnh tội phạm này gia tăng cả về số lượng và phương thức thực hiện Sự gia tăng này không chỉ thu hút sự quan tâm của công chúng mà còn của các nhà nghiên cứu pháp lý Gần đây, nhiều công trình nghiên cứu đã được công bố, tập trung vào lý luận và thực tiễn liên quan đến các loại tội phạm xâm hại tình dục, trong đó tội hiếp dâm được phân tích với nhiều mức độ và phạm vi khác nhau.

- Bình luận khoa học về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người trong BLHS : Ths Đinh Văn Quế, NXB TP Hồ

- Bàn về một số dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm : Bùi Thị Quyên

- Cấu thành tội hiếp dâm : Nguyễn Thị Thùy Trang TANDTC số 20/2013

- Hoàn thiện các quy định của BLHS về các tội xâm phạm danh dư, nhân phẩm của con người: Đỗ Đức Hồng Hà, NXB Công an nhân dân

- Nam giới có thể là chủ thể bị hại trong tội hiếp dâm: Bài viết của tạp chí Tòa án nhân dân tối cao số 14/2014

- Tình hình tội hiếp dâm trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2005-

Tình trạng xâm phạm tình dục, đặc biệt là tội hiếp dâm, tại tỉnh Nghệ An đang diễn ra phức tạp và có xu hướng gia tăng, gây hậu quả nghiêm trọng và bức xúc trong dư luận Do đó, nghiên cứu về tội phạm này đã thu hút sự quan tâm lớn Tuy nhiên, các nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung vào khía cạnh tội phạm học mà chưa phân tích toàn diện lý luận tội hiếp dâm từ góc độ luật hình sự, cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật và công tác xét xử tại địa phương Vì vậy, việc nghiên cứu sâu về lý luận tội hiếp dâm và đánh giá thực tiễn trong công tác pháp luật và xét xử loại tội phạm này là rất cần thiết, nhằm góp phần vào công cuộc đấu tranh và phòng ngừa tội phạm hiếp dâm hiện nay.

Đóng góp của khóa luận

Sau khi nghiên cứu khóa luận này em xin được đóng góp một số điểm như sau:

Thứ nhất: Góp phần hoàn thiện lý luận khoa học về tội hiếp dâm trong

BLHS đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về tội hiếp dâm

Khóa luận phân tích thực tiễn nghiên cứu và áp dụng pháp luật đối với tội hiếp dâm tại tỉnh Nghệ An, nhằm làm rõ nguyên nhân và hậu quả của công tác xét xử loại tội phạm này Qua đó, bài viết đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế những bất cập trong quy trình áp dụng pháp luật và xét xử tội phạm hiếp dâm, không chỉ ở Nghệ An mà còn trên toàn quốc.

Thứ Ba: Đóng vai trò là tài liệu tham khảo quan trọng cho việc nghiên cứu và tìm hiểu các vấn đề liên quan đến tội hiếp dâm trong Bộ luật Hình sự, đặc biệt trong bối cảnh giảng dạy tại các trường đại học và cao đẳng chuyên nghiệp.

Bố cục của khóa luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo khóa luận có bố cục gồm 3 chương như sau:

Chương I: Lý luận chung về tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự Việt Nam

Chương II: Thực tiễn tội hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Nghệ An

Chương III trình bày một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật và xét xử tội hiếp dâm tại tỉnh Nghệ An Các biện pháp này bao gồm việc tăng cường đào tạo cho cán bộ tư pháp, nâng cao nhận thức cộng đồng về tội phạm hiếp dâm, và cải thiện quy trình tố tụng để bảo vệ quyền lợi của nạn nhân Đồng thời, cần thiết phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng và tổ chức xã hội nhằm tạo ra môi trường an toàn và hỗ trợ cho nạn nhân Việc thực hiện các giải pháp này không chỉ góp phần nâng cao hiệu quả xét xử mà còn tăng cường niềm tin của người dân vào hệ thống pháp luật.

LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỘI HIẾP DÂM THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Một số khái niệm cơ bản

Theo từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, hiếp dâm được định nghĩa là hành vi sử dụng sức mạnh để buộc nạn nhân phải thỏa mãn nhu cầu dâm dục.

Theo từ điển bách khoa của Công an nhân dân Việt Nam, tài liệu này được biên soạn bởi Viện chiến lược và khoa học công an, do nhà xuất bản công an nhân dân phát hành.

2005 thì hành vi hiếp dâm được hiểu là “dùng sức mạnh của mình để cưỡng bức người khác nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục của mình”

Tội hiếp dâm là một loại tội phạm cụ thể trong bối cảnh tội phạm nói chung Để hiểu rõ về tội hiếp dâm, trước tiên cần làm rõ khái niệm về tội phạm.

Theo Điều 8 Bộ luật Hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009), tội phạm được định nghĩa là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý Hành vi này xâm phạm đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ, bao gồm độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh trật tự, an toàn xã hội, cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản và các quyền lợi hợp pháp của công dân, cùng những lợi ích khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.

Từ những khái niệm trên có thể đưa ra khái niệm tội hiếp dâm như sau:

Tội hiếp dâm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xảy ra khi người có trách nhiệm hình sự sử dụng vũ lực, đe dọa, hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ của nạn nhân để thực hiện giao cấu trái với ý muốn của họ.

Lịch sử hình thành các quy định của tội hiếp dâm trong pháp luật Việt Nam 7 1 Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành BLHS

1.2.1 Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành BLHS

Ngày 2/9/1945, Bác Hồ đã đọc bản tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Trong bối cảnh khó khăn, chính quyền non trẻ phải đối mặt với nền kinh tế lạc hậu, chiến tranh tàn phá nặng nề và tình hình tài chính cạn kiệt Đất nước rối ren, với thù trong giặc ngoài, khiến Nhà nước chưa đủ điều kiện xây dựng hệ thống văn bản pháp luật hoàn chỉnh Trước tình thế khẩn trương và nhu cầu cấp thiết về pháp luật, vào ngày 10/10/1945, Nhà nước đã ban hành sắc lệnh số 47-SL, cho phép tạm thời giữ các luật lệ cũ, trong đó có bộ “Luật Hình An Nam”.

Bộ “Hình Luật Pháp Tu Chính” và “Việt Hình Luật” được xây dựng trên nguyên tắc độc lập của Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa Năm 1967, tình hình tội phạm, đặc biệt là tội phạm hiếp dâm, diễn ra phức tạp Qua thực tiễn thi hành pháp luật, nhận thấy tội phạm hiếp dâm là mối đe dọa nghiêm trọng đến thuần phong mỹ tục và giá trị truyền thống dân tộc, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành bản tổng kết số 329/HS2 vào ngày 11/5/1967 Bản tổng kết này đã đề ra đường lối xử lý tội phạm hiếp dâm với hình phạt nghiêm khắc hơn so với chỉ thị trước đó.

Bản tổng kết số 329/HS2 ra đời đúng thời điểm, phản ánh tình hình tội phạm và trình độ lập pháp của nước ta Nó chỉ ra những trường hợp cần xử nặng và những trường hợp cần xử nhẹ hơn so với quy định thông thường.

Ngay sau khi Miền Nam được giải phóng, Hội đồng chính phủ lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã ban hành SL 03/1976, quy định các loại tội phạm và hình phạt nhằm xử lý các hành vi xâm phạm đến chính trị, kinh tế, an ninh quốc gia, và nhân phẩm của công dân Điều 5 của SL 03/1976 quy định rõ ràng về tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân, trong đó hình phạt cho tội hiếp dâm vị thành niên là từ 5 đến 7 năm tù, có thể lên đến 20 năm, chung thân hoặc tử hình trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng SL 03/1976 đã được áp dụng cho đến khi có BLHS 1985, thể hiện sự nghiêm khắc và công bằng của pháp luật trong việc bảo vệ quyền lợi của công dân.

1.2.2 Sự ra đời của BLHS năm 1985

Tại Điều 112- BLHS 1985 quy định như sau:

1 Người nào dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác giao cấu với người khác trái với ý muốn của họ thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm

2 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm a) Hiếp dâm có tổ chức hoặc nhiều người hiếp một người; b) Hiếp nhiều người hoặc gây tổn hại nặng cho sức khỏe của nạn nhân; c) Tái phạm nguy hiểm;

3 Phạm tội làm nạn nhân chết, tự sát hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác thì phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình

4 Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em dưới 13 tuổi đều là phạm tội hiếp dâm và người phạm tội bị phạt theo các khoản 2 và 3 Điều này

Việc xác định rõ ràng các hành vi liên quan đến tội hiếp dâm thành một tội danh riêng biệt cho thấy sự nhận thức sâu sắc của các nhà làm luật về mức độ nghiêm trọng và tính chất nguy hiểm của loại tội phạm này, đồng thời thể hiện sự nghiêm khắc của pháp luật trong việc xử lý.

Tại khoản 1- Điều này có quy định dấu hiệu của loại tội phạm này

Theo BLHS 1985, tội phạm liên quan đến việc sử dụng vũ lực hoặc thủ đoạn khác để giao cấu với người khác trái với ý muốn của họ chưa được quy định đầy đủ và chính xác So với BLHS 1999, điều 111 đã làm rõ hơn các dấu hiệu của tội phạm này, bao gồm việc sử dụng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, hoặc các thủ đoạn mà nạn nhân không thể tự vệ Sự thiếu rõ ràng trong BLHS 1985 có thể dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm Tuy nhiên, ở khoản 2 và khoản 3 của điều này, đã có quy định về tình tiết tăng nặng, cho thấy sự phân loại tội phạm trong lĩnh vực này.

Sự ra đời của Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1985 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử lập pháp Việt Nam Đây là lần đầu tiên kể từ khi Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập, nước ta có một văn bản pháp luật hình sự thống nhất, thay vì rải rác trong các văn bản dưới luật như trước Điều này không chỉ nâng cao hiệu lực pháp lý mà còn tạo ra sự thống nhất trong công tác áp dụng pháp luật và xét xử tội phạm trên toàn quốc, khắc phục tình trạng xét xử theo án lệ dẫn đến sự không đồng nhất trước đây.

Tội hiếp dâm trong BLHS năm 1999 (sđ, bs 2009)

Tội hiếp dâm trong BLHS năm 1999 (sđ, bs 2009) được quy định tại Điều 111- BLHS như sau:

1 Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn của họ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm

2 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Có tổ chức; b) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; c) Nhiều người hiếp một người; d) Phạm tội nhiều lần; đ) Đối với nhiều người; e) Có tính chất loạn luân; g) Làm nạn nhân có thai; h) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; i) Tái phạm nguy hiểm

3 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên; b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát

4 Phạm tội hiếp dâm người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản

Ba hành vi sau đây sẽ bị xử phạt theo mức hình phạt quy định: Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân với tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên; biết mình bị nhiễm HIV nhưng vẫn tiếp tục phạm tội; và làm cho nạn nhân chết hoặc tự sát.

5 Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm

1.3.1 Dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm

“Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại”

Theo luật hình sự Việt Nam, các quan hệ xã hội được coi là khách thể của luật hình sự được quy định tại Điều 8 Bộ luật Hình sự.

Năm 1999 (sđ, bs 2009) quy định rằng việc xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, cũng như các chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh trật tự, an toàn xã hội, và quyền lợi hợp pháp của tổ chức là hành vi nghiêm trọng Điều này bao gồm cả việc xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản và các quyền lợi hợp pháp trong trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.

Mặt khách quan của tội phạm đề cập đến các yếu tố bên ngoài, bao gồm những biểu hiện và hành vi phạm tội diễn ra trong thế giới khách quan.

Tội hiếp dâm có đặc điểm hành vi khách quan là yếu tố bắt buộc duy nhất trong cấu thành tội phạm cơ bản của loại tội này.

Hành vi khách quan của tội phạm là những hành động của con người thể hiện ra bên ngoài, nhằm đạt được mục đích và mong muốn cụ thể.

Tội hiếp dâm được xác định qua hành vi khách quan, bao gồm việc sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực, lợi dụng tình trạng không thể tự vệ của nạn nhân, hoặc áp dụng các thủ đoạn khác để thực hiện hành vi giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân.

Từ những hành vi khách quan nêu trên hành vi khách quan của tội phạm này bao gồm hai dạng hành vi như sau:

Dạng hành vi thứ nhất: Nhà làm luật thể hiện rõ bằng các dạng hành vi sau đây:

Hành vi dùng vũ lực là việc sử dụng sức mạnh vật chất để tác động vào nạn nhân, nhằm làm tê liệt sự kháng cự của họ đối với hành vi giao cấu Các hành vi này có thể bao gồm xô ngã, vật ngã, đánh đập gây thương tích, trói giữ tay chân, bóp cổ, hoặc xé quần áo.

Vụ án Nguyễn Ngọc Hiếu, sinh năm 1984 tại xã Thạch Hà, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An, diễn ra vào chiều ngày 1/12/2013 khi Hiếu làm thuê cho gia đình chị Nguyễn Thị Y Trong lúc làm việc, Hiếu bất ngờ bóp cổ và bịt miệng chị Y để ngăn không cho chị kêu cứu Dù chị Y van xin, Hiếu vẫn tiếp tục hành vi tấn công, bóp ngực chị Y qua áo, và khi chị la lên vì đau, Hiếu đã dùng sức vật chị xuống đất, kéo phăng áo lao động và áo lót của chị, đồng thời đè chân chị Y để thực hiện hành vi xâm hại.

Hành vi đe dọa dùng vũ lực là hành động sử dụng lời nói hoặc hành động để uy hiếp tinh thần nạn nhân, khiến họ cảm thấy sợ hãi và tê liệt ý chí Những đe dọa này có thể bao gồm việc đe dọa giết nạn nhân hoặc người thân của họ, gây thương tích, trả thù, hoặc đốt nhà nếu nạn nhân chống cự Hành vi này buộc nạn nhân phải chấp nhận giao cấu mà không dám phản kháng.

Vụ án gây chấn động tại xã Na Ngoi, huyện Kì Sơn, liên quan đến chị V.Y.L, người đã bị năm thanh niên hiếp dâm tập thể Theo trình báo, vào khoảng 22h ngày 22/3, năm thanh niên lạ mặt đã đến phòng trọ của chị L để chơi và trêu chọc Đến nửa đêm, họ đã kéo chị ra đường với lý do bắt vợ của người Mông Nhóm thanh niên này buộc chị L ngồi lên xe máy và chở chị đến một bãi đất trống cách phòng trọ khoảng 1km Tại đây, mặc dù chị L đã van xin và chống cự, nhưng họ đã dùng dao đe dọa, buộc chị phải chịu đựng hành vi bạo lực này.

- Hành vi lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân

Hành vi lợi dụng nạn nhân là việc thực hiện giao cấu trái ý muốn của họ, thường dựa vào những nhược điểm về thể chất như câm, điếc, hoặc tình trạng tâm thần Điều này có thể xảy ra khi nạn nhân đang ốm đau, mê man, hoặc bất tỉnh do bệnh tật, chẳng hạn như bệnh động kinh Quan trọng là hành vi này không nhất thiết phải sử dụng vũ lực hay đe dọa, nhưng vẫn là một hình thức xâm hại nghiêm trọng.

THỰC TIỄN TỘI HIẾP DÂM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NGHỆ AN

Đặc điểm về tự nhiên, kinh tế xã hội tỉnh Nghệ An

Nghệ An, tỉnh lớn nhất Việt Nam về diện tích tự nhiên, dân số và đơn vị hành chính, nằm ở Bắc Trung Bộ với tọa độ từ 18°33' đến 20°00' Phía Bắc giáp tỉnh Thanh Hóa, phía Nam giáp tỉnh Hà Tĩnh, phía Tây giáp Lào và phía Đông giáp Biển Đông Tỉnh có diện tích 16.487 km² và dân số khoảng 2.915.055 người, bao gồm nhiều dân tộc khác nhau, với 1 thành phố, 3 thị xã và 17 huyện.

Nghệ An, nằm ở phía Đông Bắc dãy Trường Sơn, sở hữu địa hình đa dạng và phức tạp, với các hệ thống sông suối chảy nghiêng từ Tây Bắc xuống Đông Nam Đặc biệt, đồi núi chiếm đến 83% tổng diện tích của tỉnh.

Vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa ở đây có nhiệt độ cao, với mùa đông lạnh giá do gió mùa Đông Bắc và mùa hè nóng bức từ gió phơn Tây Nam Lượng mưa trung bình hàng năm dao động từ 1400-1600 mm, tạo ra nhiều thách thức cho sản xuất và đời sống, đặc biệt là giao thông ở các vùng miền núi khó khăn trong tỉnh, gây ra tình trạng khô hạn, bão lụt và rét đậm.

2.1.2 Đặc điểm kinh tế, xã hội

Trong những năm qua, Nghệ An đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình 9,82%, với sự chuyển dịch tích cực trong cơ cấu kinh tế và sự phát triển toàn diện về xã hội Ngành công nghiệp và xây dựng ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, và tăng thu ngân sách tỉnh Đồng thời, lĩnh vực nông lâm, ngư nghiệp cũng ghi nhận tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 5,26% trong 5 năm qua, trong khi dịch vụ phát triển nhanh chóng.

Theo thống kê năm 2014, tỉnh Nghệ An có tổng dân số đạt 2.915.005 người, trong đó 27% là người dân tộc thiểu số Mật độ dân số tại các huyện miền núi rất thưa thớt, chỉ khoảng 100 người/km².

Tình hình tội phạm, đặc biệt là tội hiếp dâm, tại Nghệ An chịu ảnh hưởng từ các đặc điểm tự nhiên, kinh tế và xã hội của tỉnh Với địa hình phức tạp và dân số phân bố không đều, nhiều huyện miền núi và ven biển gặp khó khăn trong giao thông và điều kiện sống, dẫn đến sự hạn chế trong hiểu biết pháp luật Mặc dù kinh tế xã hội có phát triển, nhưng sự phát triển này không đồng đều, đặc biệt tại các khu vực miền biển và miền núi, nơi tình trạng thất nghiệp cao và công nghiệp chưa phát triển Bên cạnh đó, tại các thành phố và thị xã, sự phát triển kinh tế nhanh chóng cũng kéo theo những vấn đề xã hội, như sự gia tăng của văn hóa phẩm đồi trụy và các địa điểm giải trí không lành mạnh cho giới trẻ.

Các điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội đã tác động đáng kể đến các chủ thể, đặc biệt là đối với người phạm tội, trong đó có tội phạm hiếp dâm.

Tình hình tội phạm hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Nghệ An

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), hàng năm có hơn 150 triệu người trên thế giới trở thành nạn nhân của tội hiếp dâm, với các quốc gia như Ấn Độ, Đức và Anh có tỷ lệ cao Tại Việt Nam, đặc biệt là tỉnh Nghệ An, số vụ án hiếp dâm đã gia tăng đáng kể trong những năm gần đây, thu hút sự chú ý của xã hội và các tổ chức bảo vệ nạn nhân Trong chương 2 của đề tài này, tôi sẽ phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật và xét xử tội hiếp dâm tại tỉnh Nghệ An dựa trên số liệu thu thập từ cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát Nhân dân và Tòa án Nhân dân tỉnh Nghệ An.

Theo thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An, từ năm 2010 đến 2014, số vụ án hiếp dâm tại Nghệ An đã có những diễn biến đáng chú ý.

Bảng 1 Bảng thống kê số vụ án hiếp dâm xảy ra trên địa bàn tỉnh

Năm Số vụ Số bị cáo Số người bị hại

(Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An)

Trong những năm gần đây, tỉnh Nghệ An ghi nhận tình hình tội phạm hiếp dâm ngày càng phức tạp và nguy hiểm, gây hoang mang và bức xúc trong cộng đồng Hệ quả của tội phạm này không chỉ nghiêm trọng đối với nạn nhân mà còn ảnh hưởng lớn đến gia đình và xã hội.

Tội hiếp dâm tại tỉnh Nghệ An đang chứng kiến sự trẻ hóa đáng lo ngại về độ tuổi của các đối tượng phạm tội Nhiều trường hợp cho thấy sự thiếu hiểu biết về pháp luật và tính nông nổi của tuổi trẻ, khi mà nhiều người chỉ nhận thức được hành vi sai trái của mình khi đã bị bắt giữ Điều này cần được chú ý để có biện pháp giáo dục và phòng ngừa hiệu quả.

An, em xin được đưa ra biểu đồ sau:

Biểu đồ thể hiện độ tuổi tội phạm hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn năm 2010 - 2014

(Nguồn: Công An tỉnh Nghệ An)

Qua số liệu trên cho thấy:

 Số lượng bị cáo dưới 18 tuổi chiếm 3, 5%

 Số lượng bị cáo ở độ tuổi từ 18-30 chiếm 50%

 Số lượng bị cáo ở độ tuổi từ 18-30 chiếm 31%

 Số lượng bị cáo ở độ tuổi từ 18-30 chiếm 15 5%

Độ tuổi phạm tội hiếp dâm tại tỉnh Nghệ An chủ yếu là từ 18 đến 30 tuổi, trong khi tỷ lệ người phạm tội chưa thành niên rất thấp Tuy nhiên, các phương tiện thông tin đại chúng cho thấy tỷ lệ tội phạm ở độ tuổi này đang gia tăng qua từng năm, điều này đặt ra một cảnh báo nghiêm trọng cho công tác đấu tranh và phòng chống tội phạm trong tương lai.

Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Nghệ An

Tội phạm hiếp dâm được coi là một trong những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật Hình sự, với những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội Tội phạm này do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do thể chất và tư duy, cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

Trong thời gian qua, công tác phòng, chống tội phạm hiếp dâm đã được nâng cao, nhưng vẫn gặp nhiều vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật Những hạn chế và thiếu sót trong quy định của pháp luật hình sự đã gây khó khăn cho các cơ quan tư pháp trong việc bảo vệ nạn nhân Việc áp dụng các quy định về tội xâm phạm tình dục, đặc biệt là tội hiếp dâm, thường thiếu sự thống nhất và còn phụ thuộc vào cách hiểu của các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án Điều này dẫn đến sự không tương xứng giữa chế tài áp dụng và mức độ nguy hiểm của tội phạm, làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật trong đời sống xã hội.

2.3.1 Hạn chế, thiếu sót trong thực tiễn áp dụng pháp luật quy định về tội hiếp dâm tại Nghệ An

Việc áp dụng các quy định pháp luật liên quan đến tội hiếp dâm tại Nghệ An và trên toàn quốc vẫn gặp nhiều hạn chế và vướng mắc, cả về lý luận pháp luật lẫn các quy định cụ thể.

2.3.1.1 Hạn chế, thiếu sót về mặt nhận thức lý luận pháp luật

Tại Điều 111- Chương XII thuộc BLHS 1999 (sđ, bs 2009) tội hiếp dâm được quy định một cách cụ thể như sau:

1 Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác để giao cấu với nạn nhân mà trái với ý muốn của họ thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm

2 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm a) Có tổ chức b) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; c) Nhiều người hiếp một người; d) Phạm tội nhiều lần; đ) Đối với nhiều người; e) Có tính chất loạn luân; g) Làm nạn nhân có thai; h) Gây tổn hại sức khỏe cho nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; i) Tái phạm nguy hiểm;

3 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình; a) Gây tổn hại sức khỏe cho nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên; b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát;

4 Phạm tội hiếp dâm người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 điều này thì bị xử phạt theo mứ quy định tại khoản đó

5 Người phạm tội có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm

Hành vi hiếp dâm được quy định tại Điều 111, thể hiện một cách độc lập và rõ ràng trong luật Điều luật này mô tả cụ thể về hành vi xâm phạm quyền lợi cá nhân, nhấn mạnh tính chất nghiêm trọng và hậu quả của tội phạm này.

Người sử dụng vũ lực, đe dọa vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ của nạn nhân để thực hiện hành vi giao cấu trái với ý muốn của họ là hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật.

Điều 111 Bộ luật Hình sự không làm rõ định nghĩa về hành vi giao cấu, dẫn đến sự thiếu khách quan và độc lập trong việc xác định tội hiếp dâm.

Khái niệm “giao cấu” theo bản tổng kết số 329/HS2 ngày 11/5/1967 của Tòa án nhân dân tối cao được hiểu là “sự cọ sát dương vật vào bộ phận sinh dục của người phụ nữ”, với chủ thể phạm tội chỉ có thể là nam giới và nạn nhân là nữ giới Tuy nhiên, khoản 1 của điều này lại quy định rằng bất kỳ ai sử dụng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ của nạn nhân đều có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm Sự mâu thuẫn này gây khó khăn trong công tác xét xử và áp dụng pháp luật, không chỉ ở tỉnh Nghệ An mà còn trên toàn quốc.

Hiện nay, tình trạng quan hệ đồng giới nam và đồng giới nữ đang gia tăng, vì vậy cần thiết phải có một văn bản hướng dẫn cụ thể để áp dụng thông báo 329/HS2 Việc này nhằm tránh bỏ sót tội phạm trong các vụ hiếp dâm liên quan đến quan hệ đồng giới.

Thứ hai: Việc xác định ý thức chủ quan của người phạm tội đối với nạn nhân

Mặt chủ quan của tội hiếp dâm thể hiện qua việc thực hiện hành vi với lỗi cố ý hoàn toàn, khi người thực hiện nhận thức được tính nguy hiểm của hành vi đối với xã hội Tuy nhiên, việc xác định ý thức chủ quan của người phạm tội đối với nạn nhân là một vấn đề phức tạp, đặc biệt trong các trường hợp mà nạn nhân có sự đồng ý tự nguyện.

Mặc dù có sự đồng thuận trong việc "dâng hiến" và "tình ngay", nhưng vẫn có trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm Hiện tại, vấn đề này đang gây ra nhiều tranh cãi với hai quan điểm xử lý chính được đưa ra.

Quan điểm đầu tiên cho rằng việc xác định dấu hiệu pháp lý của mặt khách quan là đủ, mà không cần phải xem xét "lỗi" của người thực hiện hành vi phạm tội.

Quan điểm thứ hai nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xác định các dấu hiệu pháp lý của hành vi khách quan, đồng thời cũng cần xem xét "lỗi" của người phạm tội Việc này bao gồm việc xác minh rõ ràng liệu nạn nhân có đồng ý hay không trong tình huống xảy ra.

Thực tiễn xét xử tội phạm hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Nghệ An (2010-2014)

Giai đoạn 2010-2014 đánh dấu sự áp dụng của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003, trong bối cảnh Nhà nước thúc đẩy cải cách tư pháp Các tòa án nhân dân đã áp dụng các quy định pháp luật mới, giúp xác định rõ thẩm quyền xét xử và nâng cao hiệu quả công tác xét xử của tòa án cấp huyện so với giai đoạn trước đó.

2.4.1 Thực trạng công tác xét xử tội phạm hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Nghệ An (2010-2014)

Thực trạng xét xử tội hiếp dâm tại tỉnh Nghệ An phản ánh năng lực của các Tòa án nhân dân trong khu vực Năng lực này được thể hiện qua các khía cạnh khác nhau của quá trình xét xử tại các TAND trên địa bàn tỉnh.

Thứ nhất: Thực trạng về cơ cấu tổ chức bộ máy xét xử của các tòa án nhân dân

 Tòa án nhân dân cấp huyện

Theo quy định pháp luật, tòa án nhân dân cấp huyện bao gồm chánh án, một hoặc hai phó chánh án, các thẩm phán, hội thẩm nhân dân và thư ký tòa án.

Tòa án nhân dân cấp huyện đang phải đối mặt với nhiều thách thức trong việc xét xử các vụ án dân sự và hình sự, đặc biệt là tội phạm hiếp dâm Sự hạn chế về trình độ chuyên môn của các thẩm phán, đặc biệt tại các tòa án miền núi như Con Cuông, Kỳ Sơn, và Anh Sơn, với nhiều thẩm phán chỉ có trình độ trung cấp pháp lý, đã ảnh hưởng đến chất lượng xét xử Việc xử lý đồng thời nhiều vụ việc khác nhau có thể dẫn đến sự thiếu chính xác và công minh trong quá trình áp dụng pháp luật.

Thứ hai: Chất lượng xét xử các vụ án hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Nghệ An

Theo kết quả thu thập số liệu, các tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đã duy trì chất lượng xét xử cao, với tỷ lệ vụ án được giải quyết cao và ít quyết định bị kháng cáo hoặc kháng nghị Điều này phản ánh năng lực thực tiễn trong xét xử sơ thẩm và các vụ án dân sự của các tòa án tại tỉnh Nghệ An.

Thứ 3: Thực trạng về cơ sở vật chất của các tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Nghệ An

Cơ sở vật chất và điều kiện làm việc của tòa án nhân dân, đặc biệt ở các huyện miền núi, đang gặp nhiều khó khăn Tại tỉnh Nghệ An, khảo sát cho thấy các tòa án thiếu thốn trang thiết bị và không gian làm việc chật chội, nhiều trụ sở còn tạm bợ và xuống cấp Một ví dụ điển hình là tại một tòa án huyện miền núi phía tây Nghệ An, nơi không có ghế ngồi cho người tham dự phiên tòa Những hạn chế này không chỉ ảnh hưởng đến điều kiện làm việc mà còn làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật.

Thứ tư: Về cơ chế pháp lý ảnh hưởng đến năng lực xét xử của tòa án nhân dân

Hệ thống pháp luật Việt Nam đang trong quá trình cải cách để phù hợp với sự thay đổi trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, dẫn đến nhiều vấn đề mới mẻ chưa được pháp luật điều chỉnh kịp thời Điều này ảnh hưởng đáng kể đến năng lực xét xử của các tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An.

Hội đồng xét xử các vụ án hiếp dâm tại các tòa án nhân dân cấp huyện chủ yếu có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân, đa số chỉ có bằng trung cấp pháp lý và học hỏi thêm trong quá trình làm việc Chỉ một số tòa án như Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An và Tòa án nhân dân thành phố Vinh mới có thẩm phán tốt nghiệp cử nhân luật chính quy Kiến thức pháp lý hạn chế của Hội thẩm nhân dân khiến họ thường chỉ đóng vai trò hình thức, trong khi mọi quyết định đều thuộc về thẩm phán Điều này ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng xét xử các vụ án hiếp dâm và nguyên tắc độc lập trong quá trình xét xử.

Tại các phiên tòa xét xử tội phạm hiếp dâm ở tỉnh Nghệ An, hầu hết các tòa án nhân dân đã tuân thủ nghi thức phiên tòa một cách đầy đủ Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số hạn chế, đặc biệt là việc xưng hô của đương sự không đúng quy định.

Khi đương sự không tuân thủ các quy tắc xưng hô trong phiên tòa, như không nói "thưa Hội đồng xét xử" hoặc "thưa quý tòa" mà chỉ dùng "thưa ông", "thưa bà", điều này có thể dẫn đến sự lúng túng trong việc giao tiếp Nếu những nghi thức này không được giải thích rõ ràng, người tham gia tố tụng sẽ gặp khó khăn trong việc xưng hô, và cán bộ thi hành công tác xét xử cũng có thể sử dụng cách xưng hô tùy tiện Hành động này làm giảm đi tính uy nghiêm của Nhà nước trong công tác xét xử.

Sự tham gia của luật sư tại các phiên tòa hiếp dâm là rất quan trọng nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, nhất là khi tội hiếp dâm có khung hình phạt nghiêm khắc Tuy nhiên, tình trạng "án tại hồ sơ" diễn ra phổ biến do người dân thiếu hiểu biết về pháp luật, dẫn đến việc mời luật sư tham gia bảo vệ quyền lợi rất ít Khi luật sư có mặt, vai trò của họ thường mờ nhạt, và nhiều phiên tòa chỉ công bố bản án đã được định sẵn, làm cho sự tham gia của luật sư trở nên vô nghĩa Hệ quả là quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự không được đảm bảo, và nhiều người không nhận ra hoặc không biết cách bảo vệ quyền lợi của mình khi bị xâm hại.

Thứ năm: Thực trạng về sự phối hợp của các tòa án nhân dân với cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan bổ trợ tư pháp

Quan hệ giữa tòa án nhân dân và cơ quan điều tra trong lĩnh vực tố tụng hình sự là rất quan trọng, đặc biệt trong các vụ án liên quan đến tội phạm hiếp dâm Để nâng cao hiệu quả xét xử, cần tăng cường sự phối hợp và liên kết chặt chẽ hơn giữa hai cơ quan này.

Trong hoạt động của mình, các tòa án nhân dân duy trì mối quan hệ chặt chẽ với các viện kiểm sát, góp phần ngăn chặn và khắc phục sai lầm trong quá trình điều tra và thu thập chứng cứ Mối quan hệ này cũng giúp xác định thẩm quyền xét xử và bảo đảm quyền lợi hợp pháp của những người tham gia tố tụng trong phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự.

Trong các vụ án hiếp dâm, việc thu thập chứng cứ và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các đương sự là rất cần thiết Do đó, hiệu quả hoạt động của các cơ quan bổ trợ tư pháp đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các tòa án nhân dân thực hiện chức năng xét xử và nâng cao năng lực xét xử.

2.4.1.1 Kết quả của công tác xét xử tội phạm hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Nghệ An

Theo báo cáo của TAND tỉnh Nghệ An ngày 31/12/2014 thì trong 5 năm

(2010 - 2014) công tác xét xử tội phạm hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Nghệ An như sau:

Bảng 2: Thống kê tình hình xét xử tội phạm hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Nghệ

Số vụ án thụ lý 4 4 5 13 6

Số quyết định đình chỉ 0 1 0 0 1

Số vụ án đã giải quyết 4 3 5 13 5

(Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An)

Tình hình xét xử tội phạm hiếp dâm tại tỉnh Nghệ An cho thấy số lượng vụ án hiếp dâm tăng dần qua các năm, phản ánh mức độ phức tạp ngày càng cao của các vụ án này Mặc dù vậy, các tòa án nhân dân tại Nghệ An đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, giải quyết nhanh chóng và hiệu quả, đạt được nhiều thành tựu đáng kể.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ XÉT XỬ TỘI HIẾP DÂM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NGHỆ AN

Ngày đăng: 25/08/2021, 15:43

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w