1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Thực trạng ly hôn trên địa bàn thị xã hoàng mai, tỉnh nghệ an

63 41 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Thực Trạng Ly Hôn Trên Địa Bàn Thị Xã Hoàng Mai, Tỉnh Nghệ An
Tác giả Nguyễn Thị Quế
Người hướng dẫn Nguyễn Thị Phương Thảo
Trường học Trường Đại Học Vinh
Chuyên ngành Luật Tư Pháp
Thể loại Khóa Luận Tốt Nghiệp
Năm xuất bản 2015
Thành phố Nghệ An
Định dạng
Số trang 63
Dung lượng 0,91 MB

Cấu trúc

  • A. MỞ ĐẦU (7)
    • 1. Tính cấp thiết của đề tài (7)
    • 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu (8)
    • 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (0)
    • 4. Phương pháp nghiên cứu (9)
    • 5. Ý nghĩa nghiên cứu đề tài (10)
    • 6. Kết cấu của đề tài (10)
  • B. NỘI DUNG (11)
  • Chương 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ LY HÔN (11)
    • 1.1. Khái niệm (11)
      • 1.1.1. Khái niệm ly hôn (11)
      • 1.1.2. Chế định ly hôn của một số nước trên thế giới (16)
    • 1.2. Quyền yêu cầu ly hôn (19)
    • 1.3. Các trường hợp ly hôn (23)
      • 1.3.1. Thuận tình ly hôn (23)
      • 1.3.2. Ly hôn theo yêu cầu của một bên (25)
    • 1.4. Hậu quả pháp lý của ly hôn (29)
      • 1.4.1. Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng (29)
      • 1.4.2. Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn (30)
      • 1.4.3. Giải quyết cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn (35)
      • 1.4.4. Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ và con sau khi ly hôn (36)
  • Chương 2. THỰC TRẠNG LY HÔN TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ HOÀNG MAI, TỈNH NGHỆ AN (38)
    • 2.1. Thực trạng ly hôn trên địa bàn thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An (38)
      • 2.1.1. Khái quát về thị xã Hoàng Mai (38)
      • 2.1.2. Thực trạng ly hôn trên địa bàn thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An (40)
      • 2.2.1. Tính tình không hợp (46)
      • 2.2.2. Khó khăn về kinh tế (47)
      • 2.2.3. Bị đánh đập, ngược đãi (48)
      • 2.2.4. Một bên vợ hoặc chồng ngoại tình hoặc nghi ngờ ngoại tình (49)
      • 2.2.5. Mâu thuẫn gia đình (50)
      • 2.2.6. Nguyên nhân khác (51)
  • Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ VẤN ĐỀ LY HÔN TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ HOÀNG MAI, TỈNH NGHỆ AN (53)
    • 3.1. Những tác động của việc ly hôn đến đời sống xã hội ở thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An (53)
      • 3.1.1. Những tác động tích cực (53)
      • 3.1.2. Những tác động tiêu cực (53)
    • 3.2. Một số giải pháp nhằm hạn chế tình trạng ly hôn hiện nay (54)
      • 3.2.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật (55)
      • 3.2.2. Phổ biến tuyên truyền giáo dục pháp luật về hôn nhân và gia đình (57)
      • 3.2.3. Đẩy mạnh phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân (57)
      • 3.2.4. Tuyên truyền kiến thức về cuộc sống gia đình, sức khỏe sinh sản vị thành niên (58)
      • 3.2.5. Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị , các ban ngành đoàn thể các tổ chức hòa giải cơ sở (58)
      • 3.2.6. Đẩy mạnh công tác xây dựng gia đình văn hóa, phường văn hóa (59)
    • 3.3. Một số kiến nghị (59)
    • C. KẾT LUẬN (62)

Nội dung

NỘI DUNG

LÝ LUẬN CHUNG VỀ LY HÔN

Ly hôn là một vấn đề phức tạp trong quan hệ hôn nhân gia đình, với các quy định và quan điểm khác nhau giữa các quốc gia Tại Việt Nam, quan điểm về ly hôn đã có sự thay đổi qua từng thời kỳ.

Ly hôn, một biện pháp chấm dứt hôn nhân, đã được công nhận từ lâu trong luật pháp Việt Nam Theo Bộ Quốc triều hình luật, việc ly hôn phản ánh các quy định và tục lệ cổ truyền, thể hiện sự phát triển của hệ thống pháp lý trong xã hội.

Điều 308 quy định rằng nếu chồng bỏ vợ 5 tháng mà không có lý do chính đáng, vợ có quyền ly hôn, và nếu có con thì thời gian này là một năm Việc ly hôn cũng có thể diễn ra theo sự thuận tình của cả hai bên, thông qua việc lập văn thư thể hiện ý chí chấm dứt cuộc sống chung, có hiệu lực khi chồng ký và vợ điểm chỉ mà không cần sự can thiệp của cơ quan Nhà nước Điều này cho thấy ly hôn được coi là biện pháp chế tài cho những vi phạm nghĩa vụ của chồng đối với vợ và gia đình.

Ly hôn theo Bộ luật Gia Long Điều 108 có tính chất chế tài đối với người chồng, tương tự như quy định trong luật thời Lê Điều này cho phép người vợ chấm dứt quan hệ hôn nhân và kết hôn với người khác nếu chồng mất tích do loạn lạc Cụ thể, nếu chồng bỏ trốn và biệt tăm trong ba năm, vợ cũng có quyền rời bỏ mối quan hệ mà không cần nộp đơn.

LÝ LUẬN CHUNG VỀ LY HÔN

Khái niệm

Ly hôn là một vấn đề phức tạp trong quan hệ hôn nhân gia đình, với các quy định và quan điểm khác nhau ở mỗi quốc gia Tại Việt Nam, quan điểm về ly hôn đã có sự thay đổi theo từng thời kỳ.

Ly hôn, một biện pháp chấm dứt hôn nhân, đã được thừa nhận từ rất sớm trong luật pháp Việt Nam, theo Bộ Quốc triều hình luật Luật cổ và tục lệ cổ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc quy định các vấn đề liên quan đến hôn nhân và gia đình.

Theo điều 308, nếu chồng bỏ vợ trong 5 tháng mà không có liên lạc, vợ có quyền yêu cầu ly hôn, và nếu có con thì thời gian này kéo dài một năm Việc ly hôn cũng được công nhận khi cả hai vợ chồng đồng thuận, thông qua việc lập văn thư thể hiện ý chí chấm dứt cuộc sống chung, mà không cần sự can thiệp của cơ quan Nhà nước Điều luật này, mặc dù chưa hoàn thiện, vẫn phản ánh thực tiễn về việc bảo vệ quyền lợi của người vợ và gia đình trước hành vi vi phạm của chồng.

Ly hôn theo Bộ luật Gia Long Điều 108 có tính chất chế tài đối với người chồng, cho phép vợ chấm dứt hôn nhân để kết hôn với người khác nếu chồng mất tích do loạn lạc Nếu chồng bỏ trốn trong ba năm mà vợ không nộp đơn cho Tòa án, vợ sẽ bị phạt Ly hôn thuận tình được phép khi vợ chồng không hợp tính tình, nhưng do chế độ gia trưởng thời Nguyễn, vai trò của đàn ông áp đảo phụ nữ, khiến ly hôn thuận tình trở thành một khái niệm không phù hợp với tư duy pháp lý thời bấy giờ Trong thực tế, hầu hết các trường hợp ly hôn thuận tình đều là quyết định của chồng, trong khi vợ chỉ chấp nhận hoặc cam chịu.

Trong thời kỳ thuộc địa, luật ly hôn tại Việt Nam được xây dựng theo khuôn mẫu của Pháp, nhưng vẫn bảo vệ quyền lợi của người chồng, như quy định trong Dân Luật giản yếu và Bộ luật Dân sự Quyết định ly hôn thuộc thẩm quyền của Tòa án trong các trường hợp luật định Đáng chú ý, luật Việt Nam thừa nhận ly hôn theo sự thuận tình của cả hai vợ chồng, điều mà luật Pháp không công nhận Ngoài ra, Dân luật giản yếu cũng ghi nhận quyền xin ly hôn trong trường hợp một bên vợ hoặc chồng bị mất tích, tương tự như quy định trong Bộ luật Gia Long.

Quyền xin ly hôn được công nhận cho cả vợ và chồng, tuy nhiên, có sự khác biệt trong lý do xin ly hôn Cụ thể, người vợ không thể xin ly hôn dựa trên lý do chồng ngoại tình, trong khi đó, người chồng lại có quyền làm điều này nếu vợ ngoại tình.

Khi vợ ly hôn, cô ấy có quyền mang theo quần áo, tư trang và đồ dùng cá nhân Việc phân chia tài sản có giá trị lớn sẽ dựa trên các thỏa thuận trong hôn ước hoặc theo quy định pháp luật nếu không có hôn ước Các quy định về phân chia tài sản sau ly hôn sẽ khác nhau tùy thuộc vào việc có con hay không và liệu người vợ có ngoại tình hay không Con cái trong gia đình được hiểu là con của chồng, không phân biệt nguồn gốc, trong khi luật thời thuộc địa không tính đến con riêng của vợ Quyền nuôi con thường được ưu tiên giao cho người cha, trừ khi giao cho mẹ hoặc người thứ ba là tốt hơn cho lợi ích của trẻ Trẻ từ 15 tuổi có thể chọn sống với cha hoặc mẹ theo nguyện vọng của mình.

Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, ly hôn đã được nhìn nhận như một biện pháp giải phóng phụ nữ khỏi sự ràng buộc của chế độ hôn nhân phong kiến Sắc lệnh số 159-SL ngày 17/11/1950 là văn bản đầu tiên quy định về ly hôn, mặc dù ngắn gọn và thiếu nhiều quy tắc cần thiết, nhưng đã thể hiện rõ chủ trương xóa bỏ hệ thống pháp lý bất bình đẳng giữa nam và nữ Sắc lệnh này thừa nhận quyền ly hôn trong các trường hợp như lỗi của một bên, bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo, và cả sự thuận tình giữa vợ chồng để chấm dứt cuộc sống chung Các quy định ly hôn trong Sắc lệnh được xây dựng dựa trên nguyên tắc tham khảo từ thực tiễn.

Năm 1959, luật pháp Việt Nam bắt đầu xây dựng chế độ ly hôn mới dựa trên tư tưởng chủ đạo cho phép ly hôn khi "tình trạng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được" (Điều 26 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959) Chế độ ly hôn mới phân loại các trường hợp ly hôn dựa trên ý chí của cả hai vợ chồng hoặc một trong hai người, thay vì dựa vào tính chất và đặc điểm của sự kiện gây ra sự tan vỡ như trước đây.

Trong thời kỳ đất nước chia đôi, luật pháp miền Nam từng áp dụng lệnh cấm ly hôn do lý do tôn giáo, nhưng quy định này không tồn tại lâu dài.

Từ năm 1964 cho đến khi hệ thống luật của chế độ Sài Gòn bị bãi bỏ, việc ly hôn ở miền Nam bị chi phối bởi quy tắc kết hợp giữa luật thời kỳ thuộc địa và luật Pháp, trong đó đặc biệt chú trọng bảo vệ quyền lợi của người chồng.

Sau khi đất nước thống nhất, pháp luật về ly hôn đã được hoàn thiện dựa trên quan niệm từ Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 Ban đầu, chế định ly hôn tập trung vào việc giải phóng phụ nữ, nhưng sau đó, sự phát triển của chế định này ngày càng được thúc đẩy bởi nhu cầu bảo vệ sự phát triển của trẻ em trong môi trường gia đình không hạnh phúc Yêu cầu này được thể hiện rõ trong Luật hôn nhân và gia đình năm 1986, được củng cố trong Luật năm 2000 và mới nhất là Luật năm 2014.

14 Điều 3 quy định: “Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của tòa án”

Ly hôn là một khía cạnh quan trọng trong quan hệ hôn nhân, phản ánh sự tan vỡ của mối quan hệ vợ chồng Mặc dù ly hôn là hiện tượng bất bình thường, nhưng nó cần thiết để giải phóng các bên khỏi xung đột và mâu thuẫn trong cuộc sống chung Theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, quyền yêu cầu ly hôn thuộc về vợ, chồng hoặc cả hai, nhằm chấm dứt quan hệ hôn nhân Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã mở rộng quyền yêu cầu ly hôn cho cha, mẹ và người thân trong trường hợp một bên không thể nhận thức do bệnh tật hoặc bị bạo lực gia đình Tòa án nhân dân là cơ quan có thẩm quyền xét xử ly hôn, đảm bảo quyền tự do hôn nhân và ly hôn cho các bên liên quan.

Pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa công nhận quyền tự do ly hôn chính đáng của vợ chồng, không thể cấm hoặc hạn chế quyền này Ly hôn dựa trên sự tự nguyện và là kết quả của ý chí của cả hai bên khi thực hiện quyền của mình Nhà nước không thể ép buộc nam nữ phải yêu nhau hay duy trì hôn nhân khi tình cảm đã hết Việc giải quyết ly hôn là cần thiết khi quan hệ hôn nhân đã tan vỡ, mang lại lợi ích cho vợ chồng, con cái và gia đình Theo Lênin, tự do ly hôn không làm tan rã mối liên hệ gia đình mà củng cố nó trên cơ sở dân chủ Quyền tự do ly hôn là quyền chính đáng và bình đẳng giữa vợ chồng, và việc thừa nhận quyền này cho phụ nữ không có nghĩa là khuyến khích họ rời bỏ chồng.

Nhà nước bảo hộ hôn nhân và đảm bảo quyền tự do ly hôn của vợ chồng không có nghĩa là cho phép ly hôn tùy ý, mà phải tuân theo quy định của pháp luật Việc giải quyết ly hôn cần được kiểm soát bởi Nhà nước, vì trong mối quan hệ hôn nhân không chỉ có lợi ích cá nhân của vợ chồng mà còn liên quan đến lợi ích của Nhà nước và xã hội Gia đình, với vai trò là tế bào của xã hội, cùng với lợi ích của con cái, là những yếu tố quan trọng cần được bảo vệ và xem xét khi giải quyết các vấn đề hôn nhân.

Quyền yêu cầu ly hôn

Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, quyền yêu cầu ly hôn được quy định như sau: Vợ, chồng hoặc cả hai có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn Ngoài ra, cha, mẹ và người thân có quyền yêu cầu Tòa án can thiệp khi một bên vợ, chồng mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác, không thể làm chủ hành vi của mình và là nạn nhân của bạo lực gia đình, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe và tinh thần của họ.

So với Luật HNGĐ năm 2000, Luật HNGĐ năm 2014 đã mở rộng quyền yêu cầu ly hôn Theo Điều 51, khoản 2, cha, mẹ và người thân thích có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác không thể làm chủ hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình Quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi cho những người không thể tự yêu cầu ly hôn do tình trạng sức khỏe, điều mà Luật HNGĐ năm 2000 chưa xem xét Việc không cho phép những người này thoát khỏi cuộc hôn nhân bạo lực có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tinh thần và sức khỏe của họ.

Quyền yêu cầu ly hôn là quyền hợp pháp của vợ và chồng, nhưng theo Khoản 3 Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, quyền này bị hạn chế Cụ thể, chồng không được yêu cầu ly hôn khi vợ đang mang thai, sinh con hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

Theo Điều 51, người chồng không được quyền yêu cầu ly hôn khi vợ đang mang thai, sinh con hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi Luật chỉ quy định về tình trạng của vợ mà không phân biệt cha của đứa trẻ, do đó, trong trường hợp này, chồng không có quyền yêu cầu ly hôn.

Nếu vợ đang mang thai, sinh con hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi, và chồng yêu cầu ly hôn, việc giải quyết sẽ được tiến hành theo quy định pháp luật.

Nếu vụ án chưa được thụ lý, Toà án sẽ căn cứ vào Khoản 24 Điều 1 của Bộ Luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 để trả lại đơn kiện cho người nộp đơn.

Trong trường hợp đã thụ lý vụ án, Toà án cần thông báo cho người nộp đơn rằng họ chưa có quyền yêu cầu ly hôn Nếu người nộp đơn rút đơn yêu cầu, Toà án sẽ căn cứ vào Khoản 31 Điều 1 Bộ Luật Tố tụng Dân sự sửa đổi bổ sung năm 2011 để đình chỉ việc giải quyết vụ án Ngược lại, nếu người nộp đơn không rút đơn, Toà án sẽ tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung và bác yêu cầu ly hôn của họ.

Trong trường hợp người vợ mang thai nhưng bị sảy thai, hoặc sau khi sinh con mà đứa trẻ không sống sót, người chồng vẫn có quyền ly hôn mà không bị hạn chế.

Quy định này chỉ áp dụng hạn chế yêu cầu ly hôn đối với người chồng, không áp dụng cho người vợ Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, như khi người vợ đang mang thai, sinh con hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi, nếu tình cảm giữa vợ chồng đã hết và mâu thuẫn gia đình sâu sắc, Tòa án vẫn sẽ xem xét yêu cầu ly hôn của người vợ Điều này thể hiện tính nhân văn và tiến bộ trong pháp luật Việt Nam, bảo vệ quyền lợi của trẻ em và phụ nữ, những đối tượng yếu thế trong xã hội.

Phân tích các khía cạnh của quy định hạn chế yêu cầu ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cho thấy rằng quy định này không chỉ mang ý nghĩa pháp lý quan trọng mà còn thể hiện giá trị đạo đức sâu sắc trong xã hội.

- Trong giai đoạn vợ đang mang thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới

Khi trẻ được 12 tháng tuổi, người mẹ thường trải qua giai đoạn tâm lý bất ổn và cần sự chăm sóc, quan tâm Trong thời gian này, khả năng lao động của người mẹ bị hạn chế, thậm chí có thể không thể tạo ra thu nhập Do đó, sự hỗ trợ kinh tế từ người chồng là rất quan trọng Việc chồng nộp đơn ly hôn trong giai đoạn này có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tâm lý và cuộc sống của người mẹ.

Quy định này được thiết lập nhằm bảo vệ quyền lợi của bà mẹ, trẻ em, phụ nữ mang thai và thai nhi, nhấn mạnh rằng sinh đẻ là trách nhiệm chung của cả hai vợ chồng, không chỉ riêng người vợ Sinh đẻ cũng được coi là chức năng xã hội của gia đình, do đó, cần nhận thức rõ trách nhiệm chung này để giải quyết vấn đề ly hôn một cách hợp lý, đảm bảo quyền lợi cho phụ nữ và trẻ em, đồng thời bảo vệ lợi ích của gia đình và xã hội.

Quy định hạn chế quyền yêu cầu ly hôn thể hiện nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em trong luật hôn nhân và gia đình Nguyên tắc này không chỉ mang tính chất quốc gia mà còn mang tính toàn cầu, nhằm bảo vệ phụ nữ có thai và thai nhi.

Các trường hợp ly hôn

Thuận tình ly hôn là tình huống mà cả hai vợ chồng đồng ý chấm dứt hôn nhân, thể hiện qua việc nộp đơn thuận tình ly hôn.

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định tại Điều 55 về thuận tình ly hôn tương tự như Điều 90 của luật năm 2000 Cụ thể, khi vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn và chứng minh được sự tự nguyện, cũng như đã thỏa thuận về việc chia tài sản và nuôi dưỡng con cái, Tòa án sẽ công nhận thuận tình ly hôn Tuy nhiên, nếu không đạt được thỏa thuận hoặc thỏa thuận không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con, Tòa án sẽ can thiệp để giải quyết việc ly hôn.

Việc chấm dứt hôn nhân thông qua ly hôn phải được thực hiện tại tòa án nhân dân, theo quy định của pháp luật về thuận tình ly hôn, nhằm công nhận và bảo vệ quyền tự do ly hôn hợp pháp của cả hai vợ chồng.

Khi giải quyết ly hôn theo yêu cầu thuận tình, cần lưu ý rằng sự tự nguyện của cả hai vợ chồng không phải là yếu tố quyết định chấm dứt hôn nhân Trong khi kết hôn, sự tự nguyện là cơ sở xác lập quan hệ vợ chồng, thì trong trường hợp thuận tình ly hôn, nó chỉ là căn cứ để tòa án tiến hành giải quyết.

Mặc dù Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và Luật HNGĐ năm 2014 đều quy định về thuận tình ly hôn, nhưng có sự khác biệt trong cách hiểu Luật HNGĐ năm 2000 yêu cầu phải có căn cứ ly hôn theo Điều 89, tức là tòa án chỉ chấp nhận yêu cầu ly hôn khi tình trạng hôn nhân trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, và mục đích hôn nhân không đạt được Ngược lại, Luật HNGĐ năm 2014 không quy định rõ về căn cứ này, dẫn đến cách hiểu khác nhau về thuận tình ly hôn giữa hai luật.

Vào năm 2014, quy định về thuận tình ly hôn đã được thay đổi, cho phép các cặp đôi ly hôn mà không cần phải cung cấp các căn cứ cụ thể Điều này chỉ áp dụng trong trường hợp một bên yêu cầu ly hôn.

Theo Điều 55 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, trong trường hợp thuận tình ly hôn, vợ chồng cần có sự tự nguyện và thỏa thuận về việc chia tài sản cũng như việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con cái Sự thỏa thuận này phải đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ và con Nếu vợ chồng không đạt được thỏa thuận hoặc thỏa thuận không đảm bảo quyền lợi, tòa án sẽ can thiệp và đưa ra quyết định.

Về trình tự, thủ tục thuận tình ly hôn

Khi vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, tòa án sẽ tiến hành hòa giải Nếu hòa giải không thành công, tòa sẽ lập biên bản về việc ly hôn tự nguyện và hòa giải không thành Trong vòng 07 ngày kể từ ngày lập biên bản, nếu không có thay đổi ý kiến từ vợ, chồng hoặc viện kiểm sát không phản đối, tòa án sẽ ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn mà không cần mở phiên tòa, với đầy đủ các điều kiện cần thiết.

- Hai bên thật sự tự nguyện ly hôn;

- Hai bên đã thỏa thuận được với nhau về việc chia hoặc không chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con;

Sự thỏa thuận giữa hai bên về tài sản và con cái trong từng trường hợp cụ thể là rất quan trọng, nhằm đảm bảo tính tự nguyện và tự thỏa thuận, đồng thời bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ chồng và đặc biệt là quyền lợi của các con.

Quyết định công nhận thuận tình ly hôn sẽ có hiệu lực pháp luật ngay lập tức, và các bên liên quan không có quyền kháng cáo Ngoài ra, Viện kiểm sát cũng không có quyền kháng nghị theo trình tự phúc thẩm.

Nếu hòa giải tại Tòa án không đáp ứng đủ các điều kiện cần thiết, Tòa án sẽ lập biên bản ghi nhận việc hòa giải không thành công, nêu rõ các vấn đề chưa đạt được thỏa thuận hoặc thỏa thuận không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con Sau đó, Tòa án sẽ tiến hành mở phiên xét xử vụ án ly hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 cùng các văn bản pháp luật liên quan.

Trong những năm gần đây, đã xuất hiện tình trạng xin thuận tình ly hôn giả tạo, lừa dối cơ quan pháp luật để mưu cầu lợi ích cá nhân Những trường hợp này thường tự tạo ra mâu thuẫn và lý do ly hôn có vẻ hợp lý nhưng thực chất không muốn chấm dứt quan hệ vợ chồng Nếu không được điều tra kỹ lưỡng, tòa án có thể kết luận rằng có đủ căn cứ để công nhận thuận tình ly hôn, từ đó tạo điều kiện cho các mục đích như chuyển hộ khẩu, nhận phụ cấp, lấy vợ lẽ, hoặc tẩu tán tài sản Do đó, tòa án cần xem xét và bác đơn xin ly hôn trong những trường hợp này, đồng thời áp dụng các biện pháp xử lý phù hợp và giáo dục, thuyết phục các đương sự để tránh vi phạm pháp luật.

1.3.2 Ly hôn theo yêu cầu của một bên

Ly hôn theo yêu cầu của một bên xảy ra khi chỉ có một trong hai vợ chồng đề nghị chấm dứt quan hệ hôn nhân.

Tòa án xem xét giải quyết ly hôn theo yêu cầu của một bên khi có một trong hai căn cứ sau:

* Vợ chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ vủa vợ chồng

Bạo lực gia đình là một vấn đề xã hội nghiêm trọng, tác động tiêu cực đến cuộc sống của nhiều người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em.

Theo Luật Phòng chống bạo lực gia đình, bạo lực gia đình được định nghĩa là hành vi cố ý của một thành viên trong gia đình gây tổn hại về thể chất, tinh thần hoặc kinh tế cho các thành viên khác.

Hậu quả pháp lý của ly hôn

Ly hôn có ảnh hưởng sâu sắc đến lợi ích của vợ, chồng, gia đình và xã hội Từ góc độ pháp luật, việc tòa án giải quyết ly hôn dẫn đến các hậu quả pháp lý như chấm dứt quan hệ vợ chồng, phân chia tài sản, cấp dưỡng cho bên gặp khó khăn và giải quyết vấn đề con cái Do đó, tòa án cần thận trọng để đưa ra quyết định đúng đắn Bên cạnh đó, các cơ quan nhà nước cần thực hiện các biện pháp nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực của ly hôn đến gia đình và xã hội.

1.4.1 Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng

Khi bản án ly hôn của Tòa án có hiệu lực, quan hệ vợ chồng chấm dứt, và cả hai bên đều có quyền kết hôn với người khác Tất cả quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng sẽ hoàn toàn chấm dứt, bất kể có thỏa thuận hay không Điều này bao gồm các nghĩa vụ như yêu thương, chăm sóc, và chung thủy, cũng như quyền đại diện cho nhau trong thời kỳ hôn nhân Tuy nhiên, một số quyền nhân thân khác của vợ chồng với tư cách công dân vẫn không bị ảnh hưởng bởi việc ly hôn.

Trong xã hội hiện đại, nhiều cặp vợ chồng đã ly hôn và có phán quyết của Tòa án, nhưng sau đó lại quyết định tái hợp và sống chung mà không thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật.

Sau một thời gian chung sống và có con cùng tài sản chung, nếu vợ chồng yêu cầu ly hôn, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn rằng Tòa án sẽ không giải quyết việc ly hôn trong trường hợp này Nếu vợ chồng đã ly hôn và phán quyết của Tòa án có hiệu lực, khi tái hôn, họ vẫn phải thực hiện đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật (theo Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014).

1.4.2 Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn

Việc chia tài sản khi ly hôn là một vấn đề phức tạp, thường dẫn đến tranh chấp giữa vợ chồng Khi không thể thỏa thuận, Tòa án sẽ điều tra quan hệ tài sản của họ, xác định tài sản riêng và chung, cũng như nguồn gốc, giá trị và tình trạng tài sản Tòa án sẽ xem xét công sức đóng góp của mỗi bên và áp dụng nguyên tắc tại Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 để đảm bảo sự công bằng và hợp lý trong việc chia tài sản.

Theo Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, việc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn trước tiên do các bên tự thỏa thuận; nếu không đạt được thỏa thuận, Tòa án sẽ can thiệp Sự thỏa thuận này phải tuân thủ nguyên tắc của luật hôn nhân và gia đình Trái với quy định tại Điều 42 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986, yêu cầu sự công nhận của Tòa án đối với thỏa thuận chia tài sản đã không còn trong quy định mới, nhấn mạnh quyền tự định đoạt của vợ chồng.

Nếu vợ chồng không đạt được thỏa thuận, họ có thể yêu cầu Tòa án can thiệp Trong thực tế, việc tự thỏa thuận hoặc được Tòa án hướng dẫn để dàn xếp dưới sự giám sát của TAND thường hiệu quả hơn, giúp giảm mâu thuẫn sau ly hôn Giống như các vụ kiện dân sự khác, hòa giải thành công tại Tòa án mang lại lợi ích trong việc giải quyết tranh chấp, bảo đảm pháp luật và sự đoàn kết trong cộng đồng, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc thi hành án Nếu không có thỏa thuận, Tòa án sẽ quyết định theo quy định tại Điều 59, 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 Tài sản riêng của vợ chồng sẽ thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ khi đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật.

Sau khi ly hôn, chồng có quyền lấy tài sản riêng của mình về Tuy nhiên, để chứng minh đó là tài sản riêng, người sở hữu cần có chứng nhận từ vợ cũ hoặc giấy tờ xác nhận quyền sở hữu.

Khi chia tài sản riêng của vợ chồng có tranh chấp, cần lưu ý đến việc trộn lẫn giữa tài sản chung và tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân Nếu vợ chồng tự nguyện nhập tài sản riêng vào tài sản chung hoặc sử dụng tài sản riêng cho gia đình, người sở hữu tài sản riêng không có quyền đòi lại Trong trường hợp tài sản riêng tăng giá trị nhờ vào việc sử dụng tài sản chung để sửa chữa, Tòa án sẽ xác định phần giá trị tăng thêm đó để chia vào tài sản chung Đối với trang sức được tặng riêng trong ngày cưới, nếu được coi là vốn chung cho vợ chồng, sẽ được xem là tài sản chung.

Trong trường hợp một trong hai vợ chồng vay mượn tiền của người khác để phục vụ cho nhu cầu cá nhân, người đó có trách nhiệm thanh toán bằng tài sản riêng của mình theo quy định tại Khoản 3 Điều.

Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, nếu tài sản riêng của một bên không đủ để thanh toán, thì việc thanh toán sẽ được thực hiện bằng phần tài sản chung của vợ chồng Ngoài ra, vợ chồng cũng có thể thỏa thuận với nhau để sử dụng tài sản chung nhằm thực hiện nghĩa vụ thanh toán.

Trong trường hợp con đã thành niên và có đóng góp đáng kể vào việc xây dựng tài sản của cha mẹ, con có quyền yêu cầu được chia phần đóng góp của mình khi cha mẹ ly hôn Ngược lại, nếu con chưa thành niên và có tài sản riêng, Tòa án sẽ không chia tài sản đó mà quyết định giao cho người nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con quản lý tài sản riêng của đứa trẻ.

Khi vợ chồng ly hôn, một bên có thể yêu cầu tòa án xác định tài sản là tài sản riêng, nhưng nếu không có chứng cứ thuyết phục, tài sản đó sẽ được coi là tài sản chung Theo quy định, tài sản chung của vợ chồng sẽ được phân chia theo pháp luật trong quá trình ly hôn.

Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, việc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn được thực hiện dựa trên thỏa thuận của các bên; nếu không đạt được thỏa thuận, Tòa án sẽ can thiệp Nguyên tắc cơ bản là tài sản chung sẽ được chia đều giữa vợ và chồng Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi hợp pháp và các lợi ích khác của các bên, trong từng trường hợp cụ thể, việc chia tài sản có thể không đơn giản là chia đôi, mà cần xem xét thêm nhiều yếu tố liên quan.

Trong việc xác định tài sản chung của vợ chồng, cần xem xét hoàn cảnh gia đình, công sức đóng góp của mỗi bên trong việc tạo lập và phát triển khối tài sản này Lao động của vợ chồng trong gia đình được coi là lao động có thu nhập, do đó cần phân tích các yếu tố như loại tài sản, nguồn gốc hình thành, khả năng chia tài sản bằng hiện vật, thời gian hôn nhân và chung sống, cũng như nơi cư trú của mỗi bên Ngoài ra, việc xác định ai là người có công sức đóng góp nhiều hơn và ai là lao động chính trong gia đình cũng rất quan trọng.

THỰC TRẠNG LY HÔN TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ HOÀNG MAI, TỈNH NGHỆ AN

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ VẤN ĐỀ LY HÔN TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ HOÀNG MAI, TỈNH NGHỆ AN

Ngày đăng: 25/08/2021, 15:42

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
5. Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi năm 2011 6. Bộ quốc triều hình luật Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi năm 2011 "6
9. Giáo trình luật hôn nhân và gia đình - Trường Đại học Luật Hà Nội, 2007 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình luật hôn nhân và gia đình
15. Nghị định 77/2001/NĐ - CP ngày 22/10/2001 quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/06/2000 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị định 77/2001/NĐ - CP ngày 22/10/2001
16. Nghị quyết 35/2000/QH10 ngày 09/06/2000 quy định về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị quyết 35/2000/QH10 ngày 09/06/2000
1. Báo cáo thống kê số án ly hôn của TAND Thị xã Hoàng Mai Khác
2. Báo cáo tổng kết công tác xét xử của TAND thị xã Hoàng Mai Khác
3. Bộ luật Dân sự năm 2005 Khác
7. Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 Khác
8. Dân luật Việt Nam lược khảo Khác
10. Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 Khác
11. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Khác
12. Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 Khác
13. Luật phòng chống bạo lực gia đình năm 2007 Khác
17. Sắc lệnh số 159 - SL ngày 17/11/1950 Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w