1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Các nhân tố ảnh hưởng đến đổi mới sáng tạo sản phẩm trong các doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam.

211 66 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Đổi Mới Sáng Tạo Sản Phẩm Trong Các Doanh Nghiệp Khoa Học Và Công Nghệ Việt Nam
Tác giả Trần Lan Hương
Người hướng dẫn PGS.TS. Mai Ngọc Anh, TS. Nguyễn Hữu Xuyên
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Chuyên ngành Quản Lý Kinh Tế
Thể loại Luận Án Tiến Sĩ
Năm xuất bản 2021
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 211
Dung lượng 9,57 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ ĐỔI MỚI SÁNG TẠO SẢN PHẨM VÀ CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN ĐỔI MỚI SÁNG TẠO SẢN PHẨM 12 1.1. Tổng quan nghiên cứu về đổi mới sáng tạo (23)
    • 1.1.1. Tổng quan nghiên cứu về khái niệm và vai trò của đổi mới sáng tạo (23)
    • 1.1.2. Tổng quan nghiên cứu về phân loại đổi mới sáng tạo (26)
    • 1.2. Tổng quan nghiên cứu về kết quả đổi mới sáng tạo và đổi mới sáng tạo sản phẩm (29)
      • 1.2.1. Kết quả đổi mới sáng tạo (29)
      • 1.2.2. Đổi mới sáng tạo sản phẩm (31)
    • 1.3. Tổng quan nghiên cứu về các nhân tố tác động đến đổi mới sáng tạo sản phẩm (33)
      • 1.3.1. Các nhân tố nội sinh (34)
      • 1.3.2. Các nhân tố ngoại sinh (40)
  • CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN ĐỔI MỚI SÁNG TẠO SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ (43)
    • 2.1. Cơ sở lý luận về doanh nghiệp khoa học và công nghệ (43)
      • 2.1.1. Khái niệm và vai trò của doanh nghiệp khoa học & công nghệ (43)
      • 2.1.2. Động cơ thành lập doanh nghiệp khoa học & công nghệ............................36 2.1.3. Đặc trưng của doanh nghiệp khoa học và công nghệ trên thế giới và tại Việt Nam 37 (47)
      • 2.2.1. Lý thuyết về đổi mới sáng tạo đóng và mở (close and open innovation) (51)
      • 2.2.2. Lý thuyết về quan điểm dựa trên thể chế (institutional- based view) (63)
    • 2.3. Mô hình nghiên cứu và các giả thuyết nghiên cứu (66)
      • 2.3.1. Mô hình nghiên cứu đề xuất (66)
      • 2.3.2. Các giả thuyết nghiên cứu (73)
  • CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (80)
    • 3.1. Phương pháp thu thập dữ liệu (80)
      • 3.1.1. Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp (80)
      • 3.1.2. Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp (80)
    • 3.2. Phương pháp xử lý và phân tích dữ liệu (96)
      • 3.2.1. Chuẩn bị dữ liệu (96)
      • 3.2.2. Xử lý và phân tích dữ liệu (97)
  • CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (107)
    • 4.1. Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam (107)
      • 4.1.1. Sự hình thành của doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam (107)
      • 4.1.2. Các hỗ trợ, ưu đãi dành cho các doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt (115)
      • 4.1.5. Những thuận lợi và khó khăn của các doanh nghiệp khoa học và công nghệ 104 4.2. Đổi mới sáng tạo trong các doanh nghiệp khoa học và công nghệ (120)
      • 4.2.1. Thống kê mô tả chung về dữ liệu thu thập được từ khảo sát (124)
      • 4.2.2. Kết quả phân tích định lượng (135)
  • CHƯƠNG 5: BÀN LUẬN VỀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ KHUYẾN NGHỊ (154)
    • 5.1. Bàn luận về kết quả nghiên cứu (154)
      • 5.1.1. Mối quan hệ giữa đổi mới sáng tạo mở và đổi mới sáng tạo sản phẩm (154)
      • 5.1.2. Mối quan hệ giữa hỗ trợ nhà nước và đổi mới sáng tạo sản phẩm (159)
      • 5.1.3. Mối quan hệ giữa quy mô và đổi mới sáng tạo sản phẩm (160)
      • 5.1.4. Bàn luận về kết quả các giả thuyết nghiên cứu không được chấp nhận (161)
    • 5.2. Khuyến nghị nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo sản phẩm trong các doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam (165)
      • 5.2.1. Đối với nhà quản lý doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam (165)
      • 5.2.2. Đối với các nhà hoạch định và thực thi chính sách (167)
    • 5.3. Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo......................................................155 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐƯỢC (173)
  • PHỤ LỤC (56)

Nội dung

Các nhân tố ảnh hưởng đến đổi mới sáng tạo sản phẩm trong các doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam.Các nhân tố ảnh hưởng đến đổi mới sáng tạo sản phẩm trong các doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam.Các nhân tố ảnh hưởng đến đổi mới sáng tạo sản phẩm trong các doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam.Các nhân tố ảnh hưởng đến đổi mới sáng tạo sản phẩm trong các doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam.Các nhân tố ảnh hưởng đến đổi mới sáng tạo sản phẩm trong các doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam.

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ ĐỔI MỚI SÁNG TẠO SẢN PHẨM VÀ CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN ĐỔI MỚI SÁNG TẠO SẢN PHẨM 12 1.1 Tổng quan nghiên cứu về đổi mới sáng tạo

Tổng quan nghiên cứu về khái niệm và vai trò của đổi mới sáng tạo

1.1.1.1 Khái niệm đổi mới sáng tạo ĐMST (innovation) được coi là tiền đề tạo ra lợi thế cạnh tranh và có tính quyết định đối với sự tồn tại và phát triển không chỉ trong ngắn hạn mà còn mở đường cho tương lai lâu dài của mọi doanh nghiệp Những nghiên cứu trước về ĐMST đã chỉ ra rằng ĐMST giúp tạo ra lợi ích cho doanh nghiệp vì nó giảm giá thành và cải thiện chất lượng của sản phẩm/dịch vụ đang có và tạo ra các sản phẩm/dịch vụ mới hoặc cung cấp mô hình kinh doanh hay cách thức phân phối hàng hoá tốt hơn (Hauser và cộng sự,

2006) Vì thế, ĐMST là điều kiên tiên quyết để duy trì sự phát triển bền bững của doanh nghiệp trên thị trường trong nước hay quốc tế (Drucker, 2006).

Schumpeter (1926) đã phân biệt rõ ràng giữa sáng chế và đổi mới sáng tạo Sáng chế là ý tưởng hoặc mô hình cho sản phẩm, quy trình hoặc công nghệ mới, trong khi đổi mới sáng tạo là sản phẩm, quy trình hoặc công nghệ mới hoặc cải tiến đã thành công về mặt thương mại trên thị trường Do đó, thành công thương mại là điều kiện cần thiết để một sáng chế có thể trở thành đổi mới sáng tạo (De Jong và Brower, 1999, tr 14).

Kể từ khi được Schumpeter giới thiệu như là “những cách phối hợp mới” và “sự huỷ diệt mang tính sáng tạo”, thuật ngữ ĐMST (đổi mới sáng tạo) đã thu hút sự chú ý của nhiều học giả Keith & Theodore (1984) định nghĩa ĐMST là quá trình từ sáng chế đến phát triển và đưa ra thị trường các sản phẩm, quy trình hoặc dịch vụ mới Damanpour & Wischnevsky (2006) nhấn mạnh rằng ĐMST liên quan đến việc phát triển và áp dụng các ý tưởng mới trong tổ chức, có thể là sản phẩm, dịch vụ, phương pháp sản xuất, hoặc cấu trúc tổ chức mới Lundvall (2012) mô tả ĐMST như một quá trình “tích tụ bồi đắp”, bao gồm việc học hỏi và khám phá để tạo ra sản phẩm, kỹ thuật, hình thức tổ chức và thị trường mới Quá trình này có thể diễn ra nhanh chóng hoặc dần dần trong mọi tổ chức trong nền kinh tế Edison và cộng sự (2013) cùng De Jong & Brower (1999) đã tổng hợp hơn 50 định nghĩa về ĐMST, cho thấy sự đa dạng trong cách hiểu về khái niệm này.

Bảng 1.1 Một số khái niệm đổi mới sáng tạo

ĐMST, theo Acs & Audretsch (1988), là một quá trình bắt đầu từ việc sáng chế, tiếp tục phát triển các sáng chế và cuối cùng dẫn đến việc ra mắt sản phẩm, quy trình hoặc dịch vụ mới trên thị trường.

Đổi mới sáng tạo (ĐMST) được hiểu là việc áp dụng ý tưởng hoặc hành vi mới vào hệ thống, chính sách, chương trình, thiết bị, quy trình, sản phẩm hoặc dịch vụ trong tổ chức (Damanpour, 1992) Hành vi ĐMST bao gồm tất cả các hành động nhằm tạo ra, giới thiệu và áp dụng những đặc tính mới có lợi ở mọi cấp độ tổ chức (de Jong & Kemp, 2003).

Fruhling & Keng (2007) ĐMST là một ý tưởng, thực hành hoặc đối tượng được coi là mới đối với một cá nhân hoặc một đơn vị áp dụng khác.

Geiger & Cashen (2002) ĐMST là việc tạo ra sản phẩm mới trong công ty.

Theo Hage (1999), đổi mới sáng tạo (ĐMST) được hiểu là việc áp dụng một ý tưởng mới vào hành vi tổ chức Đổi mới có thể bao gồm sản phẩm mới, dịch vụ mới, công nghệ mới hoặc phương thức quản lý mới.

Theo Palmberg (2004), ĐMST được hiểu là sản phẩm mới về công nghệ hoặc sản phẩm đã được cải tiến đáng kể so với phiên bản trước đó của công ty, và đã được đưa ra thị trường.

Đổi mới (ĐMST) có mức độ phức tạp khác nhau, từ những thay đổi nhỏ trong sản phẩm, quy trình hoặc dịch vụ hiện có đến những đột phá lớn Nó có thể được hiểu là việc giới thiệu công nghệ hoặc sản phẩm mới (van Dale, 1992) ĐMST cũng phản ánh khả năng thích nghi và dự đoán của tổ chức trước những thay đổi trong môi trường (Buijs, 1987) Hơn nữa, sự phát triển và giới thiệu thành công các sản phẩm, dịch vụ, quy trình làm việc mới hoặc cải tiến đều liên quan đến sự thay đổi trong tổ chức, thị trường mới và cải tiến phong cách lãnh đạo (Timmerman, 1985).

Mọi sự đổi mới đều nhằm mục đích củng cố vị thế của tổ chức so với đối thủ cạnh tranh, từ đó tạo ra lợi thế cạnh tranh bền vững trong tương lai.

Nguồn: Edison và cộng sự (2013, tr 1395) và De Jong & Brower (1999, tr 14)

Tại Việt Nam, ĐMST (đổi mới sáng tạo) được định nghĩa là quá trình tạo ra và ứng dụng các thành tựu kỹ thuật, công nghệ, cùng với giải pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội Mục tiêu của ĐMST là cải thiện năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng cho sản phẩm và hàng hóa, theo quy định trong Luật Khoa học và công nghệ năm 2013.

Tổ chức hợp tác và Phát triển kinh tế OECD định nghĩa đổi mới (ĐMST) là việc áp dụng sản phẩm, quy trình, phương pháp marketing hoặc tổ chức mới trong thực tiễn Định nghĩa này được nhiều nhà nghiên cứu chấp nhận và sử dụng rộng rãi, đặc biệt trong các nghiên cứu và khảo sát về ĐMST ở Việt Nam và trên thế giới.

1.1.1.2 Vai trò của đổi mới sáng tạo

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cạnh tranh ngày càng gia tăng, đổi mới sáng tạo (ĐMST) đóng vai trò then chốt trong sự phát triển kinh tế và xã hội của các quốc gia ĐMST không chỉ tạo ra lợi thế cạnh tranh mà còn quyết định sự tồn tại và phát triển bền vững của doanh nghiệp Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng ĐMST giúp doanh nghiệp vượt trội hơn so với đối thủ và mở rộng ra thị trường mới Theo Porter (1996), hành vi ĐMST là yếu tố cốt lõi tạo nên sự khác biệt và thành công trong kinh doanh Các nghiên cứu của Lúpez-Nicolás & Meroño-Cerdán (2011) và Nguyễn Quốc Duy & Vũ Hồng Tuấn (2013) cũng khẳng định mối liên hệ giữa ĐMST, lợi thế cạnh tranh và kết quả hoạt động của doanh nghiệp Phan Thị Thục Anh & Nguyễn Thuỳ Dung (2015) nhấn mạnh rằng ĐMST tích cực sẽ thúc đẩy sự phát triển cả về lượng và chất của tổ chức Theo World Bank (2013), để đạt được sự phát triển bền vững và tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, các quốc gia, đặc biệt là Việt Nam, cần chú trọng vào việc nâng cao năng suất lao động thông qua khoa học, công nghệ và ĐMST.

Tổng quan nghiên cứu về phân loại đổi mới sáng tạo

Đổi mới sáng tạo (ĐMST) có thể được hiểu là sự phát sinh từ một ý tưởng mới, sự kết hợp của các ý tưởng cũ, hoặc là một cách tiếp cận độc đáo thách thức trật tự hiện tại ĐMST tồn tại dưới nhiều hình thức đa dạng, bao gồm phát triển sản phẩm, thị trường mới, công nghệ, quy trình, tổ chức và môi trường.

Đổi mới sáng tạo không chỉ giới hạn trong công nghệ mà còn bao gồm cả những ý tưởng mới về kỹ thuật và quản lý hành chính.

Đổi mới sáng tạo (ĐMST) được chia thành hai loại chính: ĐMST kỹ thuật, bao gồm công nghệ, sản phẩm và dịch vụ mới, và ĐMST hành chính, liên quan đến quá trình, chính sách và cơ cấu tổ chức mới Bài viết này sẽ phân loại ĐMST dựa trên các tiêu chí phổ biến trong nhiều nghiên cứu hiện nay, nhằm làm rõ sự phức tạp và đa dạng trong đặc điểm của ĐMST.

1.1.2.1 Theo loại hình đổi mới sáng tạo

Theo khái niệm của OECD (2005) đã nhắc đến ở trên thì có 04 loại hình ĐMST bao gồm: ĐMST tạo sản phẩm, ĐMST quy trình, ĐMST marketing và ĐMST tổ chức 3

Tại Việt Nam, phân chia của OECD được xem là nền tảng để phân loại đổi mới sáng tạo Doanh nghiệp hoạt động đổi mới sáng tạo (ĐMST) là những doanh nghiệp thực hiện các nội dung ĐMST và thể hiện cụ thể qua một trong bốn hoạt động cơ bản.

(1) ĐMST sản phẩm (hàng hóa và dịch vụ); (2) ĐMST quy trình, công nghệ, thiết bị;

ĐMST được chia thành hai nhóm chính: tổ chức và quản lý, và tiếp thị Hoạt động ĐMST công nghệ bao gồm các hoạt động liên quan đến tổ chức và quản lý, cũng như tiếp thị Theo OECD (2005), các loại hình ĐMST được định nghĩa rõ ràng, nhấn mạnh vai trò quan trọng của ĐMST trong phát triển thị trường và doanh nghiệp khoa học và công nghệ.

Đổi mới sản phẩm là quá trình tạo ra và giới thiệu các sản phẩm hoặc dịch vụ mới, hoặc cải tiến đáng kể so với các sản phẩm hiện có Điều này bao gồm việc nâng cấp các đặc điểm kỹ thuật, thành phần, chất liệu, phần mềm, tính thân thiện với người dùng, và các chức năng khác, nhằm mang lại giá trị gia tăng cho người tiêu dùng.

Gần đây, OECD (2018, tr.32) đã điều chỉnh định nghĩa về đổi mới sáng tạo (ĐMST) thành: “Đổi mới là một sản phẩm và/hoặc quy trình mới hoặc được cải tiến đáng kể so với các sản phẩm hoặc quy trình trước đây của đơn vị, đã được cung cấp cho người dùng tiềm năng (sản phẩm) hoặc được đơn vị sử dụng (quy trình)” Sự thay đổi này nhằm đơn giản hóa định nghĩa ĐMST, từ bốn loại trước đây (sản phẩm, quy trình, tổ chức và tiếp thị) xuống còn hai loại chính: ĐMST sản phẩm và ĐMST quy trình kinh doanh Định nghĩa mới cũng làm rõ yêu cầu về sự thay đổi “đáng kể” bằng cách so sánh cả các cải tiến mới và cải tiến với các sản phẩm hoặc quy trình kinh doanh hiện có.

Đổi mới quy trình là việc áp dụng một phương pháp sản xuất hoặc phân phối mới hoặc cải tiến đáng kể, bao gồm những thay đổi quan trọng về kỹ thuật, thiết bị và phần mềm.

ĐMST tiếp thị là việc áp dụng các phương pháp tiếp thị mới, bao gồm những thay đổi quan trọng trong thiết kế hoặc bao bì sản phẩm, vị trí sản phẩm, quảng cáo và định giá sản phẩm.

ĐMST tổ chức đề cập đến việc áp dụng phương pháp tổ chức mới trong kinh doanh, bao gồm cải cách cơ cấu tổ chức tại nơi làm việc và mối quan hệ bên ngoài doanh nghiệp Điều này bao gồm những thay đổi trong kiến trúc sản xuất, cùng với việc đổi mới trong quản lý, quản trị doanh nghiệp, hệ thống tài chính và chế độ đãi ngộ nhân viên.

1.1.2.2 Theo mức độ đổi mới về công nghệ của đổi mới sáng tạo

ĐMST không đột phá (cải tiến) đề cập đến những thay đổi nhỏ trong công nghệ, dựa trên các nền tảng hiện có, mang lại lợi ích gia tăng tương đối thấp cho khách hàng.

Đổi mới sáng tạo (ĐMST) có khả năng tạo ra đột phá trên thị trường bằng cách sử dụng công nghệ cốt lõi tương tự như các sản phẩm hiện có, nhưng mang lại lợi ích vượt trội cho khách hàng với giá trị cao hơn đáng kể trên mỗi đô la.

Đổi mới sáng tạo (ĐMST) có tính đột phá về công nghệ khi áp dụng những công nghệ hoàn toàn mới so với các sản phẩm hiện tại Tuy nhiên, những đổi mới này không mang lại lợi ích vượt trội cho khách hàng trên mỗi đô la chi tiêu.

Đổi mới sáng tạo (ĐMST) có tính đột phá toàn diện là những cải tiến mang lại tính năng mới lần đầu tiên xuất hiện hoặc tạo ra kết quả vượt trội Những ĐMST này sử dụng công nghệ khác biệt đáng kể, có khả năng biến đổi thị trường hiện tại hoặc tạo ra thị trường mới, đồng thời cung cấp trải nghiệm tiện ích mới cho khách hàng.

1.1.2.3 Theo tính mới của đổi mới sáng tạo

Theo tính mới, Đổi mới sáng tạo (ĐMST) được phân loại thành bốn loại chính: mới đối với doanh nghiệp, mới đối với thị trường hiện tại, mới đối với ngành và mới đối với thế giới.

Tổng quan nghiên cứu về kết quả đổi mới sáng tạo và đổi mới sáng tạo sản phẩm

Khái niệm đổi mới sáng tạo (ĐMST) rất đa dạng và không thống nhất, bởi vì nó bao gồm nhiều giai đoạn và hoạt động khác nhau, dẫn đến các kết quả khác nhau (Wan và cộng sự, 2005; Mannan & Haleem, 2017) Để đảm bảo độ sâu cho nghiên cứu, tác giả sẽ giới hạn phạm vi nghiên cứu vào kết quả ĐMST (innovation performance) thay vì toàn bộ quá trình ĐMST Mặc dù kết quả ĐMST là một khái niệm rộng, nghiên cứu này sẽ tập trung vào loại hình phổ biến nhất của kết quả đổi mới sáng tạo, đó là đổi mới sáng tạo sản phẩm (product innovation) Do đó, nhân tố mục tiêu trong nghiên cứu này là ĐMST sản phẩm.

1.2.1 Kết quả đổi mới sáng tạo

Kết quả ĐMST (đổi mới sáng tạo) phản ánh mức độ thành công của doanh nghiệp trong việc đạt được các mục tiêu liên quan đến sản phẩm và dịch vụ mới Theo Henard & Szymanski (2001), điều này thể hiện khả năng của doanh nghiệp trong việc phát triển và triển khai các ý tưởng mới Dodgson và các cộng sự (2014) cũng định nghĩa ĐMST là thành công trong việc ứng dụng những ý tưởng mới thông qua việc kết hợp các nguồn lực khác nhau.

Khái niệm về kết quả đổi mới sáng tạo được đo lường qua nhiều nghiên cứu, trong đó Saunila (2017) đã chỉ ra bốn dạng kết quả: đầu vào, quá trình, đầu ra và hậu quả Kết quả đầu vào bao gồm các nguồn lực như nhân sự, kinh phí, thiết bị và ý tưởng cần thiết cho sự đổi mới Kết quả quá trình phản ánh cơ chế chuyển đổi giữa đầu vào và đầu ra, với các thước đo như thời gian, chi phí, chất lượng và tiến độ dự án Kết quả đầu ra là những thành quả trực tiếp từ quá trình đổi mới sáng tạo.

Trong nghiên cứu này, thuật ngữ ĐMST sản phẩm được hiểu là kết quả của đổi mới sáng tạo, không phải quá trình này Quá trình ĐMST sản phẩm, theo Mannan & Haleem (2017), là một chu trình phức tạp bắt đầu từ thiết kế và kết thúc với sản phẩm hoàn thiện, mang lại sự hài lòng cho khách hàng Nghiên cứu kết quả ĐMST đầu ra giúp làm rõ xu hướng và sự phát triển của đổi mới sáng tạo theo thời gian Kết quả ĐMST tác động phản ánh thành công của đổi mới trên thị trường, tập trung vào doanh thu, lợi nhuận, thị phần và sự hài lòng của khách hàng (Janssen và cộng sự).

Nghiên cứu của Rauter và cộng sự (2019) đã làm rõ hai khía cạnh quan trọng của kết quả đổi mới sáng tạo (ĐMST), bao gồm kết quả kinh tế và kết quả bền vững Kết quả kinh tế của ĐMST được đánh giá qua sự tăng trưởng doanh thu, thị phần và mức độ hài lòng của khách hàng Ngược lại, kết quả bền vững của ĐMST được xem xét từ nhiều góc độ như tính bền vững của sản phẩm/dịch vụ, giảm ô nhiễm môi trường, hiệu quả sử dụng nguồn lực và tác động xã hội tích cực.

Một số nghiên cứu đã sử dụng hoạt động đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ (sáng chế) như là thước đo cho đổi mới sáng tạo, ví dụ như Katila & Ahuja (2002) Sáng chế không chỉ giúp bảo vệ đổi mới sáng tạo khỏi nguy cơ bị bắt chước mà còn tạo ra lợi nhuận cho các công ty khi được bán cho bên thứ ba Tuy nhiên, hành vi đăng ký sáng chế thường liên quan đến quy mô doanh nghiệp, với các công ty lớn có xu hướng đăng ký nhiều hơn so với các doanh nghiệp nhỏ (Klevorick và cộng sự, 1995).

Trong mối quan hệ giữa đổi mới sáng tạo (ĐMST) mở và kết quả của ĐMST, các kết quả được đo lường qua nhiều chỉ số như năng lực đổi mới, khả năng đưa sản phẩm mới ra thị trường, mức độ đột phá của sản phẩm/dịch vụ, và sự giảm chi phí cũng như thời gian phát triển Ngoài ra, sự gia tăng doanh số bán hàng và doanh thu từ hoạt động ĐMST cũng là những yếu tố quan trọng Trong khi một số nghiên cứu cho rằng tăng trưởng và doanh thu là động lực chính cho ĐMST mở, thì cũng có ý kiến đề xuất rằng các chỉ số phi tiền tệ như mức độ hài lòng của khách hàng và việc tiếp nhận tri thức mới cũng cần được xem xét để đo lường hiệu quả đổi mới sáng tạo.

Năm 2009, nghiên cứu của Huang đã chỉ ra rằng cường độ R&D (nội sinh) không nên được xem là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến đổi mới sáng tạo mở hay kết quả đổi mới sáng tạo Thay vào đó, biến số này chỉ được sử dụng như một thước đo gián tiếp cho kết quả đổi mới sáng tạo, điều này được coi là một hạn chế trong nghiên cứu của ông.

Cường độ R&D không phải là thước đo duy nhất cho kết quả đổi mới sáng tạo (ĐMST), vì nó không phản ánh quá trình thương mại hóa kết quả R&D, một yếu tố quan trọng cho sự thành công của ĐMST Trong cơ chế ĐMST mở, hoạt động R&D ngoại sinh cũng đóng vai trò quan trọng bên cạnh R&D nội bộ Nhiều nghiên cứu đã sử dụng các biến quan sát để đo lường kết quả ĐMST, chẳng hạn như Laursen & Salter (2006) và Cheng & Huizingh (2014), với bốn thước đo chính: mức độ đổi mới sản phẩm/dịch vụ, mức độ thành công sản phẩm/dịch vụ mới, kết quả khách hàng và kết quả tài chính Mức độ đổi mới phản ánh tính đột phá, trong khi mức độ thành công cho thấy khả năng cạnh tranh trên thị trường Kết quả khách hàng liên quan đến sự hài lòng và trung thành, trong khi kết quả tài chính đề cập đến lợi nhuận và doanh thu từ đổi mới sáng tạo.

1.2.2 Đổi mới sáng tạo sản phẩm

Đổi mới sáng tạo sản phẩm (ĐMST) nhận được sự quan tâm lớn từ các học giả, với nghiên cứu của Becheikh và cộng sự (2006) cho thấy hơn 80% nghiên cứu về ĐMST tập trung vào sản phẩm Theo Linder và cộng sự (2003), quản lý ĐMST sản phẩm là ưu tiên hàng đầu Nghiên cứu này sẽ giới hạn vào ĐMST sản phẩm vì doanh nghiệp hoạt động theo mô hình DNKH&CN cần ĐMST sản phẩm để duy trì hoạt động và nhận hỗ trợ từ Chính phủ ĐMST sản phẩm là loại hình phổ biến nhất trong các kết quả ĐMST và có vai trò quan trọng trong việc tạo lợi thế cạnh tranh cũng như duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp OECD (2005) định nghĩa ĐMST sản phẩm là việc giới thiệu sản phẩm mới hoặc cải tiến đáng kể về tính năng so với sản phẩm hiện có, bao gồm cả hàng hóa và dịch vụ Sản phẩm được coi là ĐMST khi có sự khác biệt đáng kể so với sản phẩm trước đó ĐMST sản phẩm có thể sử dụng công nghệ mới hoặc kết hợp công nghệ cũ theo cách mới, như máy nghe nhạc MP3 đầu tiên Các thước đo ĐMST sản phẩm có thể bao gồm việc doanh nghiệp có giới thiệu sản phẩm/dịch vụ mới hay không, với thước đo đầu tiên bao gồm cả cải tiến nhỏ, trong khi thước đo thứ hai chỉ tập trung vào những ĐMST thực sự mới trên thị trường (De Jong & Vermeulen, 2006).

Năm 1989, tác giả đã bổ sung một thước đo mới liên quan đến tần suất cải tiến sản phẩm/dịch vụ bên cạnh hai thước đo đã có Spithoven và cộng sự (2013) cũng áp dụng hai thước đo, bao gồm việc doanh nghiệp có giới thiệu sản phẩm hoặc dịch vụ mới hoặc cải tiến đáng kể ra thị trường hay không, cùng với tỷ lệ doanh thu từ những sản phẩm/dịch vụ này.

Laursen & Salter (2006) đã áp dụng ba thước đo để đánh giá ĐMST sản phẩm, trong đó có một biến đo lường tỉ lệ doanh thu từ các sản phẩm mang tính đột phá công nghệ, tức là mới mẻ trên thị trường toàn cầu ĐMST đột phá yêu cầu nguồn lực đặc biệt và có thể mang lại lợi nhuận lớn, nhưng thường tốn nhiều thời gian hơn so với ĐMST không đột phá Hai biến số còn lại đo lường tỉ lệ doanh thu từ các ĐMST sản phẩm mới chỉ đối với doanh nghiệp và tỉ lệ doanh thu từ các cải tiến đáng kể về sản phẩm, được gọi là ĐMST không có tính đột phá về công nghệ.

Vega-Jurado và cộng sự (2008) đã phát triển một thước đo mang tên mức độ ĐMST sản phẩm, trong đó biến phụ thuộc ĐMST sản phẩm có thể đạt được ba giá trị khác nhau.

Tổng quan nghiên cứu về các nhân tố tác động đến đổi mới sáng tạo sản phẩm

1.3 Tổng quan nghiên cứu về các nhân tố tác động đến đổi mới sáng tạo sản phẩm

Đổi mới sáng tạo (ĐMST) đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển và duy trì lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp, do đó, việc xây dựng mô hình và xác định các yếu tố ảnh hưởng đến ĐMST sản phẩm là cần thiết Nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đã chỉ ra các yếu tố tác động đến ĐMST sản phẩm, nhưng kết quả lại không thống nhất Theo Souitaris (1999), sự đa dạng và không đồng nhất trong tác động của các yếu tố đến ĐMST xuất phát từ đặc điểm, khái niệm và cách đo lường của ĐMST cũng như đặc điểm của các doanh nghiệp được khảo sát.

5 Nghiên cứu vẫn sử dụng thuật ngữ kết quả ĐMST (innovation performance)

Souitaris (1999), dựa trên nghiên cứu của Tidd & Trewhella (1997), đã phát triển một mô hình phân loại các yếu tố ảnh hưởng đến đổi mới sáng tạo (ĐMST) sản phẩm và quy trình, chia thành bốn nhóm chính: (1) Các biến giao tiếp bên ngoài, phản ánh khả năng tương tác và tiếp nhận thông tin từ bên ngoài; (2) Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, thể hiện các yếu tố bối cảnh và cơ chế thực thi, bao gồm kỹ năng kỹ thuật và tổ chức; (3) Các biến số chiến lược liên quan đến lập kế hoạch kinh doanh và thái độ của các nhà quyết định; (4) Các biến số kinh tế mô tả đặc điểm nhân khẩu của doanh nghiệp như quy mô, độ tuổi và khả năng sinh lời.

Đổi mới sáng tạo (ĐMST) sản phẩm bị ảnh hưởng bởi hai nhóm nhân tố chính: nhân tố bên trong, là những yếu tố nằm trong sự kiểm soát của doanh nghiệp và ảnh hưởng đến năng lực đổi mới của họ, và nhân tố bên ngoài, là những yếu tố vượt ra ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp nhưng vẫn tác động đến ĐMST Nghiên cứu của Edison và cộng sự (2013) đã xác định 244 nhân tố ảnh hưởng đến ĐMST trong ngành công nghiệp phần mềm và phân loại chúng thành hai nhóm trên Phương pháp phân loại này đơn giản hơn so với cách tiếp cận của Souitaris (1999), giúp tránh bỏ sót các biến số quan trọng như chính phủ và các chính sách công.

1.3.1 Các nhân tố nội sinh

Số lượng các nhân tố ảnh hưởng đến đổi mới sáng tạo (ĐMST) của tổ chức rất đa dạng Nghiên cứu này sẽ áp dụng phương pháp phân loại của Becheikh và cộng sự (2006) để phân tích các nhân tố nội bộ tác động đến ĐMST sản phẩm, theo cách mà Nguyễn Quốc Duy (2015) và Dziallas & Blind (2019) đã thực hiện trong nghiên cứu của họ Tuy nhiên, việc phân nhóm này chỉ mang tính tương đối và chưa phản ánh đầy đủ các đặc điểm cũng như số lượng biến số tác động, đặc biệt là các biến nội sinh Một số biến thuộc nhóm nhân tố hoạt động ĐMST mở được xem là nội sinh nhưng lại được tách riêng do chứa các cấu phần mà nghiên cứu trước đây coi là ngoại sinh Phần tiếp theo sẽ tổng kết một số biến nội sinh nổi bật trong các nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng đến ĐMST sản phẩm.

1.3.1.1 Các nhân tố phản ánh thuộc tính chung của doanh nghiệp

Quy mô doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng trong việc đánh giá tác động đến đổi mới sáng tạo (ĐMST), với những quan điểm trái chiều về mối quan hệ giữa chúng Theo Schumpeter (1934), doanh nghiệp khởi nghiệp nhỏ có tiềm năng lớn về ý tưởng và công nghệ, nhưng ông cũng nhấn mạnh rằng ĐMST thường tỷ lệ thuận với quy mô doanh nghiệp (2017) Doanh nghiệp lớn có lợi thế về nguồn lực và khả năng tham gia vào các hoạt động R&D, sản xuất và marketing, giúp gia tăng khả năng ĐMST Tuy nhiên, một số nghiên cứu, như của Frit (1989), cho thấy quy mô lớn có thể dẫn đến ĐMST sản phẩm thấp hơn, trong khi các nghiên cứu khác lại chứng minh rằng quy mô lớn hơn đồng nghĩa với khả năng ĐMST cao hơn (Vega-Jurado và cộng sự, 2008; Parida và cộng sự, 2012; Pham và Matsunaga, 2019) Độ tuổi doanh nghiệp cũng ảnh hưởng đến ĐMST, với doanh nghiệp lâu đời thường có tích lũy kiến thức và mạng lưới quan hệ, nhưng lại khó khăn trong việc thích nghi với thay đổi do thói quen làm việc cũ, dẫn đến khả năng ĐMST thấp hơn so với doanh nghiệp trẻ (Nguyễn Quốc Duy, 2015; Pham & Matsunaga, 2019).

Các nhân tố thuộc tính như đặc điểm nguồn vốn, cơ cấu vốn góp và cường độ vốn góp đều có ảnh hưởng quan trọng đến đổi mới sáng tạo sản phẩm Việc xem xét những yếu tố này giúp hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa nguồn lực tài chính và khả năng phát triển sản phẩm mới.

& Santarelli, 2013; Gómezar và cộng sự, 2016; T V Nguyen và cộng sự, 2016), kết quả hoạt động của thời kì trước (Pham & Matsunaga, 2019).

1.3.1.2 Các nhân tố phản ánh chiến lược của doanh nghiệp

Nghiên cứu này chỉ ra rằng chiến lược tăng trưởng của doanh nghiệp có thể bị ảnh hưởng bởi mức độ chuyên môn hóa hay đa dạng hóa Chuyên môn hóa, thông qua việc tăng cường số lượng các đơn vị và cá nhân xuất sắc trong tổ chức, có thể thúc đẩy đổi mới sáng tạo (ĐMST) bằng cách tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề cụ thể (Robertson & Langlois, 1995) Ngược lại, chiến lược đa dạng hóa thường đi kèm với các biện pháp kiểm soát tài chính, có thể dẫn đến định hướng ngắn hạn và tránh rủi ro, từ đó cản trở hoạt động phát triển công nghệ và sản phẩm mới (Becheikh và cộng sự, 2006).

Doanh nghiệp thường đối mặt với hai lựa chọn: hạn chế hoạt động trong thị trường nội địa hoặc mở rộng ra quốc tế Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng xuất khẩu và quốc tế hóa có tác động tích cực đến sự đổi mới Cụ thể, các doanh nghiệp có xu hướng quốc tế hóa cao thường có khả năng đổi mới tốt hơn.

Để giữ vững sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế, các công ty cần phải liên tục đổi mới và sáng tạo.

Các chiến lược đa dạng hóa sản phẩm (Pham & Matsunaga, 2019) và chiến lược xuất khẩu (Gómez và cộng sự, 2016) là những yếu tố chiến lược quan trọng của tổ chức, có ảnh hưởng đáng kể đến đổi mới sáng tạo sản phẩm.

1.3.1.3 Các nhân tố thuộc về văn hoá doanh nghiệp

Văn hóa tổ chức được hiểu là những giá trị, niềm tin và giả định chung giữa các thành viên Nghiên cứu đã chỉ ra rằng văn hóa đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo (ĐMST), vì nó giúp các thành viên chấp nhận ĐMST như một giá trị cốt lõi Điều này không chỉ khuyến khích hành vi đổi mới mà còn hướng các cá nhân đến việc sáng tạo Bằng chứng thực nghiệm cũng cho thấy mối liên hệ đáng kể giữa văn hóa tổ chức và ĐMST sản phẩm.

1.3.1.4 Các nhân tố thuộc về đội ngũ quản lý/lãnh đạo doanh nghiệp

Nhà lãnh đạo hoặc quản lý doanh nghiệp là những cá nhân chịu trách nhiệm thành lập và điều hành hoạt động của doanh nghiệp với mục tiêu tăng trưởng và lợi nhuận Họ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo (ĐMST) nhờ vào quyền lực tổ chức và huy động nguồn lực, cũng như xây dựng chiến lược cho tổ chức Các đặc điểm của nhà lãnh đạo/ quản lý bao gồm giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn, đào tạo chuyên môn, kinh nghiệm, tính cách và quan niệm về chi phí, rủi ro, cũng như lợi ích từ ĐMST (Caird, 1994).

Theo Koellinger (2008), bằng cấp và kinh nghiệm là hai yếu tố quan trọng của doanh nhân đổi mới sáng tạo Những người có trình độ học vấn cao thường thể hiện sự sáng tạo, linh hoạt và nhận thức tốt hơn về các ý tưởng đổi mới Kinh nghiệm làm việc và kỹ năng tích lũy của doanh nhân không chỉ nâng cao năng lực mà còn giúp họ xây dựng mạng lưới quan hệ rộng rãi, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho sự đổi mới trong doanh nghiệp.

Nghiên cứu của Albaladejo (2002) chỉ ra rằng bằng cấp không ảnh hưởng đến đổi mới sáng tạo (ĐMST), trong khi kinh nghiệm làm việc trong môi trường khoa học lại góp phần quan trọng vào việc nâng cao ĐMST sản phẩm của doanh nghiệp Tại Việt Nam, Pham & Matsunaga cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của kinh nghiệm trong bối cảnh này.

Nghiên cứu năm 2019 cho thấy có mối liên hệ giữa bằng cấp phổ thông và đổi mới sáng tạo (ĐMST) sản phẩm, trong khi đó, các bằng cấp nghề nghiệp chuyên nghiệp và kinh nghiệm lại không có sự liên kết với ĐMST sản phẩm.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN ĐỔI MỚI SÁNG TẠO SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

BÀN LUẬN VỀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ KHUYẾN NGHỊ

Ngày đăng: 21/08/2021, 08:05

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Ahuja, G. (2000), 'Collaboration networks, structural holes, and innovation: A longitudinal study', Administrative Science Quarterly, 45(3), 425–455 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Administrative Science Quarterly
Tác giả: Ahuja, G
Năm: 2000
2. Anderson, N., Potočnik, K., & Zhou, J. (2014), 'Innovation and Creativity in Organizations: A State-of-the-Science Review, Prospective Commentary, and Guiding Framework', Journal of Management, 40(5), 1297–1333 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Journal of Management
Tác giả: Anderson, N., Potočnik, K., & Zhou, J
Năm: 2014
3. Anokhin, S., Wincent, J., & Frishammar, J. (2011), 'A conceptual framework for misfit technology commercialization', Technological Forecasting and Social Change, 78(6), 1060–1071 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Technological Forecasting and SocialChange
Tác giả: Anokhin, S., Wincent, J., & Frishammar, J
Năm: 2011
4. Argente, D., Baslandze, S., Hanley, D., & Moreira, S. (2020), Patents to Products: Product Innovation and Firm Dynamics (FRB Atlanta Working Paper No. 2020– Sách, tạp chí
Tiêu đề: Patents toProducts: Product Innovation and Firm Dynamics
Tác giả: Argente, D., Baslandze, S., Hanley, D., & Moreira, S
Năm: 2020
4) SSRN Electronic Journal, truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2020, từ [https://doi.org/10.2139/ssrn.3577811] Sách, tạp chí
Tiêu đề: SSRN Electronic Journal
5. Arora, A., Greenstein, S., & Mahony, J. T. (2002), 'Markets for Technology: The Economics of Innovation and Corporate Strategy.', Academy of Management Review, 27(4), 624–626 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Academy of ManagementReview
Tác giả: Arora, A., Greenstein, S., & Mahony, J. T
Năm: 2002
6. Backer, D. K., López-Bassols, V., & Martínez, C. (2008), Open Innovation in a Global Perspective - What do existing Data tell us? OECD Science, Technology and Industry Working Papers, Vol 2008, Paris Sách, tạp chí
Tiêu đề: Open Innovation in aGlobal Perspective - What do existing Data tell us? OECD Science, Technologyand Industry Working Papers
Tác giả: Backer, D. K., López-Bassols, V., & Martínez, C
Năm: 2008
7. Baker, W. E., & Sinkula, J. M. (1999), 'The synergistic effect of market orientation and learning orientation on organizational performance', Journal of the Academy of Marketing Science, 27(4), 411–427 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Journal ofthe Academy of Marketing Science
Tác giả: Baker, W. E., & Sinkula, J. M
Năm: 1999
8. Barasa, L., Knoben, J., Vermeulen, P., Kimuyu, P., & Kinyanjui, B. (2017), 'Institutions, resources and innovation in East Africa: A firm level approach', Research Policy, 46(1), 280–291 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Research Policy
Tác giả: Barasa, L., Knoben, J., Vermeulen, P., Kimuyu, P., & Kinyanjui, B
Năm: 2017
9. Becheikh, N., Landry, R., & Amara, N. (2006), 'Lessons from innovation empirical studies in the manufacturing sector: A systematic review of the literature from 1993-2003', Technovation, 26(5–6), 644–664 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Technovation
Tác giả: Becheikh, N., Landry, R., & Amara, N
Năm: 2006
10. Belderbos, R., Carree, M., & Lokshin, B. (2004), 'Cooperative R&D and Firm Performance', Research Policy, 33(10), 1477–1492 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Research Policy
Tác giả: Belderbos, R., Carree, M., & Lokshin, B
Năm: 2004
11. Bernardt, Y., Meijaard, J., & Kerste, R. (2002), 'Spin-off start-ups in the Netherlands At First Glance', eim - business & policy research, , truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2020, từ [http://scholar.google.com/scholar?hl=en&btnG=Search&q=intitle:Spin-off+start-ups+in+the+Netherlands+At+First+Glance#0] Sách, tạp chí
Tiêu đề: eim - business & policy research
Tác giả: Bernardt, Y., Meijaard, J., & Kerste, R
Năm: 2002
12. Bhattacharya, M., & Bloch, H. (2004), 'Determinants of innovation', Small Business Economics, 22(2), 155–162 Sách, tạp chí
Tiêu đề: SmallBusiness Economics
Tác giả: Bhattacharya, M., & Bloch, H
Năm: 2004
13. Bianchi, M., Campodall’Orto, S., Frattini, F., & Vercesi, P. (2010), 'Enabling open innovation in small- and medium-sized enterprises: How to find alternative applications for your technologies', R and D Management, 40(4), 414–431 Sách, tạp chí
Tiêu đề: R and D Management
Tác giả: Bianchi, M., Campodall’Orto, S., Frattini, F., & Vercesi, P
Năm: 2010
14. Blazevic, V., & Lievens, A. (2004), 'Learning during the new financial service innovation process - Antecedents and performance effects', Journal of Business Research, 57(4), 374–391 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Journal of BusinessResearch
Tác giả: Blazevic, V., & Lievens, A
Năm: 2004
16. Brunswicker, S., & Chesbrough, H. (2018), 'The Adoption of Open Innovation in Large Firms', Research-Technology Management, 61(1), 35–45 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Research-Technology Management
Tác giả: Brunswicker, S., & Chesbrough, H
Năm: 2018
17. Burns, T., & Stalker, G. M. (1961), 'The Management of innovation: mechanistic and organic systems', trong: Classics of Organization theory, Tavistock, London Sách, tạp chí
Tiêu đề: Classics of Organization theory
Tác giả: Burns, T., & Stalker, G. M
Năm: 1961
18. Caird, S. (1994), 'How important is the innovator for the commercial success of innovative products in SMEs?', Technovation, 14(2), 71–83 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Technovation
Tác giả: Caird, S
Năm: 1994
19. Carayannis, E. G., & Provance, M. (2008), 'Measuring firm innovativeness:towards a composite innovation index built on firm innovative posture, propensity and performance attributes', International Journal of Innovation and Regional Development, 1(1), 90 Sách, tạp chí
Tiêu đề: International Journal of Innovation andRegional Development
Tác giả: Carayannis, E. G., & Provance, M
Năm: 2008
20. Chamanski, A., & Waagứ, S. J. (2001), 'Organizational Performance of Technology-Based Firms – the Role of Technology and Business Strategies', Enterprise and Innovation Management Studies, 2(3), 205–223 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Enterprise and Innovation Management Studies
Tác giả: Chamanski, A., & Waagứ, S. J
Năm: 2001

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w