CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BAO THANH TOÁN NỘI ĐỊA
TỔNG QUAN VỀ BAO THANH TOÁN VÀ BAO THANH TOÁN NỘI ĐỊA
1.1.1 Lịch sử hình thành hoạt động bao thanh toán và bao thanh toán nội địa
BTT có một lịch sử phát triển lâu dài, được coi là một trong những hình thức tài trợ cổ xưa nhất Nghiệp vụ BTT bắt nguồn từ hoạt động đại lý hưởng hoa hồng cách đây khoảng 2000 năm dưới thời đế chế La Mã Các đại lý này nắm giữ quyền sở hữu hàng hóa của bên ủy nhiệm (bên bán hàng), thực hiện giao hàng cho bên mua, ghi chép và thu nợ khi đến hạn, sau đó chuyển số dư nợ cho bên ủy nhiệm sau khi đã trừ phần hoa hồng của mình.
Sự phát triển của ngành công nghiệp Anh vào thế kỷ 14 và 15 đã làm tăng vai trò của các đại lý bao thanh toán Khi họ dần tin tưởng vào khả năng trả nợ của người mua trong nước, các đại lý bắt đầu cấp tín dụng cho nhà cung cấp để nhận hoa hồng cao hơn Để đảm bảo khả năng trả nợ, các đại lý hứa hẹn sẽ thanh toán đúng hạn cho nhà cung cấp, ngay cả khi người mua không trả nợ đúng thời gian Những đại lý có đủ vốn còn ứng trước một phần cho nhà cung cấp dựa trên khoản thanh toán dự kiến từ người mua, và từ đó, họ tính thêm phí hoa hồng hoặc lãi suất cho các khoản ứng trước này.
Vào năm 1492, khi Columbus phát hiện ra Châu Mỹ, vai trò của đại lý BTT đã chuyển từ chức năng marketing sang đồng thời đảm nhận cả chức năng marketing và tài chính Thế kỷ 16 đánh dấu sự khởi đầu của chế độ thực dân Mỹ, mang đến cho BTT nhiều cơ hội mới và vai trò ngày càng quan trọng, đặc biệt đối với những người khởi nghiệp kinh doanh.
Cuối thế kỷ 19, Mỹ đã chuyển mình thành một quốc gia chủ quyền, giảm bớt sự phụ thuộc vào hàng hóa nước ngoài, dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của đội ngũ marketing trong nước Mặc dù vai trò của các đại lý BTT giảm, nhưng họ đã thích ứng với nhu cầu kinh tế mới, tập trung vào các lĩnh vực tín dụng, thu nợ, kế toán và tài chính Đầu thế kỷ 20, khi các nhà sản xuất Mỹ mở rộng sang ngành may mặc, nội thất và thảm, các đại lý BTT cũng mở rộng chuyên môn và dịch vụ của mình Đến giữa thế kỷ 20, BTT đã phát triển sang các ngành công nghiệp mới như điện, hóa chất và sợi tổng hợp, và hiện nay đã mở rộng sang nhiều lĩnh vực kinh doanh khác như giao nhận, cung cấp nhân sự, quảng cáo và thiết kế đồ họa.
1.1.2 Khái niệm bao thanh toán
1.1.2.1 Khái niệm BTT theo Công ước quốc tế UniDroit 1988 Điều 2 Chương 1 Công ước về BTT quốc tế UNIDROIT 1988 (Unidroit Convention on International Factoring) định nghĩa: BTT là một dạng tài trợ bằng việc mua bán các khoản nợ ngắn hạn trong giao dịch thương mại giữa tổ chức tài trợ và bên cung ứng, theo đó tổ chức tài trợ thực hiện tối thiểu hai trong số các chức năng: tài trợ bên cung ứng gồm cho vay và ứng trước tiền, quản lý sổ sách liên quan đến các khoản phải thu, thu nợ các khoản phải thu, bảo đảm rủi ro không thanh toán của bên mua hàng.
Khoản 2 Điều 1 Chương 1 Công ước về BTT quốc tế UNIDROIT 1988:
Theo Công ước này, "Hợp đồng bao thanh toán" được định nghĩa là hợp đồng giữa hai bên, trong đó một bên là bên cung cấp hàng và bên kia là bên bao thanh toán.
Người cung cấp hàng có thể chuyển nhượng khoản phải thu từ hợp đồng mua bán hàng hóa cho nhà BTT, nhưng điều này không áp dụng cho những người mua hàng phục vụ mục đích cá nhân và hộ gia đình.
- Bên BTT phải thực hiện ít nhất hai trong những chức năng sau:
+ Tài trợ cho người bán, bao gồm khoản vay và khoản ứng trước;
+ Theo dõi công nợ (giữ sổ cái) liên quan đến khoản phải thu;
+ Thu tiền từ các khoản phải thu;
+ Bảo vệ người bán trong trường hợp người mua không thanh toán
- Thông báo chuyển nhượng phải được đưa ra bằng văn bản cho con nợ biết.
1.1.2.2 Khái niệm BTT theo tổ chức BTT quốc tế FCI
Theo Hiệp hội BTT quốc tế, BTT là dịch vụ tài chính toàn diện, bao gồm tài trợ vốn lưu động, phòng ngừa rủi ro tín dụng, theo dõi và thu hồi nợ Dịch vụ này là sự thỏa thuận giữa đơn vị BTT và người bán, trong đó đơn vị BTT mua lại khoản phải thu của người bán, thường không truy đòi, và đảm bảo khả năng chi trả của người mua Trong trường hợp người mua phá sản hoặc mất khả năng chi trả, đơn vị BTT sẽ thay mặt người mua thanh toán cho người bán.
Theo quy định của Hiệp hội BTT quốc tế trong ấn bản tháng 06/2004, hợp đồng BTT là thỏa thuận mà nhà cung cấp chuyển nhượng các khoản phải thu cho đơn vị bao thanh toán, nhằm thực hiện một hoặc nhiều chức năng nhất định, có thể phục vụ hoặc không phục vụ mục đích tài chính.
- Kế toán sổ sách các khoản phải thu;
- Thu nợ các khoản phải thu;
- Phòng ngừa rủi ro nợ xấu.
- Tài trợ cho người bán, bao gồm việc cho vay lẫn việc ứng trước tiềnthanh toán
1.1.2.3 Khái niệm BTT theo Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 06/09/2004vàQuyết định 30/2008/QĐ-NHNN ngày 16/10/2008 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Theo Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN và Quyết định số 30/2008/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, BTT được định nghĩa là hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua các khoản phải thu phát sinh từ giao dịch mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ giữa bên bán và bên mua theo hợp đồng đã ký kết.
BTT, hay nghiệp vụ mua bán nợ, là hình thức tài trợ cho các khoản phải thu chưa đến hạn từ hoạt động cung ứng hàng hóa và dịch vụ Với chuyên môn hóa cao trong thu hồi nợ, các đơn vị BTT có khả năng nâng cao hiệu suất và giảm chi phí thu hồi nhờ vào lợi thế quy mô Do đó, doanh nghiệp bán hàng sau khi thực hiện BTT sẽ tiết kiệm thời gian và chi phí trong việc theo dõi và thu hồi các khoản phải thu, đồng thời cải thiện luồng tiền mặt, tạo nguồn tài chính ổn định cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.1.3 Vai trò của sản phẩm bao thanh toán
1.1.3.1 Đối với nền kinh tế
BTT thúc đẩy thương mại và sản xuất, đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu của quốc gia, từ đó gia tăng thu nhập cho nền tài chính và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
BTT thúc đẩy đầu tư có hiệu quả nguồn vốn của nền kinh tế, bao gồm cả nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư.
Tăng cường tính ổn định của môi trường kinh doanh giúp ổn định nền kinh tế và tạo sự tự tin cho doanh nghiệp Để kiểm soát khoản phải thu trong hoạt động bảo lãnh tín dụng (BTT) và giảm thiểu nhầm lẫn trong thanh toán, các đơn vị BTT yêu cầu doanh nghiệp thực hiện thanh toán chuyển khoản, một hình thức thanh toán không dùng tiền mặt Sản phẩm BTT do đó thúc đẩy giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế, điều này mang lại ý nghĩa quan trọng cho sự phát triển kinh tế.
Đóng góp tích cực vào công tác dự báo và điều hành kinh tế vĩ mô, việc kiểm soát lượng cung tiền trong lưu thông giúp ngăn ngừa lạm phát và nâng cao hiệu quả của nền kinh tế.
Hạn chế tham nhũng và rủi ro liên quan đến việc sử dụng tiền mặt, đồng thời tiết kiệm thời gian và chi phí Điều này hỗ trợ Ngân hàng Nhà nước trong việc quản lý thu nhập của các công ty, doanh nghiệp và cá nhân, từ đó giúp tính toán thuế thu nhập một cách hiệu quả hơn.
1.1.3.2 Đối với các doanh nghiệp
- Đối với bên bán hàng
Việc sử dụng các dịch vụ tài chính trong gói sản phẩm BTT có thể mang lại cho người bán các lợi ích sau:
HOẠT ĐỘNG BAO THANH TOÁN NỘI ĐỊA TRÊN THẾ GIỚI
Ngày nay, nghiệp vụ bảo lãnh thương mại (BTT) không chỉ giới hạn ở các quốc gia phát triển truyền thống như Anh, Pháp, Mỹ, Đức và Nhật Bản, mà đã mở rộng ra 72 quốc gia trên toàn cầu Sự cạnh tranh trong thương mại dẫn đến sự cạnh tranh về các điều kiện thanh toán, từ đó tạo cơ hội phát triển nghiệp vụ BTT Trong bối cảnh kinh tế hiện đại, sự cạnh tranh trong thương mại ngày càng phổ biến, khiến cho xu hướng phát triển nghiệp vụ BTT trở nên tất yếu.
Thứ hai, khu vực châu Á góp phần quan trọng nhất vào tăng trưởng BTT
Châu Á hiện chỉ chiếm 13,4% doanh số BTT toàn cầu, nhưng khu vực này liên tục ghi nhận tốc độ tăng trưởng vượt trội so với mức trung bình thế giới Các nền kinh tế đang phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore và Thái Lan đang phát triển nhanh chóng trong lĩnh vực này.
Thứ ba, tại các nước mới bắt đầu làm quen với nghiệp vụ BTT, phát triển
BTT nội địa đang trở thành xu thế nổi bật trước khi mở rộng ra BTT quốc tế, nhờ vào những lợi thế về chi phí, khả năng khai thác thị trường và kiểm soát rủi ro hiệu quả.
Xu hướng phát triển BTT nội địa tại các quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ, và Thái Lan hiện nay chủ yếu là hình thức có truy đòi Sự áp dụng hình thức BTT nội địa có truy đòi phụ thuộc vào mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật quốc gia, cũng như rủi ro mà bên mua phải đối mặt và khả năng kiểm soát rủi ro của đơn vị bao thanh toán.
Có một mối liên hệ tỉ lệ thuận giữa tốc độ gia tăng thương mại và hoạt động BTT tại mỗi quốc gia Ví dụ, tại Nhật Bản trong giai đoạn 2005-2006, khi nền kinh tế trì trệ, hoạt động BTT cũng chững lại, nhưng đến năm 2007, khi kinh tế phục hồi, BTT gia tăng đáng kể Tương tự, trong giai đoạn khủng hoảng 1997-2001, Thái Lan chứng kiến doanh số BTT sụt giảm Ngược lại, Trung Quốc ghi nhận sự tăng trưởng BTT mạnh mẽ, với 22% vào năm 2009 và 129% vào năm 2010 Mặc dù không phải tất cả quốc gia đều phản ánh đúng mối quan hệ này, nhưng nó cho thấy BTT là công cụ quan trọng trong cạnh tranh thương mại, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp và quốc gia trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế.
Hiện nay, trên thế giới có ba nhóm chính cung cấp sản phẩm BTT, bao gồm ngân hàng, công nghiệp và độc lập Nhóm công nghiệp được tạo thành từ các tập đoàn lớn, nhưng xu hướng hiện tại cho thấy ngân hàng đang chiếm ưu thế trong việc cung cấp sản phẩm BTT Điều này là do ngân hàng có nền tảng vững chắc trong cho vay, quản lý rủi ro, nguồn vốn dồi dào, mạng lưới khách hàng rộng lớn, cùng với các dịch vụ hỗ trợ và công nghệ tiên tiến.
1.2.2 Kinh nghiệm về bao thanh toán nội địa của một số nước trên thế giới đối với Việt Nam
1.2.2.1 Kinh nghiệm từ một số quốc gia
Các công ty BTT, là các công ty con của ngân hàng, đang nắm giữ lợi thế cạnh tranh trên thị trường Sự hiện diện của các công ty con thuộc các tập đoàn ngân hàng và tổ chức tài chính nước ngoài ngày càng gia tăng, chiếm lĩnh thị phần Đối tượng khách hàng chính của BTT trong nước là các doanh nghiệp vừa và nhỏ Các ngành hàng ưa chuộng dịch vụ BTT bao gồm sản xuất (45%), thương mại (22%), dịch vụ (14%) và các ngành khác (19%).
- Kinh nghiệm của Trung Quốc
Tại Trung Quốc, nghiệp vụ bảo lãnh tín dụng (BTT) nội địa chủ yếu được thực hiện dưới hình thức có truy đòi, với các ngành thép, xe đạp, và dệt may là những khách hàng lớn nhất Các ngân hàng đang tìm kiếm phương án tối ưu để phát triển nghiệp vụ BTT trong tổ chức của mình Ông Jiang Xu, tổng giám đốc Bank of China, cho rằng một phòng BTT độc lập hoặc công ty con trực thuộc ngân hàng, với quyền tự chủ trong marketing và đánh giá tín dụng khách hàng, có thể là giải pháp tốt nhất.
- Kinh nghiệm của Thái Lan
BTT tại Thái Lan được điều chỉnh bởi Đạo luật BTT, cho phép chuyển nhượng khoản phải thu mà không cần văn bản, khác với quy định trước đây Các đơn vị BTT cũng phải chịu phí như các tổ chức tài chính khác, với vốn tối thiểu là 30 triệu Baht Sự phát triển của BTT một phần nhờ vào sự cẩn trọng của các ngân hàng trong việc cho vay, khiến doanh nghiệp quy mô vừa coi BTT là nguồn tài trợ linh hoạt.
1.2.2.2 Bài học kinh nghiệm về bao thanh toán nội địa đối với Việt Nam
BTT đã được áp dụng trên toàn cầu từ lâu nhưng vẫn chưa phổ biến tại Việt Nam Mỗi quốc gia và vùng lãnh thổ có những đặc điểm kinh tế, con người và điều kiện địa lý riêng, dẫn đến sự khác biệt trong việc áp dụng BTT Không phải quốc gia nào cũng thực hiện đầy đủ và chính thống các nghiệp vụ liên quan đến BTT Từ các hoạt động BTT trên thế giới, Việt Nam có thể rút ra nhiều bài học kinh nghiệm quý báu để áp dụng hiệu quả hơn.
Tại Châu Âu, nền kinh tế phát triển mạnh mẽ giúp việc áp dụng dịch vụ bảo lãnh tín dụng (BTT) trở nên dễ dàng và rộng rãi Ngược lại, ở các quốc gia Châu Á như Trung Quốc, Hàn Quốc và Ấn Độ, dịch vụ này chưa được triển khai đầy đủ và thường bị giới hạn trong một số ngành hàng cũng như đối tượng khách hàng nhất định, đồng thời có quyền truy đòi bên bán nếu bên mua không thanh toán Việt Nam cũng có những điều kiện tương tự như các nước Châu Á khác, do đó, việc học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia này là rất quan trọng khi triển khai BTT tại Việt Nam, nơi mà mức độ rủi ro thị trường vẫn còn cao.
Sản phẩm BTT còn mới mẻ đối với người sử dụng và các đơn vị thực hiện, do đó, việc áp dụng nghiệp vụ BTT nội địa sẽ dễ dàng hơn cho các đơn vị trong giai đoạn đầu Sau khi tích lũy kinh nghiệm, các đơn vị có thể tiến tới thực hiện BTT quốc tế, điều này đòi hỏi họ phải có mối quan hệ đối tác rộng rãi với các đơn vị BTT toàn cầu để thu hồi nợ và quản lý rủi ro hiệu quả Việc ứng dụng nghiệp vụ BTT nội địa giúp các đơn vị chủ động hơn trong việc thẩm định bên mua, bên bán, đồng thời là cơ hội tốt để thực hành quản lý sổ sách các khoản phải thu và lựa chọn loại hình doanh nghiệp phù hợp cho BTT.
BTT hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ không có tài sản đảm bảo trong việc vay vốn ngân hàng và tăng hạn mức tín dụng Ngân hàng có thể yên tâm về việc sử dụng nguồn vốn qua quá trình kiểm soát hoạt động và thu hồi khoản phải thu Tuy nhiên, ứng trước KPT trong BTT là hình thức cấp tín dụng không có tài sản đảm bảo, do đó các tổ chức tín dụng cần lựa chọn ngành hàng và uy tín khách hàng để giảm thiểu rủi ro, không áp dụng cho tất cả các ngành hàng và khách hàng.
Chi phí dịch vụ BTT có thể cao đối với bên bán, tuy nhiên, BTT mang lại lợi ích cho cả bên mua và bên bán Do đó, các đơn vị BTT cần tư vấn cụ thể cho khách hàng để cùng chia sẻ chi phí dịch vụ này.
Tại các thị trường mới, doanh nghiệp thường chưa quen với dịch vụ BTT và chưa nhận thức đầy đủ về lợi ích của nó, đặc biệt là đối với bên mua hàng Để phát triển dịch vụ BTT, việc cung cấp thông tin rõ ràng về các lợi ích mà bên mua hàng có thể nhận được là rất cần thiết, từ đó tạo điều kiện cho sự hợp tác tích cực giữa bên mua và đơn vị cung cấp dịch vụ BTT.
KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN NỘI ĐỊA TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
CƠ SỞ PHÁP LÝ THỰC HIỆN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN NỘI ĐỊA TẠI VIỆT NAM
2.1.1 Bối cảnh ra đời Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 06/09/2004 của Ngân hàng Nhà nước
Nghiệp vụ bảo lãnh tín dụng (BTT) đã xuất hiện tại Việt Nam từ những năm 1990, nhưng chưa có điều kiện phát triển Để thúc đẩy thương mại trong nước và quốc tế thông qua việc đa dạng hóa hình thức cấp tín dụng cho doanh nghiệp, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN vào ngày 06/09/2004 về Quy chế hoạt động BTT Văn bản pháp lý này đã tạo động lực cho các tổ chức tín dụng triển khai và phát triển dịch vụ BTT.
Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN đã quy định những vấn đề cơ bản về hoạt động bảo trợ tài chính (BTT) Tuy nhiên, quy chế này vẫn còn tồn tại nhiều bất cập và hạn chế cần được khắc phục.
Vào ngày 16 tháng 10 năm 2008, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định 30/2008/QĐ-NHNN để sửa đổi, bổ sung Quyết định 1096 Quyết định này đã quy định rõ ràng về các đối tượng của các khoản phải thu được bảo toàn tài sản (BTT), các khoản phải thu không được BTT, cũng như các đơn vị thực hiện BTT.
2.1.2 Các văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động của tổ chức bao thanh toán
Theo Quy chế hoạt động BTT của Ngân hàng Nhà nước, BTT được xem là một hình thức cấp tín dụng Do đó, sản phẩm này phải tuân theo các quy định và điều chỉnh của các văn bản luật liên quan.
- Luật các Tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 do Quốc hội ban hành ngày 16/06/2010
Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Ngân hàng Nhà nước đã ban hành quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng, nhằm quy định rõ ràng các điều kiện và thủ tục cho vay Để nâng cao hiệu quả và phù hợp với thực tiễn, Quyết định sửa đổi bổ sung quy chế cho vay số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03/02/2005 đã được ban hành, điều chỉnh một số nội dung trong quy chế cho vay trước đó.
Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ban hành ngày 22/04/2005 của Ngân hàng Nhà nước quy định về việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng nhằm xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng Quy định này nhằm tăng cường quản lý rủi ro tín dụng, đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính và nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng.
- Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 của Ngân hàng Nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Ngân hàng Nhà nước
- Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010 của Ngân hàng Nhà nước quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng.
Thông tư 19/2010/TT-NHNN, ban hành ngày 27/09/2010, điều chỉnh và bổ sung Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010 của Ngân hàng Nhà nước, quy định các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng Những sửa đổi này nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và đảm bảo an toàn tài chính cho các tổ chức tín dụng, góp phần ổn định hệ thống ngân hàng.
Thông tư 22/2011/TT-NHNN, ban hành ngày 30/08/2011, quy định việc sửa đổi, bổ sung Thông tư 13/2010/TT-NHNN và Thông tư 19/2010/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước, nhằm thiết lập các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng.
- Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 06/09/2004 của Ngân hàng Nhà nước ban hành quy chế hoạt động BTT của các Tổ chức tín dụng
Quyết định 30/2008/QĐ-NHNN, ban hành ngày 16/10/2008, điều chỉnh và bổ sung một số điều trong Quy chế hoạt động bảo lãnh tín dụng của các tổ chức tín dụng, theo Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 06/09/2004 của Ngân hàng Nhà nước Quyết định này nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và hoạt động của các tổ chức tín dụng trong lĩnh vực bảo lãnh, đảm bảo tính minh bạch và an toàn trong hoạt động tài chính.
Công văn số 676/NHNN-CSTT ngày 28/06/2005 của Ngân hàng Nhà nước quy định về việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ và chuyển nợ quá hạn trong hoạt động bảo lãnh tín dụng của các tổ chức tín dụng Văn bản này nhằm hỗ trợ các tổ chức tín dụng trong việc quản lý nợ xấu và cải thiện tình hình tài chính, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong việc thanh toán nợ.
Ngân hàng Nhà nước đã thiết lập khung pháp lý cho hoạt động bảo lãnh tín dụng (BTT) tại Việt Nam, với quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN và quyết định 30/2008/QĐ-NHNN là những cơ sở pháp lý quan trọng Tất cả các tổ chức tín dụng cung cấp dịch vụ BTT đều phải tuân thủ các quy định này để đảm bảo hoạt động BTT diễn ra một cách hợp pháp và hiệu quả.
2.1.3 Đối tượng áp dụng và điều kiện được thực hiện hoạt động bao thanh toán nội địa
Theo Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 06/09/2004 và Khoản 2 Điều 1 Quyết định 30/2008/QĐ-NHNN ngày 13/10/2008 của Ngân hàng Nhà nước, tổ chức tín dụng thực hiện nghiệp vụ BTT gồm:
+ Tổ chức tín dụng thành lập và hoạt động theo Luật các Tổ chức tín dụng:
- Ngân hàng thương mại Nhà nước
- Ngân hàng thương mại cổ phần
- Ngân hàng 100% vốn nước ngoài
- Công ty cho thuê tài chính + Ngân hàng nước ngoài được mở chi nhánh tại Việt Nam theo Luật các tổ chức tín dụng
Khách hàng của tổ chức tín dụng BTT bao gồm các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước tham gia bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ, đồng thời nhận các khoản phải thu phát sinh từ các giao dịch này theo thỏa thuận giữa bên bán và bên mua Đối với công ty cho thuê tài chính, hoạt động BTT chỉ được thực hiện với khách hàng là bên thuê Theo Điều 7 Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN và Khoản 3 Điều 1 Quyết định 30/2008/QĐ-NHNN, có quy định rõ về điều kiện để các tổ chức tín dụng hoạt động BTT nội địa.
- Có nhu cầu hoạt động BTT
- Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ tại thời điểm cuối từng tháng của 3 tháng gần nhất dưới 5%
- Không vi phạm các qui định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng
Để tham gia hoạt động BTT, các đối tượng không được nằm trong danh sách vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, hoặc nếu đã từng vi phạm, phải chứng minh đã khắc phục hành vi đó Đặc biệt, đối với các công ty cho thuê tài chính, điều kiện bắt buộc là phải có mức vốn điều lệ tối thiểu tương đương với mức vốn pháp định dành cho công ty tài chính.
2.1.4 Điều kiện của các khoản phải thu Điều 19 Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 06/09/2004 và Khoản 7 Điều
1 Quyết định 30/2008/QĐ-NHNN ngày 16/10/2008 của Ngân hàng Nhà nước qui định các khoản phải thu không được BTT:
- Phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ bị pháp luật cấm
- Phát sinh từ các giao dịch, thỏa thuận bất hợp pháp
- Phát sinh từ các giao dịch, thỏa thuận đang có tranh chấp
- Phát sinh từ các hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới hình thức ký gửi
- Phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ có thời hạn thanh toán còn lại dài hơn 180 ngày
- Các khoản phải thu đã được gán nợ hoặc cầm cố, thế chấp
- Các khoản phải thu đã quá hạn thanh toán theo hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ
- Các khoản phải thu phát sinh từ hợp đồng cung ứng dịch vụ trong lĩnh vực xây dựng; lĩnh vực tài chính, ngân hàng;
- Hợp đồng mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ có thoả thuận không được chuyển giao quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BAO THANH TOÁN NỘI ĐỊA TẠI VIỆT NAM
2.2.1 Số lượng các TCTD cung cấp sản phẩm BTT nội địa tại Việt Nam
Sản phẩm BTT đã xuất hiện tại Việt Nam từ tháng 04/2005, với các đơn vị thực hiện chủ yếu là ngân hàng thương mại (NHTM), công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính Ngân hàng TMCP Á Châu và Ngân hàng TMCP Ngoại Thương là những đơn vị tiên phong trong triển khai nghiệp vụ BTT nội địa, với quy trình chi tiết và doanh số phát sinh lớn tại nhiều chi nhánh Doanh số BTT nội địa của hai ngân hàng này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh số BTT nội địa toàn quốc, và cả hai đều là thành viên của Hiệp hội BTT quốc tế FCI.
Sản phẩm BTT nội địa đóng vai trò quan trọng trong việc đa dạng hóa dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam, mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng Hiện nay, có 29 ngân hàng thương mại, công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính được Ngân hàng Nhà nước cấp phép hoạt động BTT, bao gồm 9 chi nhánh ngân hàng nước ngoài như Deutsche Bank, HSBC và Standard Chartered Bank Nhóm ngân hàng thương mại trong nước được cấp phép gồm các ngân hàng như Ngân hàng TMCP Á Châu, Ngân hàng TMCP Ngoại Thương VN, và Ngân hàng TMCP Kỹ Thương VN, cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của lĩnh vực này.
Nhóm công ty tài chính được cấp phép bởi NHNN bao gồm: Công ty tài chính CP Điện lực, Tổng Công ty tài chính CP Dầu khí VN, Công ty tài chính CP Handico, Công ty tài chính công nghiệp tàu thủy, và Công ty tài chính Than Khoáng sản VN Hiện tại, trong lĩnh vực cho thuê tài chính, chỉ có Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Công thương VN cung cấp sản phẩm BTT nội địa.
2.2.2 Doanh số bao thanh toán nội địa tại Việt Nam
BTT (Bảo lãnh tín dụng) bắt đầu được nghiên cứu và triển khai tại Việt Nam từ năm 2004 theo Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Doanh số BTT Việt Nam ghi nhận từ năm 2005 với giá trị 2 triệu EUR, hoàn toàn là BTT nội địa, đánh dấu cột mốc quan trọng cho dịch vụ này Mặc dù doanh số còn khiêm tốn so với thế giới, hoạt động BTT đã phát triển mạnh mẽ, đạt 16 triệu EUR vào năm 2006, tăng trưởng 700% so với năm trước Năm 2007, giá trị giao dịch tiếp tục tăng lên 43 triệu EUR, tương ứng với mức tăng 168,75% Tốc độ tăng trưởng trong hai năm 2008 và 2009 cũng rất khả quan với tỷ lệ tăng lần lượt là 97,67% và 11,76%.
Năm 2010, tổng doanh số bảo hiểm phi nhân thọ (BTT) tại Việt Nam giảm 31,58% so với năm 2009, chỉ đạt 65 triệu EUR Sự suy giảm này là do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu và những khó khăn trong nền kinh tế trong nước Mặc dù vậy, xu hướng doanh số BTT vẫn có chiều hướng tăng theo thời gian, cho thấy tiềm năng phát triển của ngành bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam là rất lớn.
Tại Việt Nam, các đơn vị bảo hiểm tài chính chủ yếu tập trung vào thị trường nội địa, với doanh số bảo hiểm quốc tế chỉ chiếm tỷ trọng rất thấp Doanh số bảo hiểm nội địa đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ trong suốt các năm, chiếm hơn 90% tổng doanh số từ năm 2005 đến 2009 Tuy nhiên, đến năm 2010, doanh số bảo hiểm nội địa đã giảm từ 90 triệu EUR.
Trong năm qua, doanh thu từ hoạt động bảo hiểm tai nạn (BTT) nội địa đạt 40 triệu EUR, chiếm 61,54% tổng doanh số, cho thấy sự phát triển mạnh mẽ và ổn định của lĩnh vực này Điều này chứng tỏ rằng các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng nhận thức rõ ràng hơn về lợi ích và vai trò quan trọng của bảo hiểm tai nạn trong hoạt động kinh doanh.
Bảng 2.1: Doanh số BTT của Việt Nam từ năm 2005 đến năm 2010.
BTT nội địa BTT quốc tế Tổng doanh số BTT (triệu EUR)
Nguồn: www factors-chain.com
Biểu đồ 2.1: Doanh số BTT của Việt Nam từ năm 2005 đến năm 2010.
2.2.3 Thực trạng hoạt động bao thanh toán nội địa tại một số NHTM điển hình tại Việt Nam
2.2.3.1 Hoạt động bao thanh toán nội địa tại Ngân hàng TMCP Á Châu
Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) là ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam cung cấp dịch vụ bảo lãnh tín dụng (BTT) cho doanh nghiệp, được đánh giá là hiệu quả nhất trong các ngân hàng thương mại Vào ngày 18/11/2004, ACB được Ngân hàng Nhà nước cấp phép triển khai sản phẩm BTT, và đến tháng 04/2005, ngân hàng bắt đầu cung cấp dịch vụ BTT nội địa với sản phẩm có truy đòi Sản phẩm BTT của ACB nhanh chóng thu hút sự quan tâm của doanh nghiệp, với số lượng khách hàng sử dụng tăng từ 13 vào năm 2005 lên hơn 250 hiện nay Đối tượng khách hàng chủ yếu là những doanh nghiệp truyền thống có quan hệ tín dụng và tiền gửi, tuy nhiên, việc tiếp thị sản phẩm cho khách hàng mới vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
Doanh số BTT quốc tế (triệu EUR)
Doanh số BTT nội địa (triệu EUR)
Doanh số BTT của ACB đã liên tục tăng trưởng mạnh mẽ kể từ khi sản phẩm được triển khai, với mức tăng ấn tượng: từ 27,6 tỷ đồng năm 2005 lên 299,7 tỷ đồng năm 2006 (tăng 986%) và 1.050 tỷ đồng năm 2007 (tăng 250%) Tuy nhiên, năm 2008, do ảnh hưởng của biến động kinh tế toàn cầu và chính sách thắt chặt tiền tệ, doanh số BTT chỉ tăng 7,9% đạt 1.132,9 tỷ đồng Trong hai năm 2009 và 2010, doanh số tiếp tục tăng nhưng với tốc độ chậm hơn, lần lượt đạt 1.585,9 tỷ đồng và 1.821 tỷ đồng Đến nửa đầu năm 2011, theo Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ, chính sách tiền tệ thắt chặt đã ảnh hưởng đến doanh số BTT, với doanh số đạt 845 tỷ đồng trong sáu tháng đầu năm.
Bảng 2.2: Tốc độ tăng trưởng doanh số BTT nội địa năm 2005-2010 của ACB
Doanh số BTT nội địa (tỷ đồng) 27,6 299,7 1.050,0 1.132,9 1.585,9 1.821,0 845
Nguồn: Bộ phận BTT-ACB
Biểu đồ 2.2: Tốc độ tăng trưởng doanh số BTT nội địa năm 2005-2010 của ACB
Về phí BTT nội địa và lãi suất ứng trước: ACB hiện đang áp dụng biểu phí như sau:
Bảng 2.3: Phí dịch vụ BTT nội địa và lãi suất ứng trước tại ACB PHÍ DỊCH VỤ BAO
MỨC PHÍ HƯỚNG DẪN THU
BTT theo hạn mức (cấp mới, tái cấp, điều chỉnh tăng hạn mức) thu ngay khi thực hiện hạn mức
Phí tối thiểu: 3.000.000 đồng/ lần
Mức phí: 0,4%/ hạn mức BTT
Thu 1 lần ngay khi ký hợp đồng hạn mức BTT, tái cấp, điều chỉnh tăng hạn mức
Trường hợp thời hạn của hạn mức < 1 năm thì số tiền phí = Mức phí/12 tháng * thời hạn hạn mức * hạn mức BTT
BTT từng lần- thu ngay khi Phí tối thiểu: 500.000 Thu ngay khi giải ngân
Doanh số BTT Tốc độ tăng trưởng giải ngân BTT đồng/lần BTT
Khế ước