Nh ữ ng v ấ n đề c ơ b ả n v ề v ố n t ự có c ủ a ngân hàng
Khái ni ệ m v ề v ố n t ự có
Vốn tự có là yếu tố quan trọng trong nguồn vốn chủ sở hữu của ngân hàng, cần thiết cho sự phát triển quy mô hoạt động và đảm bảo an toàn kinh doanh theo quy định quốc gia và tiêu chuẩn quốc tế Quy mô vốn tự có cũng là tiêu chí đánh giá năng lực tài chính của ngân hàng Để phát triển quy mô tài sản, ngân hàng cần dựa vào sự phát triển của vốn tự có; ngược lại, việc tăng vốn tự có sẽ hỗ trợ ngân hàng mở rộng tài sản và gia tăng lợi nhuận mà vẫn đảm bảo an toàn vốn Do đó, sự tăng trưởng vốn điều lệ đóng vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, khiến chỉ tiêu “vốn tự có” luôn được các nhà quản trị ngân hàng đặc biệt quan tâm trong các chiến lược và kế hoạch Các cơ quan chức năng cũng thiết lập cơ chế giám sát năng lực tài chính của ngân hàng, trong đó việc theo dõi tăng vốn tự có nhằm đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính và giảm thiểu rủi ro hệ thống.
Vốn tự có của ngân hàng thương mại (NHTM) theo Luật các Tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 bao gồm giá trị thực của vốn điều lệ, vốn được cấp của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, và các quỹ dự trữ cùng một số tài sản nợ khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Theo 13/2010/TT-NHNN, vốn tự có được xác định bằng tổng vốn cấp một và
Điều 4, Khoản 10 của Luật các Tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12, được Quốc hội khóa XII thông qua vào ngày 16 tháng 6 năm 2010, có hiệu lực từ ngày 01/01/2011, quy định về vốn cấp hai và các khoản phải trừ.
Bảng 1.1: Mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng 3 STT Loại hình t ổ ch ứ c tín d ụ ng
M ứ c v ố n pháp đị nh áp d ụ ng cho đế n n ă m 2011
C Ngân hàng liên doanh 3.000 tỷđồng
D Ngân hàng 100% vốn nước ngoài 3.000 tỷđồng Đ Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài 15 triệu USD
2 Ngân hàng chính sách 5.000 tỷđồng
3 Ngân hàng đầu tư 3.000 tỷđồng
4 Ngân hàng phát triển 5.000 tỷđồng
5 Ngân hàng hợp tác 3.000 tỷđồng
6 Quỹ tín dụng nhân dân
A Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương 3.000 tỷđồng
B Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở 0,1 tỷđồng
II TCTD phi ngân hàng
1 Công ty tài chính 500 tỷđồng
2 Công ty cho thuê tài chính 150 tỷđồng
Đặ c đ i ể m c ủ a v ố n t ự có
Trong giai đoạn đầu hoạt động, vốn tự có đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nguồn lực tài chính của ngân hàng thương mại (NHTM) Vốn tự có được sử dụng chủ yếu để đầu tư vào tài sản cố định, giúp nâng cao khả năng hoạt động và phát triển bền vững của ngân hàng.
2 Kho ả n 1, Đ i ề u 5, Thông t ư s ố 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010 quy đị nh v ề các t ỷ l ệ đả m b ả o an toàn trong ho ạ t độ ng c ủ a t ổ ch ứ c tín d ụ ng, có hi ệ u l ự c t ừ ngày 01/10/2010
3 Theo Ngh ị đị nh s ố 10/2011/N Đ -CP s ử a đổ i Ngh ị đị nh 141/2006/N Đ -CP v ề Danh m ụ c m ứ c v ố n pháp đị nh c ủ a các t ổ ch ứ c tín d ụ ng khoa luan, tieu luan18 of 102.
Ch ứ c n ă ng c ơ b ả n c ủ a v ố n t ự có
Vốn tự có là nguồn vốn ổn định, liên tục tăng trưởng trong hoạt động ngân hàng và tham gia tích cực vào quá trình kinh doanh Mọi quyết định tăng vốn đều gắn liền với nhu cầu phát triển sản phẩm, dịch vụ mới và mở rộng hoạt động của ngân hàng.
Vốn tự có, mặc dù chỉ chiếm từ 8% đến 10% tổng nguồn vốn kinh doanh, nhưng lại đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành các nguồn vốn khác Giá trị của vốn tự có liên quan chặt chẽ đến uy tín, năng lực và vị thế của chủ sở hữu, cũng như mối quan hệ cung cầu vốn trên thị trường.
Vốn tự có là yếu tố quyết định quy mô hoạt động của ngân hàng, bao gồm các giới hạn huy động vốn, cho vay, bảo lãnh, góp vốn, mua cổ phần và mạng lưới chi nhánh Ngoài ra, nó còn là căn cứ để các cơ quan quản lý xác định các tỷ lệ an toàn trong kinh doanh ngân hàng, do hoạt động của các ngân hàng thương mại phải tuân theo các quy định pháp luật dựa trên quy mô vốn tự có.
Vốn tự có của ngân hàng được hình thành từ các nguồn vốn hợp pháp và lưu chuyển trên thị trường tài chính Trong bối cảnh hội nhập kinh tế, vốn tự có này mang tính quốc tế và chịu ảnh hưởng từ môi trường cạnh tranh cao Các ngân hàng thương mại đang mở rộng thu hút đầu tư thông qua thị trường tài chính với nhiều công cụ tài chính đa dạng.
1.1.3 Các chức năng cơ bản của vốn tự có:
Vốn tự có đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ ngân hàng, giúp bù đắp tổn thất và đảm bảo khả năng thanh toán trong mọi tình huống Các ngân hàng cần duy trì một mức vốn tự có đủ để có thể trả nợ và đối phó với những rủi ro trong hoạt động kinh doanh, tránh những thiệt hại lớn có thể dẫn đến phá sản Do đó, Ngân hàng Nhà nước rất chú trọng đến việc quy định và giám sát chặt chẽ vốn tự có của các ngân hàng thương mại để đảm bảo sự an toàn và ổn định cho hệ thống tài chính.
Ngân hàng thương mại (NHTM) cần thể hiện trách nhiệm đối với tài sản của khách hàng thông qua vốn tự có, nhằm tạo sự tin cậy cho người gửi tiền Hệ số vốn tự có liên quan đến các khoản mục trong bảng tổng kết tài sản cho thấy khả năng ngân hàng duy trì an toàn vốn, ngay cả khi gặp thiệt hại Việc bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền không chỉ là bảo vệ họ mà còn bảo vệ chính ngân hàng, do lĩnh vực ngân hàng luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Vốn tự có không chỉ đóng vai trò là lá chắn bảo vệ và đệm an toàn cho ngân hàng, mà còn được sử dụng để đầu tư nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh hiệu quả.
Vốn tự có đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành tài sản cố định của ngân hàng, quyết định quy mô hoạt động của ngân hàng Khả năng gia tăng và hiện đại hóa tài sản cố định phụ thuộc vào quy mô vốn tự có và chiến lược quản lý của ngân hàng Theo Luật các TCTD Việt Nam, các ngân hàng thương mại chỉ được phép đầu tư vào tài sản cố định không vượt quá 50% vốn điều lệ và quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ.
Vốn là yếu tố quan trọng giúp ngân hàng phát triển và mở rộng các dịch vụ mới cũng như trang thiết bị hiện đại Khi ngân hàng lớn mạnh, việc bổ sung vốn trở nên cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng và chấp nhận rủi ro liên quan đến việc ra mắt các dịch vụ và thiết bị mới Hầu hết các ngân hàng đều có xu hướng mở rộng cơ sở vật chất, và nguồn vốn bổ sung sẽ hỗ trợ cho quá trình này.
Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12, được Quốc hội khóa XII thông qua vào ngày 16 tháng 6 năm 2010, có hiệu lực từ ngày 01/01/2011, quy định rằng các ngân hàng cần mở rộng trụ sở và xây dựng thêm văn phòng chi nhánh để đáp ứng sự phát triển của thị trường và nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng.
Vốn tự có không chỉ được sử dụng để đầu tư vào các tài sản ngắn hạn và dài hạn, mà còn phục vụ cho các hoạt động cho vay, hùn vốn và đầu tư chứng khoán nhằm tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng Tuy nhiên, do tỷ trọng vốn tự có trong tổng nguồn vốn kinh doanh không lớn, nên lợi nhuận từ nguồn vốn này cũng hạn chế, dẫn đến chức năng hoạt động của nó chỉ đóng vai trò thứ yếu.
Vốn tự có đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh hoạt động kinh doanh của ngân hàng, giúp đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính Việc tăng cường vốn tự có giúp hạn chế rủi ro và tính liều lĩnh của các ngân hàng, như trường hợp Royal Bank of Scotland đã phải nhận gói cứu trợ lớn do vốn tự có quá mỏng chỉ 3,5% trước khủng hoảng Các cơ quan quản lý yêu cầu ngân hàng phải phát triển vốn tương ứng với sự gia tăng trong danh mục cho vay và tài sản rủi ro Khi mở chi nhánh mới hoặc thực hiện các hoạt động kinh doanh, ngân hàng cần xác định lại vốn tự có để đáp ứng các yêu cầu pháp lý và đảm bảo khả năng thực hiện các quyết định đầu tư, cho vay, và mua sắm tài sản.
Các cơ quan quản lý ngân hàng áp dụng quy định về tỷ lệ giới hạn vốn tự có như một công cụ vĩ mô để điều tiết hoạt động của các ngân hàng thương mại Những giới hạn này được thiết lập thông qua các tiêu chuẩn pháp lý cụ thể, dựa trên việc phân loại mức độ rủi ro của tài sản đầu tư và sự khác biệt giữa các ngân hàng Các quy định này bao gồm giới hạn cấp tín dụng, tỷ lệ đảm bảo an toàn, và các quy định liên quan đến đầu tư và góp vốn của ngân hàng.
Hi ệ p ướ c Basel v ề v ố n t ự có
1.1.4.1 Quá trình ra đời của Hiệp ước vốn Basels : Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking supervision – BCBS) được thành lập vào năm 1974 bởi một nhóm các Ngân hàng Trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước phát triển (G10) tại thành phố Basel,
Thụy Sỹ nhằm tìm cách ngăn chặn sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng vào thập kỷ
80 Hiện nay, các thành viên của Ủy ban gồm đại diện ngân hàng trung ương hay cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng của các nước: Anh, Bỉ, Canada, Đức, Hà Lan, Hoa
Kỳ, Luxembourg, Nhật, Pháp, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sỹ và Ý Ủy ban được nhóm họp 4 lần trong một năm
Hội đồng thư ký của Ủy ban Basel được đề xuất bởi Ngân hàng Thanh toán
Ủy ban Basel, với 15 thành viên là các nhà giám sát ngân hàng chuyên nghiệp được biệt phái từ các tổ chức tín dụng tài chính, cung cấp tư vấn cho cơ quan giám sát ngân hàng trên toàn cầu Các tiểu ban của Ủy ban sẵn sàng hỗ trợ trong việc nâng cao hiệu quả giám sát hoạt động ngân hàng ở mọi quốc gia.
Năm 1988, Ủy ban Basel đã giới thiệu hệ thống đo lường vốn gọi là Hiệp ước vốn Basel (Basel I), thiết lập khung đo lường rủi ro tín dụng với tiêu chuẩn vốn tối thiểu 8% Basel I không chỉ được áp dụng ở các quốc gia thành viên mà còn lan rộng ra nhiều quốc gia khác có ngân hàng hoạt động quốc tế Đến năm 1996, Basel I đã được sửa đổi, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế Để khắc phục những hạn chế này, vào tháng 6/1999, Ủy ban Basel đã đề xuất khung đo lường mới với ba trụ cột chính: yêu cầu vốn tối thiểu kế thừa từ Basel I, giám sát và đánh giá nội bộ về sự đủ vốn của các tổ chức tài chính, cùng với việc công bố thông tin để tăng cường kỷ luật thị trường Hiệp ước quốc tế về vốn Basel II đã chính thức được ban hành vào ngày 26/6/2004.
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang chật vật phục hồi sau khủng hoảng, an toàn về vốn trở thành một vấn đề quan trọng Vào ngày 12/9/2010, Ủy ban Giám sát ngân hàng Basel đã đạt được thỏa thuận về các tiêu chuẩn mới trong Basel III, được xem là nghiêm ngặt đối với hệ thống ngân hàng toàn cầu và các quốc gia mới gia nhập WTO Tuy nhiên, bộ tiêu chí này chỉ bắt đầu có hiệu lực từ năm 2013 với lộ trình tuân thủ dần dần và sẽ được thực thi hoàn toàn vào ngày 1/1/2019.
1.1.4.2 Thành phần vốn tự có theo quan điểm của Basel:
Một trong những thành tựu cơ bản của Basel I là đã đưa ra được định nghĩa mang tính quốc tế chung nhất về vốn của ngân hàng
Tiêu chuẩn này quy định:
Vốn cấp 1 ≥ Vốn cấp 2 + Vốn cấp 3
Vốn cấp 1 là nguồn vốn dự trữ và các khoản dự phòng được công bố, bao gồm vốn chủ sở hữu vĩnh viễn, dự trữ công bố (lợi nhuận giữ lại), lợi ích thiểu số tại các công ty con trong báo cáo tài chính hợp nhất, và lợi thế kinh doanh (goodwill).
Vốn cấp 2, hay còn gọi là vốn bổ sung, bao gồm các thành phần quan trọng như lợi nhuận giữ lại không công bố, dự phòng đánh giá lại tài sản, dự phòng chung và dự phòng thất thu nợ chung Ngoài ra, vốn cấp 2 còn bao gồm công cụ vốn hỗn hợp, vay với thời hạn ưu đãi, cùng với các khoản đầu tư vào các công ty con tài chính và các tổ chức tài chính khác.
Vốn Cấp 3 (Dành cho rủi ro thị trường) = Vay ngắn hạn
Theo quy định của Basel I, vốn tự có của ngân hàng bao gồm vốn cấp 1 và vốn cấp 2, được điều chỉnh dựa trên rủi ro thị trường.
Basel II vẫn giữ nguyên các quan điểm về vốn của ngân hàng Theo đó, tỷ lệ vốn bắt buộc tối thiểu (CAR) vẫn là 8% của tổng tài sản có rủi ro như Basel I 5 Tuy nhiên, rủi ro được tính toán theo ba yếu tố chính mà ngân hàng phải đối mặt: rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành (hay rủi ro hoạt động) và rủi ro thị trường So với Basel I, cách tính chi phí vốn đối với rủi ro tín dụng có sự sửa đổi lớn, đối với rủi ro thị trường có sự thay đổi nhỏ, nhưng hoàn toàn là phiên bản mới đối với rủi ro vận hành Trọng số rủi ro của Basel II bao gồm nhiều mức (từ 0%-150% hoặc hơn) và rất nhạy cảm với xếp hạng
Basel III yêu cầu các ngân hàng lớn tăng gấp ba lần vốn đầu tư của chủ sở hữu so với trước khủng hoảng, với tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu tăng từ 8% lên 10,5% trước năm 2019 Quy định này đòi hỏi ngân hàng phải duy trì 7% vốn đầu tư của chủ sở hữu, nhằm khắc phục các lỗ hổng cho phép ngân hàng nắm giữ ít vốn hơn, như việc chuyển tài sản khỏi bảng cân đối kế toán Sự gia tăng vốn này sẽ cải thiện khả năng chịu đựng thua lỗ của các ngân hàng.
Lộ trình thực hiện Basel III cụ thể như sau:
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8% vẫn được giữ nguyên
Tỷ lệ an toàn vốn cấp 1 tối thiểu được bắt đầu áp dụng vào 1/1/2013 với mức
4,5%, và phải đạt được mức 6% trước 1/1/2019
Tỷ lệ an toàn vốn cổ phần thường tối thiểu cũng được bắt đầu áp dụng từ
1/1/2013 với mức 3,5%, và phải đạt được mức 4,5% trước 1/1/2019
Tỷ lệ dự phòng bảo toàn vốn được bắt đầu tính từ 01/01/2016 với mức
0,625%, và hoàn thành mức 2,5% trước 1/1/2019
Lộ trình loại bỏ các khoản giảm trừ khỏi vốn cấp 1 được áp dụng từ 1/1/2014 với mức 20%, và đến trước 1/1/2019 sẽ loại bỏđược 100%
5 T ỉ l ệ tho ả đ áng v ề v ố n (CAR) = V ố n b ắ t bu ộ c/Tài s ả n tính theo độ r ủ i ro gia quy ề n (RWA) khoa luan, tieu luan24 of 102.
Tỷ lệ đòn bẩy được thử nghiệm áp dụng trong khoảng thời gian từ 1/1/2013 đến 31/12/2016 với tỷ lệ 3%.
Các ph ươ ng pháp t ă ng v ố n t ự có c ủ a ngân hàng
Các y ế u t ố ả nh h ưở ng đế n vi ệ c l ự a ch ọ n ph ươ ng pháp t ă ng v ố n t ự có
Để gia tăng vốn tự có, các ngân hàng thương mại (NHTM) cần tuân thủ quy định của nhà nước về quản lý vốn tự có, chỉ được tăng vốn từ nguồn hợp pháp Quá trình này phải thực hiện theo lộ trình và trình lên Ngân hàng Nhà nước (NHNN) để được phê duyệt phương án sử dụng vốn tăng thêm Việc huy động vốn điều lệ trên thị trường chứng khoán cũng phải tuân thủ các quy định về thủ tục và nguyên tắc Đặc biệt, NHTM cần đảm bảo rằng vốn điều lệ thực tế luôn lớn hơn vốn pháp định.
1.2.1.2 Các yếu tố chi phí:
Khi quyết định giữa việc phát hành trái phiếu dài hạn hoặc cổ phiếu, nếu xem xét yếu tố chi phí, phát hành trái phiếu là lựa chọn hợp lý hơn do chi phí phát hành cổ phiếu cao hơn, mặc dù chi phí trả lãi cho trái phiếu lại thấp hơn.
Yếu tố thời gian đóng vai trò quan trọng trong việc xác định thời điểm phát hành chứng khoán Khi lãi suất trái phiếu tăng, giá cổ phiếu thường giảm và ngược lại Do đó, việc phát hành cổ phiếu nên được thực hiện khi lãi suất trái phiếu giảm Với sự biến động mạnh của giá tài sản tài chính trong những năm gần đây, việc xem xét yếu tố thời gian trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.
Phát hành chứng khoán nợ nhằm tăng vốn có thể dẫn đến việc gia tăng nợ phải trả, từ đó làm tăng rủi ro phá sản so với việc phát hành cổ phiếu.
1.2.1.5 Quyền kiểm soát ngân hàng:
Một cá nhân hoặc nhóm cá nhân có thể mất quyền kiểm soát ngân hàng khi lựa chọn phương thức tài trợ thông qua việc phát hành cổ phiếu Việc này dẫn đến sự phân tán quyền kiểm soát, khi những người mua cổ phiếu với số lượng lớn có khả năng tham gia vào hội đồng quản trị và chi phối hoạt động của ngân hàng theo lợi ích riêng của họ.
1.2.1.6 Lợi tức trên mỗi cổ phiếu (Earning per Share-EPS):
Khi ngân hàng tăng số lượng cổ phiếu phát hành mà lợi tức không đổi, mức cổ tức trên mỗi cổ phiếu sẽ giảm, điều này ảnh hưởng đến quyền lợi của các cổ đông.
1.2.1.7 Yếu tốđiều động hay tài trợ linh hoạt:
Yếu tố điều động hay tài trợ linh hoạt là khả năng điều chỉnh nguồn vốn để đáp ứng với những thay đổi trong nhu cầu vốn, đặc biệt trong môi trường kinh tế phát triển và lạm phát Ngân hàng cần nhận thức rằng việc tăng vốn không thể chỉ thực hiện một lần mà cần nhiều lần tài trợ trong tương lai Quyết định tăng vốn ngày hôm nay sẽ ảnh hưởng đến khả năng tăng vốn trong tương lai; việc phát hành cổ phiếu không ảnh hưởng đến khả năng vay nợ sau này, nhưng phát hành trái phiếu hiện tại có thể gây khó khăn cho việc vay vốn sau này.
Ho ạ ch đị nh nhu c ầ u v ố n ngân hàng
Các ngân hàng đang phải đối mặt với áp lực gia tăng vốn, điều này khiến họ cần chú trọng hơn đến việc hoạch định nhu cầu vốn dài hạn Câu hỏi đặt ra là: Một ngân hàng cần nắm giữ bao nhiêu vốn? Nếu nắm giữ quá ít vốn, ngân hàng sẽ dễ gặp rủi ro và không đủ khả năng chống đỡ Ngược lại, nếu nắm giữ quá nhiều vốn, các bộ phận của ngân hàng có thể thua lỗ, dẫn đến tăng chi phí tài chính và giảm tốc độ tăng trưởng.
Câu trả lời phụ thuộc vào đặc điểm của từng ngân hàng, yêu cầu từ cơ quan quản lý và nhu cầu thị trường đối với các sản phẩm và dịch vụ mà ngân hàng cung cấp.
Mỗi ngân hàng có thể áp dụng các hệ thống hoạch định nhu cầu vốn khác nhau Dưới đây là phương pháp tổng quát để hoạch định nhu cầu vốn hiệu quả.
Hoạch định nhu cầu vốn ngân hàng gồm 4 bước:
B ướ c 1: Xây d ự ng k ế ho ạ ch tài chính t ổ ng th ể cho ngân hàng
Trước tiên, cần xác định loại ngân hàng mong muốn, bao gồm các yếu tố như quy mô ngân hàng, các dịch vụ mà ngân hàng sẽ cung cấp cho khách hàng và mức sinh lời kỳ vọng trong tương lai dài hạn.
Trong bối cảnh hiện nay, việc các ngân hàng sát nhập để tạo ra những tổ chức tài chính lớn hơn, an toàn và hiệu quả hơn đang trở nên phổ biến Tuy nhiên, các ngân hàng nhỏ vẫn có những lợi thế riêng, đặc biệt ở các thị trường nhỏ và khu vực nông thôn Do đó, Hội đồng quản trị và ban giám đốc cần xác định quy mô ngân hàng phù hợp với loại dịch vụ mà ngân hàng sẽ cung cấp cho khách hàng.
Sự nới lỏng quy định trong hoạt động ngân hàng đã tạo điều kiện cho việc cung cấp nhiều dịch vụ mới trong lĩnh vực giao dịch chứng khoán, bảo hiểm và các lĩnh vực khác Các ngân hàng cần xác định những dịch vụ nào có khả năng làm tăng rủi ro, như giảm lợi nhuận và gia tăng chi phí, đồng thời cũng phải tìm ra những dịch vụ có thể giảm thiểu rủi ro Thông thường, các dịch vụ giảm rủi ro yêu cầu ít vốn hơn, trong khi những dịch vụ có khả năng gia tăng rủi ro lại cần nhiều vốn hơn.
Bước 2: Căn cứ vào mục tiêu hoạt động và các dịch vụ dự định cung ứng, cần xác định số lượng vốn cần thiết để đáp ứng các mục tiêu đã chọn Việc này phải xem xét mức rủi ro có thể chấp nhận và tuân thủ các quy định của các cơ quan quản lý ngân hàng.
Trong thực tế hoạt động, một ngân hàng thường xuyên phải đối mặt với hai yêu cầu trái ngược nhau về vốn tự có:
Các cơ quan quản lý ngân hàng thường yêu cầu các ngân hàng tăng cường vốn nhằm đảm bảo an toàn hệ thống Tuy nhiên, việc có quá nhiều vốn tự có có thể ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả tài chính, làm giảm tác dụng đòn cân nợ và khả năng sinh lời từ các khoản đầu tư Điều này có thể dẫn đến lợi nhuận giảm và giá chứng khoán thấp hơn, khi các nhà đầu tư dự đoán lợi nhuận tương lai của ngân hàng sẽ không khả quan.
Yêu cầu tăng thu nhập từ nhà đầu tư trên thị trường vốn dẫn đến việc ngân hàng có vốn tự có quá ít, làm giảm khả năng chống đỡ rủi ro Điều này khiến nhà đầu tư lo ngại rằng lợi nhuận của ngân hàng sẽ biến động nhiều hơn, và các khách hàng gửi tiền lớn có nguy cơ mất vốn cao hơn.
B ướ c 3: Xác đị nh v ố n bên trong có th ể t ạ o ra t ừ l ợ i nhu ậ n gi ữ l ạ i
Hội đồng quản trị ngân hàng phải quyết định tỷ lệ phần trăm lợi nhuận hàng năm để chia cổ tức cho cổ đông và phần trăm giữ lại cho đầu tư mở rộng, đồng thời đáp ứng yêu cầu tăng vốn theo quy định pháp lý Họ cũng cần dự báo mức tăng trưởng lợi nhuận nhằm đảm bảo cung cấp đủ vốn cho nhu cầu tài chính tổng thể.
B ướ c 4: Đ ánh giá và l ự a ch ọ n ph ươ ng cách t ă ng v ố n thích h ợ p v ớ i nhu c ầ u và các m ụ c tiêu c ủ a ngân hàng
Một phương án tăng vốn hiệu quả cho ngân hàng phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau Hiện nay, các ngân hàng có thể tăng vốn dài hạn qua nhiều hình thức như phát hành cổ phiếu, phát hành tín phiếu vốn, bán tài sản, thuê trụ sở, và thúc đẩy sự tăng trưởng lợi nhuận Nếu mục tiêu chính là nắm quyền kiểm soát, thì việc vay vốn từ các chủ nợ trở thành một lựa chọn khả thi.
Cách th ứ c t ă ng v ố n t ự có
1.2.3.1 Tăng vốn từ nguồn bên trong:
Ngân hàng có thể nâng cao vốn tự có thông qua việc giữ lại lợi nhuận qua các năm Đây là khoản lợi nhuận mà ngân hàng kiếm được trong năm tài chính, không được chia cho cổ đông mà được giữ lại để tăng cường vốn.
Ngân hàng có thể gia tăng vốn tự có thông qua việc chia cổ tức bằng cổ phiếu cho các cổ đông hiện hữu, đây là một phương pháp hiệu quả để tăng vốn tự có từ nguồn bên trong.
Ngân hàng thương mại cổ phần có thể tăng vốn tự có thông qua việc kết chuyển từ quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ và quỹ thặng dư vốn cổ phần Phương pháp này mang lại nhiều ưu điểm, bao gồm việc tăng vốn mà không phụ thuộc vào thị trường vốn, giúp ngân hàng tránh được chi phí huy động vốn thả nổi Điều này không chỉ tiết kiệm chi phí mà còn không yêu cầu hoàn trả, đồng thời bảo vệ quyền kiểm soát của ngân hàng và không đe dọa đến quyền lợi của các cổ đông hiện tại.
Nhược điểm của việc tăng vốn từ bên trong chỉ áp dụng cho các ngân hàng lớn, có lợi nhuận ổn định và không thể thực hiện thường xuyên do ảnh hưởng đến quyền lợi cổ đông Hình thức này gặp bất lợi về thuế vì không được khấu trừ và bị tác động nặng nề bởi biến động lãi suất cũng như các điều kiện kinh tế ngoài tầm kiểm soát của ngân hàng Sự giảm sút trong tăng trưởng lợi nhuận của ngân hàng trong những năm gần đây đã khiến nhiều ngân hàng phải tìm kiếm nguồn vốn bên ngoài, như phát hành cổ phiếu mới, để bổ sung cho nguồn vốn nội bộ.
Phương pháp này phụ thuộc vào:
Chính sách phân phối cổ tức của ngân hàng xác định tỷ lệ thu nhập mà ngân hàng cần giữ lại để tăng vốn cho mở rộng kinh doanh và tỷ lệ thu nhập chia cho cổ đông Tỷ lệ giữ lại quá thấp có thể làm chậm mức tăng trưởng vốn, giảm khả năng mở rộng tài sản sinh lời và tăng rủi ro phá sản, trong khi tỷ lệ quá cao sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến thu nhập của cổ đông, dẫn đến giảm giá cổ phiếu Một chính sách cổ tức tối ưu giúp ngân hàng tối đa hóa giá trị đầu tư của cổ đông, đồng thời đảm bảo rằng thu nhập trên mỗi cổ phần ít nhất phải tương đương với thu nhập từ các hoạt động đầu tư có mức độ rủi ro tương tự.
Tốc độ tăng vốn từ nguồn nội bộ:
Ta có: Tỷ lệ tăng vốn từ nguồn nội bộ (Internal capital growth rate-ICGR)
ICGR = Thu nhập giữ lại
Để tăng quy mô vốn từ nguồn nội bộ, ngân hàng cần tăng thu nhập ròng hoặc tỷ lệ thu nhập giữ lại, hoặc thực hiện cả hai biện pháp đồng thời Ban giám đốc ngân hàng cần chú trọng vào việc duy trì một chính sách phân phối cổ tức ổn định, nhằm giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư và nâng cao sức hấp dẫn của ngân hàng Nghiên cứu tại các ngân hàng Tây Âu cho thấy, giá cổ phiếu thường giảm nhanh sau khi có quyết định cắt giảm cổ tức, điều này không chỉ gây thất vọng cho cổ đông hiện tại mà còn làm nản lòng các nhà đầu tư tiềm năng.
1.2.3.2 Tăng vốn từ nguồn bên ngoài: a Phát hành cổ phiếu mới:
Phát hành thêm vốn cổ phần thường hay vốn cổ phần ưu đãi là một hình thức huy động vốn phổ thông của các NHTMCP
Việc phát hành thêm cổ phần thường mang lại nhiều lợi ích cho ngân hàng, bao gồm việc không phải hoàn trả số tiền cho người mua cổ phiếu Hơn nữa, cổ tức từ cổ phiếu thường không tạo gánh nặng tài chính trong những năm kinh doanh thua lỗ Phương pháp này không chỉ giúp tăng quy mô vốn mà còn nâng cao khả năng vay nợ của ngân hàng trong tương lai.
Nhược điểm của việc phát hành cổ phiếu là chi phí cao, có thể dẫn đến việc làm loãng quyền sở hữu ngân hàng, giảm mức cổ tức trên mỗi cổ phiếu (EPS) và giảm khả năng tận dụng tỷ lệ đòn bẩy tài chính hiện có của ngân hàng.
Tỷ lệđòn bẩy tài chính Tổng tài sản
Với việc phát hành cổ phiếu ưu đãi cổ tức thì có đặc điểm sau:
Cổ phiếu ưu đãi cổ tức có đặc trưng là cổ tức cố định, có thể thay đổi hàng năm Người sở hữu cổ phiếu này chỉ có quyền chuyển nhượng mà không có quyền bầu cử hay ứng cử trong doanh nghiệp Ngân hàng có thể mua lại cổ phiếu khi người sở hữu cần bán Ưu điểm của loại cổ phiếu này là không phải hoàn trả vốn, không làm phân tán quyền kiểm soát ngân hàng, và tăng khả năng vay nợ trong tương lai.
Nhược điểm của việc phát hành cổ phiếu là cổ tức phải trả cho cổ đông tạo ra gánh nặng tài chính, đặc biệt trong những năm ngân hàng gặp thua lỗ Bên cạnh đó, chi phí phát hành cổ phiếu cao có thể dẫn đến việc giảm mức cổ tức trên mỗi cổ phiếu Thêm vào đó, việc chuyển đổi từ trái phiếu chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông cũng là một yếu tố cần xem xét.
Trái phiếu chuyển đổi là hình thức huy động vốn kết hợp giữa cổ phần và nợ, cho phép chuyển đổi khoản nợ thành cổ phần sau một thời gian nhất định với lãi suất cố định Loại trái phiếu này có lãi suất thấp hơn so với vốn huy động, đồng thời mang lại lợi ích cho trái chủ khi họ có cơ hội trở thành cổ đông trong tương lai, mặc dù phải chấp nhận rủi ro chuyển đổi Ưu điểm của trái phiếu chuyển đổi bao gồm chi phí thấp và không làm phân tán quyền kiểm soát của ngân hàng tại thời điểm phát hành, khiến nó trở thành một phương pháp hiệu quả được nhiều nhà đầu tư ưa chuộng trên thị trường.
Nhược điểm của việc phát hành trái phiếu là ngân hàng phải hoàn trả số tiền cho người mua khi trái phiếu đáo hạn, cùng với đó là gánh nặng lãi suất trả cho trái phiếu, làm tăng chi phí hoạt động và giảm khả năng vay vốn trong tương lai Việc mua bán và sát nhập ngân hàng (M&A ngân hàng) cũng cần được xem xét trong bối cảnh này.
Mua bán và sát nhập ngân hàng là quá trình kết hợp hai hoặc nhiều ngân hàng thành một tổ chức tài chính lớn hơn, giúp tăng tổng tài sản và vốn tự có một cách đáng kể Phương pháp này không chỉ nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng mà còn mang lại hiệu quả chi phí tốt hơn, chiếm lĩnh thị trường và cải thiện hiệu quả vận hành.
Nhược điểm của việc tăng vốn tự có là tốn nhiều thời gian và chi phí hơn so với các phương thức khác Ngoài ra, trong giai đoạn đầu, hoạt động của ngân hàng có thể bị ảnh hưởng do sự thay đổi về nhân sự.
Ngân hàng có thể tăng vốn từ bên ngoài thông qua nhiều biện pháp như bán tài sản và thuê lại, chuyển đổi chứng khoán nợ thành cổ phiếu, hoặc nhận lãi từ trái phiếu chính phủ.
Ý ngh ĩ a c ủ a vi ệ c t ă ng v ố n t ự có
Năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế còn nhiều yếu kém, đặc biệt là vốn tự có nhỏ bé và cơ cấu chưa hợp lý so với ngân hàng khu vực và thế giới Hoạt động kinh doanh của NHTM chứa nhiều rủi ro, có thể ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế do tính chất lây lan Vì vậy, các NHTM cần thường xuyên cảnh giác, nghiên cứu, phân tích và có biện pháp phòng ngừa hiệu quả Ngân hàng cũng cần tự đánh giá khả năng chịu đựng rủi ro và áp dụng các biện pháp bảo vệ tài chính như nâng cao chất lượng quản lý, đa dạng hóa nguồn vốn và danh mục đầu tư, bảo hiểm tiền gửi và tăng cường vốn chủ sở hữu Khi các biện pháp ngăn chặn rủi ro không còn hiệu quả, vốn chủ sở hữu trở thành biện pháp cuối cùng để bù đắp tổn thất từ cho vay và đầu tư không hiệu quả Nếu thua lỗ lớn đến mức không thể phục hồi, ngân hàng sẽ buộc phải đóng cửa, với vốn chủ sở hữu là hàng rào chống đỡ cuối cùng.
Để đối phó với những rủi ro ngày càng gia tăng từ nhiều nguồn khác nhau, ngân hàng cần tăng cường vốn tự có Việc này không chỉ nâng cao năng lực tài chính của ngân hàng mà còn giúp giảm thiểu rủi ro cho cả khách hàng và ngân hàng trong quá trình hoạt động kinh doanh.
Tăng vốn tự có không chỉ giúp nâng cao quy mô vốn của ngân hàng mà còn đáp ứng yêu cầu quản lý của Chính phủ và NHNN trong bối cảnh kiểm soát hoạt động ngân hàng ngày càng chặt chẽ Điều này là cần thiết để phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc gia Ngoài ra, việc tăng vốn tự có còn giúp ngân hàng mở rộng các nghiệp vụ kinh doanh mới, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh so với các ngân hàng nước ngoài.
Như vậy, tăng năng lực tài chính thông qua tăng vốn tự có mang ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động ngân hàng.
Kinh nghi ệ m t ă ng v ố n t ự có c ủ a các ngân hàng trên th ế gi ớ i và bài h ọ c cho các
Kinh nghi ệ m t ă ng v ố n t ự có c ủ a các ngân hàng M ỹ
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại, bắt nguồn từ Mỹ từ năm 2007 Tháng 3 năm 2008, Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York đã cố gắng cứu Bear Stearns nhưng không thành công, dẫn đến việc JP Morgan Chase mua lại công ty này với giá 10 đô la mỗi cổ phiếu, làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng Đến tháng 8 năm 2008, Lehman Brothers, một trong những tổ chức tài chính lớn nhất và lâu đời nhất của Mỹ, đã phá sản, kéo theo sự sụp đổ của nhiều công ty khác Hàng loạt tổ chức tài chính lớn bị phá sản đã khiến kinh tế Hoa Kỳ rơi vào tình trạng khan hiếm tín dụng Để ổn định hệ thống tài chính, vào tháng 5 năm 2009, FED và các cơ quan thanh tra Mỹ đã tiến hành thanh tra 19 tổ chức tài chính lớn nhất, nắm giữ khoảng một nửa các khoản vay tại Mỹ, trong khuôn khổ kế hoạch ổn định tài chính của Tổng thống Obama.
Kết quả thanh tra cho thấy 10 trong số 19 ngân hàng lớn nhất Mỹ cần bổ sung khoảng 74,6 tỷ USD Tất cả các ngân hàng trong danh sách này đều không được phép sụp đổ.
Những ngân hàng cần thêm vốn sẽ phải đệ trình kế hoạch tăng vốn được chính phủ chấp thuận trước ngày 08/06/2009
Danh sách ngân hàng tăng vốn bao gồm: Bank of America (33,9 tỷ USD); Wells Fargo (13,7 tỷ USD); GMAC LLC (11,5 tỷ USD); Citigroup (5,5 tỷ USD)
Bank of New York Mellon, American Express, Capital One Financial, Goldman Sachs Group, JPMorgan Chase, MetLife and State Street không cần tăng vốn
Một số ngân hàng cần tăng vốn đã công bố kế hoạch riêng Morgan Stanley, theo yêu cầu tăng vốn 1,8 tỷ USD từ chính phủ, cho biết họ dự định tăng thêm 5 tỷ USD, trong đó có 2 tỷ USD thông qua phát hành cổ phiếu phổ thông.
Chính phủ yêu cầu các ngân hàng duy trì tỷ lệ vốn tối thiểu để đảm bảo khả năng cho vay trong bối cảnh kinh tế khó khăn.
Các ngân hàng có thể lựa chọn tăng vốn bằng cách chuyển đổi nợ chính phủ sang cổ phiếu thường hoặc huy động vốn từ thị trường tư nhân trong vòng 6 tháng Nếu không đạt được các mục tiêu này, họ sẽ phải nhận hỗ trợ tài chính từ kế hoạch 700 tỷ USD mà chính phủ đã thông qua vào tháng 10/2008.
Cuối năm 2010, FED thông báo rằng 19 ngân hàng đã được kiểm tra vào tháng 5/2009 sẽ tiếp tục tham gia vào đợt kiểm tra mới Đợt kiểm tra “sức khỏe” này là bắt buộc, yêu cầu các ngân hàng tăng cổ tức hoặc tiến hành mua lại cổ phiếu FED yêu cầu tất cả 19 ngân hàng phải nộp kế hoạch vốn tổng thể trước ngày 07/01/2011.
FED tiến hành kiểm tra các ngân hàng nhằm đảm bảo rằng họ sẵn sàng đối phó với nhiều tình huống khác nhau Các ngân hàng được đánh giá dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau để đảm bảo tính ổn định và an toàn tài chính.
Ngân hàng cần đánh giá khả năng ứng phó trước rủi ro thua lỗ trong hai năm tới, dựa trên các kịch bản kinh tế bất lợi do FED đưa ra Việc này bao gồm phân tích mô hình kinh doanh và danh mục đầu tư đặc thù của ngân hàng để đảm bảo sự bền vững trong bối cảnh khó khăn.
Các ngân hàng đang xây dựng kế hoạch để tuân thủ các tiêu chuẩn vốn mới theo Basel III khi tiêu chuẩn này có hiệu lực tại Mỹ Đồng thời, họ cũng cần đáp ứng các yêu cầu từ luật cải tổ ngành ngân hàng Dodd-Frank và luật bảo vệ người tiêu dùng, ảnh hưởng đến mô hình kinh doanh và cấu trúc vốn của mình.
Kế hoạch trả nợ của chính phủ Mỹ có thể bao gồm việc thanh toán trực tiếp hoặc chuyển đổi các khoản đầu tư của chính phủ thành cổ phiếu ưu đãi hoặc cổ phiếu phổ thông Điều này sẽ được thực hiện trước khi tiến hành tăng cổ tức hoặc thực hiện mua lại cổ phiếu.
Kinh nghi ệ m t ă ng v ố n t ự có c ủ a các ngân hàng Châu Âu
Thế giới đang đối mặt với cuộc khủng hoảng nợ công ngày càng lan rộng, bắt nguồn từ Hy Lạp và ảnh hưởng đến nhiều quốc gia trong khu vực đồng euro Khủng hoảng này đang đe dọa sự phục hồi kinh tế toàn cầu Để khắc phục tình trạng nợ công gia tăng và đưa nó về mức an toàn, một giải pháp quan trọng là tăng tỷ lệ an toàn vốn của các ngân hàng châu Âu, nhằm ngăn chặn sự đổ vỡ của hệ thống tài chính trong Liên minh Châu Âu.
91 ngân hàng châu Âu đã được Cơ quan ngân hàng Châu Âu (European
Banking Authority, EBA) tiến hành thanh tra trong 2 đợt, đợt 1 vào tháng 7 năm 2010, đợt 2 vào tháng 7 năm 2011 khoa luan, tieu luan36 of 102.
Kết quả thanh tra đợt 1 vào ngày 23/07/2010 cho thấy 7 trong số 91 ngân hàng thuộc Liên minh châu Âu không vượt qua bài kiểm tra "sức khỏe" ngành ngân hàng Nhóm 7 ngân hàng này cần bổ sung 3,5 tỷ euro vốn.
Thị trường đang lo ngại về khả năng các quy định tài chính đã quá lỏng lẻo, khi 7 ngân hàng được đánh giá có nguy cơ không tồn tại nếu kinh tế toàn cầu gặp khó khăn hơn hoặc phải đối mặt với các cú sốc tương tự như khủng hoảng nợ Hy Lạp vừa qua.
Các ngân hàng không cần tăng vốn nhiều vì đợt kiểm tra không tính đến thua lỗ tiềm năng từ trái phiếu chính phủ mà họ đang kinh doanh, mà chỉ xem xét nhóm trái phiếu họ nắm giữ Điều này có nghĩa là đợt kiểm tra đã bỏ qua phần lớn nợ nước ngoài mà các ngân hàng đang sở hữu.
Ngoài ra, theo chuyên gia thuộc Credit Suisse, các ngân hàng châu Âu đã tăng vốn thêm 220 tỷ euro trong từ 15 đến 18 tháng qua
Bất chấp những lý do trên, lượng vốn tăng vẫn quá thấp
Tính toán từ Nomura Holdings cho thấy các ngân hàng cần tăng vốn thêm 30 tỷ euro Con số này đối với Barclays là 85 tỷ euro
Bảng 1.1 liệt kê 7 ngân hàng không vượt qua kiểm tra của ngành ngân hàng châu Âu cùng với số vốn cần bổ sung, được tính theo triệu euro.
Kết quả thanh tra đợt 2 vào ngày 16/07/2011 cho thấy có 8 trong số 91 ngân hàng bị thanh tra có tỷ lệ an toàn vốn cấp 1 dưới 5% trong kịch bản căng thẳng, bao gồm 5 ngân hàng Tây Ban Nha, 2 ngân hàng Hy Lạp và 1 ngân hàng Áo Ngoài ra, 16 ngân hàng khác có tỷ lệ an toàn vốn trong khoảng 5-6%, gần sát mức tối thiểu Đợt thanh tra này có thể đã thúc đẩy một số ngân hàng tăng cường vốn, khi từ tháng 1 đến tháng 4 năm 2011, các tổ chức tín dụng châu Âu đã huy động thêm 50 tỷ euro Tuy nhiên, 8 ngân hàng không vượt qua được đợt thanh tra của EBA, và một số ngân hàng khác cũng ở mức ranh giới.
Các ngân hàng “trượt” sẽ phải đối mặt với áp lực tăng vốn từ thị trường Nhiệm vụ của hệ thống ngân hàng Tây Ban Nha đã trở nên rõ ràng hơn, khi có đến 5 trong 8 ngân hàng “trượt” thuộc về quốc gia này.
Nha, và nếu không có đợt tăng vốn trong 4 tháng đầu năm nay, 9/20 ngân hàng đáng lẽ đã “trượt” cũng là của nước này
Hình 1.2: Tỷ lệ vốn cấp 1 của hệ thống ngân hàng thế giới
Vốn cấp 1 là loại vốn chắc chắn và bao gồm các khoản dự phòng đã được công bố, trong đó có vốn chủ sở hữu, vốn điều lệ hoặc vốn cổ phần phổ thông, cùng với vốn dự trữ đã công bố (lợi nhuận không chia) Ngoài ra, vốn cấp 1 còn bao gồm lợi ích thiểu số tại các công ty con trong báo cáo tài chính hợp nhất và lợi thế kinh doanh (Goodwill).
Đợt thanh tra này đã làm rõ mức độ dễ tổn thương của hệ thống ngân hàng trước khủng hoảng nợ công, nhưng EBA cũng thừa nhận rằng nó không đánh giá được tác động gián tiếp lên niềm tin của nhà đầu tư và tính thanh khoản trên thị trường vốn Cả hai tác động này sẽ gia tăng khi các nền kinh tế lớn bị ảnh hưởng Thông qua đợt thanh tra, các nhà hoạch định chính sách có thể xác định cách thức "gia cố" hệ thống ngân hàng để ứng phó với tình huống vỡ nợ của các quốc gia nhỏ như Hy Lạp.
Nếu nước vỡ nợ là Italy hay Tây Ban Nha, tác động sẽ rất lớn do hiệu ứng dây chuyền, khiến tình hình trở nên khó dự đoán hơn nhiều.
Các ngân hàng Châu Âu cần tăng cường vốn để đối phó với tác động từ việc tái cơ cấu nợ tại Hy Lạp, Bồ Đào Nha và Ireland Cuộc thanh tra này có thể kích thích một làn sóng huy động vốn, nhưng EBA sẽ gặp phải sự phản đối mạnh mẽ từ các cơ quan điều tiết quốc gia, nhiều trong số đó vẫn đang tranh cãi về định nghĩa "vốn chất lượng cao".
Nhưng từ cả năm nay chuyện này ai cũng rõ, tuy vậy họ vẫn chưa buồn làm
Từ cuối năm 2009 đến hết quý I năm nay, các ngân hàng Mỹ đã nâng tỷ lệ vốn cấp 1 lên 4%, trong khi các ngân hàng châu Âu không đạt được mức tương tự và vẫn có mức vốn tuyệt đối thấp hơn nhiều.
Ngân hàng Helaba của Đức đã từ chối yêu cầu công bố toàn bộ dữ liệu từ EBA sau khi cơ quan này không công nhận một số khoản mục của ngân hàng là “vốn” Hành động này chắc chắn có sự hỗ trợ từ cơ quan giám sát ngân hàng Đức Bafin, cho thấy sự liên kết chặt chẽ giữa Helaba và Bafin trong vấn đề này.
EBA yêu cầu các ngân hàng không vượt qua đợt thanh tra phải trình kế hoạch bù đắp vốn trong vòng 3 tháng, trong khi cơ quan giám sát ngân hàng Tây Ban Nha lại không yêu cầu như vậy Ngân hàng Trung ương Tây Ban Nha khẳng định rằng "không ngân hàng Tây Ban Nha nào sẽ bị yêu cầu tăng vốn" do kết quả của đợt thanh tra này.
Kinh nghi ệ m t ă ng v ố n t ự có c ủ a các ngân hàng Trung Qu ố c
Chuyên gia James Kynge so sánh kinh tế Trung Quốc như một chú voi trên xe đạp; nếu tiếp tục tiến về phía trước, mọi thứ ổn, nhưng nếu giảm tốc, hậu quả sẽ rất nghiêm trọng.
Tình trạng già hóa dân số tại Trung Quốc đang gia tăng nhanh chóng, cùng với việc tiền lương nhân công không ngừng tăng, đã dẫn đến lạm phát leo thang và ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
Trong những năm gần đây, chúng ta đã trải qua thời kỳ "lạm phát thấp" nhờ vào giá thuê nhân công rẻ Tuy nhiên, điều này đặt ra câu hỏi về tỷ lệ lạm phát "bình thường" sẽ như thế nào trong tương lai Những sự kiện gần đây đã khiến nhiều người lo ngại về tình hình kinh tế Chẳng hạn, vào giữa những năm 1990, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Trung Quốc thường xuyên vượt mức 10% Thực tế, lạm phát của quốc gia này đã đạt đỉnh gần 30% vào cuối năm 1994.
Trung Quốc có thể sắp đối mặt với "thời điểm Minsky", khi mà chu kỳ nợ vay kết thúc và giá tài sản giảm mạnh.
Theo lý thuyết, nếu chúng ta may mắn trải qua một giai đoạn tăng trưởng và ổn định tài chính kéo dài, thì những yếu tố bất ổn sẽ bắt đầu xuất hiện và ảnh hưởng đến tất cả mọi người, từ các nhà đầu tư ngân hàng cho đến các cơ quan quản lý.
Trung Quốc đang đối mặt với thách thức lớn về cơ cấu dân số và có khả năng sẽ chiến thắng trong cuộc chiến chống lạm phát năm 2011 Tuy nhiên, cuộc chiến này sẽ tiếp tục kéo dài, và bất kỳ thay đổi nào cũng có thể làm gia tăng mức độ khó khăn Để duy trì phát triển bền vững cho nền kinh tế, Trung Quốc cần ngăn chặn lạm phát và kiểm soát tín dụng bằng cách áp dụng các biện pháp như tăng lãi suất, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và có thể nâng giá đồng Nhân dân tệ Một trong những biện pháp tài chính quan trọng là yêu cầu 5 ngân hàng lớn nhất nâng tỷ lệ an toàn vốn.
Cơ quan điều tiết ngân hàng Trung Quốc đã quy định tỷ lệ an toàn vốn (CAR) tối thiểu là 11,5% đối với 5 ngân hàng cho vay lớn nhất nước này, nhằm giảm thiểu lo ngại về rủi ro tín dụng gia tăng.
Theo một quan chức ngân hàng Trung Quốc, tỷ lệ an toàn vốn tại Ngân hàng Công thương Trung Quốc, ngân hàng lớn nhất thế giới, cùng với ba ngân hàng đối thủ, đã được điều chỉnh lên mức tối thiểu là 11,8% trong tháng trước.
Tỷ lệ an toàn vốn của Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc, ngân hàng lớn thứ
Tỷ lệ lãi suất phải duy trì ở mức khoảng 11,7% để giúp các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc kiểm soát tăng trưởng tín dụng Điều này là cần thiết sau khi lạm phát và giá bất động sản tăng mạnh, xuất phát từ giai đoạn tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ trong suốt 2 năm qua, với tổng giá trị các khoản vay mới lên tới 2,7 nghìn tỷ USD.
Trong tháng này, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên mức cao nhất trong 20 năm qua và yêu cầu thanh tra các khoản vay trong lĩnh vực bất động sản Ủy ban điều tiết ngành ngân hàng Trung Quốc đã thiết lập nhiều mục tiêu và áp dụng tiêu chuẩn đối với vốn của 5 ngân hàng, với tỷ lệ an toàn vốn không được thấp hơn 11,5%.
Nhóm 5 ngân hàng lớn nhất Trung Quốc, hiện đang kiểm soát khoảng hơn một nửa tài sản của hệ thống ngân hàng nước này, đã huy động được 56 tỷ USD thông qua phát hành cổ phiếu và trái phiếu chuyển đổi trong năm 2010
Tỷ lệ an toàn vốn tại ICBC và Ngân hàng Xây dựng Trung Quốc ở thời điểm cuối năm 2010 lần lượt ở mức 12,27% và 12,68%
Tỷ lệ an toàn vốn tại Bank of China ở mức 12,58% còn tại Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc ở mức khoảng 11,59% còn ở ngân hàng BoCom là 12,36%
Mức điều chỉnh hiện tại vẫn thấp hơn 14,87% so với 100 ngân hàng lớn nhất thế giới tính theo giá trị thị trường.
Fitch cho rằng sự phụ thuộc của các ngân hàng Trung Quốc vào tăng trưởng tín dụng để tạo ra lợi nhuận đồng nghĩa với việc họ cần huy động thêm vốn Ông Wen Chunling, chuyên gia phân tích tại Fitch ở Bắc Kinh, đã đưa ra nhận định này.
Các ngân hàng Trung Quốc đang phải đối mặt với thách thức về vốn trong dài hạn do không muốn giảm sự phụ thuộc vào tăng trưởng tín dụng Các quy định của Trung Quốc đang tập trung vào việc điều chỉnh hoạt động này để đảm bảo sự ổn định tài chính.
Quốc chính yêu cầu các ngân hàng tự trang bị đủ vốn nhằm chuẩn bị cho khả năng khủng hoảng, giúp giảm thiểu chi phí cứu trợ từ chính phủ khi khủng hoảng xảy ra.
1.4.4 Bài học kinh nghiệm tăng vốn tự có cho các ngân hàng ở VN:
Bài h ọ c t ă ng v ố n t ự có cho các ngân hàng VN
TH Ự C TR Ạ NG VÀ NH Ữ NG CHUY Ể N BI Ế N C Ủ A H Ệ
TH Ố NG NHTMCP VN SAU KHI T Ă NG V Ố N T Ự CÓ