Lý luận cơ bản về lãi suất trong nền kinh tế
Khái niệm lãi suất
Lãi suất là một khái niệm kinh tế phức tạp, phản ánh mối quan hệ giữa giá cả và lợi ích vật chất trong xã hội Nó chịu sự tác động của nhiều yếu tố và quy luật cung cầu, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của nền kinh tế.
Nhà kinh tế học Pháp A Poial nhấn mạnh rằng lãi suất có thể là một công cụ tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế, nhưng cũng có thể trở thành yếu tố kìm hãm sự phát triển, phụ thuộc vào cách thức sử dụng của con người.
K.Marx định nghĩa lãi suất là giá cả của vốn cho vay, tương tự như giá cả của hàng hóa, và được biểu hiện bằng tiền Nguồn gốc của lãi suất xuất phát từ giá trị thặng dư, với lãi suất đại diện cho giá trị của quyền sử dụng vốn.
Theo các nhà kinh tế học hiện đại, lãi suất được xem như giá mua và bán quyền sử dụng vốn, với lãi suất tiền gửi tiết kiệm là phần thưởng cho việc tiết chế tiêu dùng hiện tại nhằm đạt được tiêu dùng lớn hơn trong tương lai Lãi suất là chi phí cho việc sử dụng vốn trên bất kỳ thị trường nào và nó điều chỉnh để đạt được mức cân bằng giữa tổng cầu và tổng cung về vốn.
Lãi suất có thể được hiểu là chi phí để sử dụng một đơn vị vốn vay trong một khoảng thời gian nhất định Mức lãi suất cao hay thấp phụ thuộc vào mối quan hệ giữa cung và cầu vốn Trên thị trường, lãi suất được thể hiện dưới dạng lãi suất danh nghĩa, trong khi lãi suất thực là lãi suất đã được điều chỉnh theo những biến động dự kiến về giá cả.
Phân loại lãi suất
Có nhiều cách phân loại lãi suất khác nhau, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, có ba cách phân loại như sau:
1.1.2.1 Theo tính ch ấ t c ủ a kho ả n vay
Lãi suất chiết khấu là tỷ lệ phần trăm áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay thông qua hình thức chiết khấu thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh toán Tỷ lệ này được tính dựa trên mệnh giá của các giấy tờ có giá.
Lãi suất tái chiết khấu là tỷ lệ áp dụng khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho các ngân hàng trung gian vay thông qua việc chiết khấu các thương phiếu hoặc giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán Tỷ lệ này được tính bằng phần trăm trên mệnh giá của các giấy tờ có giá.
Lãi suất liên ngân hàng là tỷ lệ lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay trên thị trường liên ngân hàng Tỷ lệ này được hình thành dựa trên quan hệ cung cầu vốn vay và chịu ảnh hưởng từ lãi suất cho vay của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đối với các ngân hàng trung gian Mức độ ảnh hưởng này phụ thuộc vào sự phát triển của hoạt động thị trường mở và tỷ trọng sử dụng vốn vay từ NHNN của các ngân hàng trung gian.
Lãi suất cơ bản là lãi suất mà các ngân hàng sử dụng làm nền tảng để xác định mức lãi suất kinh doanh của mình Tùy thuộc vào từng quốc gia, lãi suất cơ bản có thể do Ngân hàng Nhà nước quy định như ở Nhật Bản, hoặc do các ngân hàng tự xác định dựa trên tình hình hoạt động của họ như ở Mỹ, Anh, và Úc Ngoài ra, một số quốc gia như Malaysia xác định lãi suất cơ bản dựa trên lãi suất của các ngân hàng hàng đầu, cộng hoặc trừ một biên độ nhất định Mặc dù có sự khác biệt, lãi suất cơ bản của hầu hết các nước đều dựa trên nguyên tắc thị trường và đảm bảo một mức lợi nhuận bình quân cho phép.
1.1.2.2 Phân lo ạ i theo giá tr ị th ự c c ủ a ti ề n lãi
Lãi suất danh nghĩa là lãi suất được tính dựa trên giá trị danh nghĩa của tiền tệ, tức là chưa điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát.
Lãi suất thực là lãi suất đã được điều chỉnh theo biến động của lạm phát, tức là loại lãi suất không bao gồm tỷ lệ lạm phát Mối quan hệ giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa được thể hiện qua phương trình Fisher.
Lãi suất danh nghĩa = lãi suất thực + tỷ lệ lạm phát
Lãi suất thực, được điều chỉnh theo lạm phát, phản ánh chính xác thu nhập thực tế từ tiền lãi mà người cho vay nhận được và chi phí thực của việc vay tiền Sự phân biệt giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa rất quan trọng, vì lãi suất thực ảnh hưởng đến đầu tư, thể hiện chi phí thực của việc vay, và tái phân phối thu nhập giữa người vay và người cho vay, cũng như dòng chảy của vốn trong nền kinh tế.
1.1.2.3 Phân lo ạ i theo lo ạ i ti ề n cho vay
- Lãi suất nội tệ: là lãi suất cho vay và đi vay bằng đồng nội tệ
- Lãi suất ngoại tệ: là lãi suất cho vay và đi vay bằng đồng ngoại tệ Mối liên hệ giữa hai lãi suất này là: rD = rF + ΔE;
Trong đó: rD là lãi suất nội tệ, rF là lãi suất ngoại tệ, ΔE là mức tăng tỷ giá dự tính của đồng ngoại tệ.
Các nhân tố tác động đến lãi suất
1.1.3.1 Nhóm nhân t ố ả nh h ưở ng đế n cung c ầ u v ố n
Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn vay, được xác định dựa trên quan hệ cung cầu vốn vay trên thị trường Cung vốn vay là lượng vốn mà các chủ thể trong xã hội cho vay để kiếm lời, trong khi cầu vốn vay là nhu cầu vay vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng Mô hình "khuôn mẫu tiền vay" giúp các nhà kinh tế xác định lãi suất thị trường, với điểm cân bằng cung cầu vốn vay tại một thời điểm xác định mức lãi suất Các yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất thị trường bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau.
Nhóm nhân tố làm lệch chuyển đường cung vốn
Trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế, thu nhập gia tăng dẫn đến sự tăng trưởng tài sản của các chủ thể kinh tế, từ đó nâng cao khả năng cung ứng vốn.
- Rủi ro: nếu như rủi ro mất vốn khi cho vay tăng lên thì việc cho vay trở nên kém hấp dẫn, cung vốn vay giảm xuống
Nhóm nhân tố làm lệch chuyển đường cầu vốn
Khả năng sinh lợi dự tính từ các cơ hội đầu tư gia tăng sẽ làm tăng nhu cầu vay vốn, đặc biệt trong giai đoạn kinh tế tăng trưởng Khi nền kinh tế phát triển, số lượng cơ hội đầu tư sinh lời tăng lên, dẫn đến nhu cầu vay vốn tăng mạnh Đồng thời, sự gia tăng của cải trong điều kiện kinh tế phát triển cũng kích thích cung vốn vay Tuy nhiên, lãi suất thường có xu hướng tăng do hiệu ứng cung vốn vay từ sự gia tăng của cải diễn ra chậm hơn so với sự gia tăng nhu cầu vay vốn trong bối cảnh kinh tế tăng trưởng nhanh.
Lạm phát dự tính ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí thực của việc vay tiền, được xác định bằng lãi suất thực, tức là lãi suất danh nghĩa trừ đi lạm phát dự tính Khi lạm phát dự tính tăng, chi phí thực của việc vay tiền giảm, dẫn đến nhu cầu vay vốn tăng lên Đồng thời, lợi tức từ việc cho vay so với đầu tư vào tài sản hữu hình cũng giảm, làm giảm cung vốn vay Kết quả là lãi suất cân bằng tăng, theo lý thuyết của nhà kinh tế học Irving Fisher, được gọi là hiệu ứng Fisher Sự biến động của tỷ lệ lạm phát tác động đến giá trị tiền tệ và lợi ích kinh tế của người cho vay; nếu lạm phát tăng, lãi suất cũng phải tăng để thu hút nguồn vốn tiền gửi Ngược lại, khi tỷ lệ lạm phát giảm, lãi suất tín dụng cũng sẽ giảm để đảm bảo hạch toán kinh doanh cho các tổ chức tín dụng Ngân hàng Nhà nước sử dụng lãi suất tín dụng như một công cụ để kiềm chế lạm phát, điều chỉnh tăng lãi suất tiền gửi khi lạm phát cao nhằm kiểm soát tình hình.
Tình hình ngân sách chính phủ hiện nay cho thấy nhiều quốc gia đang tài trợ cho thâm hụt ngân sách thông qua việc vay mượn Điều này dẫn đến việc thâm hụt ngân sách của chính phủ ảnh hưởng đến nhu cầu vay vốn của chính phủ, từ đó tác động đến nhu cầu vay vốn trong nền kinh tế.
1.1.3.2 Nhóm nhân t ố ả nh h ưở ng đế n cung c ầ u ti ề n t ệ Ứng với mỗi một mức cung cầu tiền sẽ xác định được một lãi suất cân bằng tương ứng Cho nên có thể nói những nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu tiền tệ trên thị trường cũng sẽ ảnh hưởng đến sự biến động của lãi suất trên thị trường
Nhóm nhân tố làm dịch chuyển đường cầu tiền gồm:
Thu nhập tăng lên sẽ dẫn đến nhu cầu cao hơn trong việc nắm giữ tiền để giao dịch và làm nơi cất giữ giá trị, từ đó làm gia tăng lượng cầu tiền Ngược lại, khi thu nhập giảm, nhu cầu nắm giữ tiền cũng sẽ giảm theo.
Mức giá có ảnh hưởng trực tiếp đến cầu tiền thực tế; khi mức giá tăng, cầu tiền danh nghĩa cũng phải điều chỉnh để duy trì ổn định cầu tiền thực tế Điều này xảy ra do nền kinh tế thường yêu cầu một lượng tiền thực tế không đổi ở mức lãi suất và thu nhập nhất định Vì vậy, sự gia tăng mức giá dẫn đến việc tăng cầu tiền, nhằm đảm bảo sự cân bằng trong nền kinh tế.
Nhóm nhân tố làm dịch chuyển đường cung tiền gồm:
Cung tiền trong nền kinh tế hiện nay chủ yếu bị ảnh hưởng bởi chính sách tiền tệ (CSTT) của ngân hàng nhà nước (NHNN) Ngoài việc thực thi mục tiêu CSTT, cung tiền còn bị tác động bởi mức độ phụ thuộc của NHNN vào chính phủ và chế độ tỷ giá hối đoái Nếu NHNN phụ thuộc nhiều vào chính phủ, tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài có thể buộc NHNN phải in thêm tiền để mua chứng khoán chính phủ, từ đó làm tăng cung tiền Hơn nữa, chế độ tỷ giá hối đoái cố định yêu cầu NHNN can thiệp vào thị trường ngoại hối thông qua mua bán ngoại tệ, ảnh hưởng đến cung tiền trong nền kinh tế.
Tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế đóng vai trò quan trọng trong việc xác định lãi suất tín dụng hợp lý, vì hoạt động của các doanh nghiệp là nền tảng cho hoạt động tín dụng Thông thường, lãi suất tín dụng sẽ thấp hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân, nhằm đảm bảo sự hài hòa giữa lợi ích của người vay và người cho vay.
Chính sách kinh tế của Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc can thiệp vào thị trường tín dụng, nhằm duy trì lãi suất phù hợp với phát triển kinh tế - xã hội Các chính sách ưu đãi cho vay, thuế và đầu tư, cùng với cho vay trọng điểm, đều tác động trực tiếp đến lãi suất, thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế
1.1.4.1 Kích thích l ợ i ích v ậ t ch ấ t để thu hút các kho ả n ti ề n ti ế t ki ệ m
Khi có khoản tiền tiết kiệm, nhiều người thường nghĩ đến việc sinh lời qua các hình thức như đầu tư chứng khoán, bất động sản, mua vàng hoặc gửi tiền vào ngân hàng Gửi tiền vào ngân hàng được coi là một hình thức đầu tư an toàn Để thu hút khách hàng, các ngân hàng thường sử dụng lãi suất hấp dẫn và cạnh tranh nhau bằng các chương trình khuyến mãi, quà tặng và thưởng tiền.
1.1.4.2 Lãi su ấ t là công c ụ phân ph ố i v ố n, kích thích s ử d ụ ng v ố n có hi ệ u qu ả và đ i ề u ch ỉ nh các ho ạ t độ ng đầ u t ư
Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất tín dụng đóng vai trò quan trọng trong việc phân phối vốn một cách hợp lý, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế theo từng giai đoạn.
Lãi suất đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định cơ hội đầu tư của các chủ thể kinh tế Doanh nghiệp chỉ tiến hành kinh doanh khi tỷ suất sinh lợi vượt qua lãi suất tín dụng, trong khi cá nhân chỉ gửi tiết kiệm khi lãi suất cao hơn các khoản đầu tư khác và tỷ lệ lạm phát Do đó, lãi suất tín dụng ảnh hưởng đến tỷ lệ tích lũy và tiêu dùng, quyết định việc mở rộng hay thu hẹp đầu tư của doanh nghiệp và cá nhân.
1.1.4.3 Lãi su ấ t là công c ụ đ o l ườ ng tình tr ạ ng s ứ c kho ẻ c ủ a n ề n kinh t ế
Mỗi biến động, dù nhỏ, đều tác động đến cá nhân, tổ chức và nền kinh tế Ở các nước phát triển, giá trái khoán và lãi suất được cập nhật hàng ngày, giúp dự báo các yếu tố kinh tế như tính sinh lời đầu tư, lạm phát và thiếu hụt ngân sách Những yếu tố này tạo nên chỉ số “sức khỏe” của nền kinh tế, cho phép dự đoán tình hình kinh tế tương lai dựa trên lãi suất hiện tại Doanh nghiệp có thể lập kế hoạch cho tương lai, trong khi ngân hàng và nhà đầu tư dự báo lãi suất để quyết định lựa chọn tài sản đầu tư.
1.1.4.4 Lãi su ấ t là công c ụ đ i ề u ti ế t kinh t ế v ĩ mô c ủ a NHNN
Lãi suất tín dụng là một công cụ thực hiện CSTT, thể hiện trên các mặt:
Trong bối cảnh nền kinh tế giảm phát, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có khả năng hạ lãi suất tiền gửi và mở rộng cho vay nhằm tăng lượng tiền lưu thông, từ đó kích thích sản xuất, kinh doanh, đầu tư và chi tiêu Điều này giúp giảm tỷ lệ giảm phát, ổn định sức mua và đảm bảo sự phát triển của sản xuất cùng lưu thông hàng hóa Khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, NHNN sẽ áp dụng chính sách nới lỏng tiền tệ để đối phó với tình trạng này, dẫn đến việc lãi suất giảm.
Lãi suất tái chiết khấu đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh khối lượng cho vay của các ngân hàng thương mại, từ đó ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng trong lưu thông Việc điều chỉnh này có thể dẫn đến việc mở rộng hoặc thu hẹp sản xuất, đồng thời tác động đến mức độ tạo ra công ăn việc làm trong nền kinh tế.
Tăng hay giảm lãi suất tín dụng sẽ tác động đến số lượng ngoại tệ trong nước, từ đó ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu ngoại tệ Sự thay đổi này dẫn đến biến động tỷ giá, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa trong từng giai đoạn.
Nhà nước và vai trò của Nhà nước đối với việc điều hành nền kinh tế
Về chính sách tài khóa
Nhà nước có thể sử dụng các công cụ tài khóa như thuế, đầu tư và chi tiêu của Chính phủ để điều chỉnh nền kinh tế, nhằm đạt được các mục tiêu đề ra hàng năm hoặc trong từng giai đoạn cụ thể.
Căn cứ vào quy luật tổng cung - tổng cầu, ta có:
Tổng cung: GDP = C + I + G + X – N Tổng cầu: GDP = C + S + T + Rf Khi sản lượng cân bằng, ta có: C + I + G + X – N = C + S + T + Rf hay I + G + X – N = S + T + Rf trong đó:
C: chi tiêu của hộ gia đình; G: chi tiêu của Chính phủ;
GDP: tổng sản phẩm nội địa
S: tiết kiệm của khu vực tư;
Rf: chuyển nhượng của tư nhân cho nước ngoài;
Nhà nước có thể điều chỉnh sản lượng quốc gia hàng năm thông qua chính sách tài khóa, lựa chọn giữa việc thu hẹp hoặc mở rộng nhằm phù hợp với tình hình kinh tế hiện tại và ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế.
Chính sách tài khóa mở rộng bao gồm các biện pháp như giảm thuế, tăng chi tiêu Chính phủ, áp dụng gói trợ cấp cho các đối tượng yếu thế và thu hút đầu tư Những biện pháp này nhằm kích thích sản xuất, đầu tư và tiêu dùng, từ đó đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế Ngược lại, khi nền kinh tế phát triển quá nhanh, Chính phủ sẽ áp dụng chính sách tài khóa thu hẹp để kiểm soát lạm phát.
Việc lựa chọn và áp dụng chính sách, cũng như xác định mức độ và thời điểm thực hiện, phụ thuộc vào sự nhạy cảm và tính toán của các nhà hoạch định chính sách để đạt được hiệu quả mong muốn.
Việc tăng thuế sẽ tác động tiêu cực đến đầu tư và tiêu dùng của quốc gia, dẫn đến giá cả hàng hóa tăng cao, khiến người tiêu dùng hạn chế chi tiêu Điều này sẽ làm giảm sản lượng tiêu thụ và buộc các nhà sản xuất phải thu hẹp quy mô sản xuất, gây ra tình trạng trì trệ trong nền kinh tế Ngược lại, giảm thuế sẽ kích thích sản xuất và tiêu dùng, tạo động lực cho sự tăng trưởng kinh tế.
Về chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ của Nhà nước sử dụng nhiều công cụ để điều tiết kinh tế vĩ mô, bao gồm lãi suất, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ giá hối đoái và cung tiền Việc áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt hay nới lỏng phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của từng quốc gia.
Chính sách tiền tệ nới lỏng, thông qua các biện pháp như giảm lãi suất, tăng cung tiền và giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Ngược lại, chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ giúp kiềm chế lạm phát.
Mặc dù chính sách tiền tệ tác động gián tiếp đến thị trường hàng hóa, nhưng ảnh hưởng của nó là rất lớn và có độ nhạy cảm cao Do đó, việc áp dụng chính sách này đòi hỏi sự tính toán cẩn thận từ các chuyên gia trong lĩnh vực.
Giảm lãi suất cho vay sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư mở rộng sản xuất, đồng thời khuyến khích người tiêu dùng vay tiền để mua sắm, từ đó nâng cao mức sống và kích thích sản xuất, góp phần tăng trưởng kinh tế.
Mối quan hệ giữa chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ
Các chính sách luôn có mối quan hệ chặt chẽ và tương tác với nhau, và mỗi chính sách đều có độ trễ nhất định Trong khi đó, sự biến chuyển không ngừng là đặc trưng của nền kinh tế Việc áp dụng đơn lẻ một chính sách là không khả thi, do đó cần có sự phối hợp đồng bộ và nhất quán để đạt hiệu quả cao nhất Hiệu quả của chính sách còn phụ thuộc vào đặc điểm của nền kinh tế quốc gia, bao gồm yếu tố như nền kinh tế đóng hay mở, quy mô lớn hay nhỏ.
Khi áp dụng chính sách tài khóa mở rộng thông qua việc giảm thuế để kích thích chi tiêu và thúc đẩy sản xuất, sẽ xuất hiện nhiều hiệu ứng khác nhau tùy thuộc vào đặc điểm của nền kinh tế.
Với nền kinh tế đóng, việc mở rộng chính sách tài khóa sẽ dẫn đến sự gia tăng thu nhập, sản xuất và tiêu dùng, từ đó làm tăng lãi suất.
Trong nền kinh tế nhỏ với tỷ giá hối đoái thả nổi, phương pháp này không làm tăng thu nhập mà còn dẫn đến giảm đầu tư nước ngoài ròng Hệ quả là tỷ giá hối đoái tăng, gây suy giảm xuất khẩu ròng.
Phân tích chính sách kích cầu Việt Nam bằng lý thuyết kinh tế học
GDP được tính bằng công thức: GDP = C + I + G + X – N = C + S + T + Rf Khi lượng tiền cung ứng thực tế (M/P) tăng, lãi suất (r) giảm, dẫn đến chi phí vay vốn thấp hơn và đồng nội tệ giảm giá Điều này kích thích đầu tư và xuất khẩu, từ đó làm tăng tổng cầu (Y ad).
Xét mô hình IS – LM qua phương trình đường tổng cầu sau:
Y ad : tổng cầu; L (r,Y):hàm sản lượng theo biến lãi suất; LM: đường cung tiền; M/P: số dư tiền thực theo giá thực tế; IS: đường cầu tiền;
Mặt khác, lý thuyết kinh tế học cho rằng:
- Chi phí biên là mức tăng tổng chi phí khi sản lượng tăng thêm một đơn vị;
Doanh thu biên là tổng doanh thu khi sản lượng tăng thêm một đơn vị, và nó cùng với chi phí biên quyết định mức sản lượng của nền kinh tế Khi đường chi phí biên (MC) dịch chuyển sang phải với biên độ lớn hơn so với đường doanh thu biên (MR) không thay đổi hoặc dịch chuyển sang trái, sản lượng của nền kinh tế sẽ tăng lên từ Q1 đến Q2.
Hình 1.1: Mối quan hệ giữa doanh thu biên, chi phí biên và sản lượng
Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, Chính phủ đã chọn thực hiện các chính sách dựa trên cơ chế thị trường thay vì các biện pháp hành chính Việc hỗ trợ lãi suất thông qua hệ thống ngân hàng đã giúp giảm chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, kích thích doanh nghiệp vay vốn để duy trì và mở rộng sản xuất – kinh doanh Giải pháp này đã nhanh chóng lan tỏa trên toàn quốc, góp phần tăng cường đầu tư, sản lượng kinh tế và tạo ra nhiều việc làm.
1.3 Suy giảm kinh tế và những công cụ của Nhà nước trong công tác phòng, chống suy giảm kinh tế
Suy giảm kinh tế và những tác động có thể xảy ra
Suy giảm kinh tế có thể do hai hiện tượng tương tự nhưng với mức độ tác động khác nhau, đó là thiểu phát và giảm phát Thiểu phát là tình trạng giá cả hàng hóa và dịch vụ giảm nhẹ, trong khi giảm phát là sự giảm giá kéo dài và sâu rộng hơn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế Hiểu rõ sự khác biệt giữa hai hiện tượng này là cần thiết để có những biện pháp ứng phó hiệu quả.
Thiểu phát là hiện tượng giảm giá hàng hóa và dịch vụ, dẫn đến tăng sức mua của đồng tiền do lượng tiền mặt lưu thông giảm so với hàng hóa và dịch vụ có sẵn trên thị trường Đây là hiện tượng ngược lại với lạm phát, thường đi kèm với sự thu hẹp sản xuất, giảm vốn đầu tư và giảm số lượng việc làm.
Không có tiêu chí chính xác về tỷ lệ lạm phát nào được coi là thiểu phát, nhưng nhiều tài liệu kinh tế học cho rằng tỷ lệ lạm phát dưới 3-4% mỗi năm được xem là thiểu phát.
Ở những quốc gia như Đức, Nhật Bản và các nước phát triển trong nhóm G7, ngân hàng trung ương thường đặt mục tiêu kiềm chế lạm phát, dẫn đến tỷ lệ lạm phát duy trì ở mức thấp.
Tỷ lệ lạm phát 4% mỗi năm được xem là trung bình, không quá thấp để được coi là thiểu phát Tại Việt Nam, giai đoạn 2002 - 2003, tỷ lệ lạm phát dao động từ 3 - 4% mỗi năm, và nhiều nhà kinh tế học cho rằng đây là dấu hiệu của thiểu phát.
Giảm phát, hay còn gọi là vòng xoáy giảm phát, là tình trạng mức giá chung và GDP trong nền kinh tế liên tục giảm, thể hiện qua tốc độ tăng trưởng kinh tế âm Đây là dấu hiệu của suy thoái kinh tế, dẫn đến sản xuất trì trệ, giảm sức mua và gây ra tình trạng thất nghiệp hàng loạt.
Giảm phát có tác động tiêu cực lớn đến nền kinh tế, vì vậy trong luận văn này, tôi sẽ tập trung phân tích hiện tượng giảm phát liên quan đến suy giảm kinh tế.
Các nhà kinh tế, đặc biệt là những người theo trường phái Tân cổ điển, định nghĩa giảm phát là sự thu hẹp khối lượng tiền tệ so với số lượng hàng hóa trong nền kinh tế, hay là sự tăng giá trị đơn vị tiền tệ quốc gia Nguyên nhân của giảm phát liên quan đến mối tương quan giữa bốn yếu tố: cung tiền, cầu tiền, tổng cung và tổng cầu.
Hình 1.2: Sơ đồ AD – AS (Giảm phát do tổng cầu giảm)
Tổng cầu ban đầu tương ứng với đường AD, với điểm cân bằng của nền kinh tế tại điểm E, nơi giao nhau giữa đường AD và đường AS (đường tổng cung) Khi tổng cầu giảm, đường AD dịch chuyển sang trái thành đường AD', cắt đường AS tại điểm E' Điểm E' trở thành điểm cân bằng mới, dẫn đến sản lượng và mức giá chung đều giảm so với điểm cân bằng cũ E.
1.3.1.2 Nh ữ ng tác độ ng do suy gi ả m gây ra
Sự mất cân đối giữa năng lực sản xuất và mức cầu sẽ dẫn đến giảm phát, khiến tiền trở nên khan hiếm khi người tiêu dùng kỳ vọng giá cả hàng hóa tiếp tục giảm Hệ quả là doanh thu của các nhà sản xuất giảm, dẫn đến tình trạng sản xuất đình trệ và hàng tồn kho gia tăng Doanh nghiệp có nguy cơ thu hẹp quy mô hoặc phá sản, không đủ khả năng trả nợ ngân hàng Nhà nước cũng chịu ảnh hưởng với nợ thuế gia tăng, thâm hụt ngân sách tăng, tốc độ phát triển kinh tế chậm lại, thất nghiệp gia tăng và mức sống của người dân giảm sút.
Tình trạng thất nghiệp dẫn đến việc giảm tiêu thụ, gây áp lực giảm giá cả và tạo ra vòng luẩn quẩn giảm phát nguy hiểm cho nền kinh tế Hệ quả là sản xuất và kinh doanh đình trệ, kinh tế suy thoái, và tỷ lệ thất nghiệp gia tăng Nếu không được kiểm soát, nền kinh tế có thể rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng.
1.3.1.3 Cách tính toán m ứ c độ suy gi ả m kinh t ế và ph ươ ng pháp phòng ch ố ng Để đo lường mức độ giảm phát, ta có chỉ số giảm phát GDP (còn gọi là Chỉ số điều chỉnh GDP), được ký hiệu: D GDP (tiếng Anh: GDP deflator), là chỉ số tính theo phần trăm phản ánh mức giá chung của tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ sản xuất trong nước Chỉ số điều chỉnh GDP cho biết một đơn vị GDP điển hình của kỳ nghiên cứu có mức giá bằng bao nhiêu phần trăm so với mức giá của năm cơ sở (Số liệu thống kê của Việt nam công bố đang tính GDP theo giá của năm 1994)
Chỉ số giảm phát GDP được tính theo công thức sau:
GDP danh nghĩa Chỉ số giảm phát GDP = 100 x
So sánh Chỉ số giảm phát GDP và CPI, có 03 điểm khác biệt:
D GDP được tính dựa trên giỏ hàng hóa biến đổi, cho phép phản ánh sự thay thế giữa các hàng hóa và dịch vụ Tuy nhiên, D GDP không thể hiện sự giảm sút phúc lợi của người tiêu dùng khi họ phải tiêu dùng ít hơn một loại hàng hóa nào đó.
GDP phản ánh giá trị hàng hóa do doanh nghiệp và chính phủ mua, trong khi CPI chỉ tập trung vào mức giá hàng tiêu dùng Do đó, GDP được coi là chỉ số chính xác hơn về mức giá chung trong nền kinh tế.
DGDP chỉ phản ánh mức giá của hàng hóa sản xuất trong nước, vì nó chỉ tính các sản phẩm nội địa, trong khi CPI lại bao gồm cả mức giá của hàng hóa nhập khẩu.
Các công cụ trong chính sách tài khóa được dùng chống suy giảm kinh tế
Để ngăn chặn tình trạng giảm phát, Chính phủ thường triển khai chính sách nới lỏng tiền tệ bằng cách giảm lãi suất và tăng cung tiền, đồng thời thực hiện chính sách tài khóa mở rộng thông qua việc giảm thuế và tăng cường kích thích tiêu dùng.
1.3.2 Các công cụ trong chính sách tài khóa được dùng phòng, chống suy giảm kinh tế
Nhằm phòng, chống suy giảm kinh tế có hiệu quả, Chính phủ thường áp dụng chính sách tài khoá mở rộng bằng các biện pháp
Giảm, miễn thuế và giãn thời gian nộp thuế sẽ khuyến khích sản xuất phát triển bằng cách giảm chi phí cho người sản xuất Điều này giúp họ có khả năng giảm giá hàng hóa, nâng cao tính cạnh tranh trên thị trường, hoặc tăng lợi nhuận Khi sản xuất được mở rộng và năng suất lao động tăng lên, sẽ tạo ra nhiều việc làm, đáp ứng nhu cầu xã hội và giảm tình trạng thất nghiệp, từ đó nâng cao mức thỏa dụng lao động.
Khi hàng hóa được sản xuất nhiều hơn, người tiêu dùng sẽ có nhiều lựa chọn về chất lượng, mẫu mã và giá cả, từ đó kích thích tiêu dùng Việc chi tiêu gia tăng của người dân tạo động lực cho nhà sản xuất nâng cao sản lượng và chất lượng để đáp ứng nhu cầu thị trường Hơn nữa, khi nhiều người có việc làm, mức tiêu dùng cũng tăng cao, góp phần cải thiện đời sống xã hội và giảm bớt gánh nặng trợ cấp cho những đối tượng như người thất nghiệp và người nghèo.
Việc giảm thuế từ phía Nhà nước có thể dẫn đến giảm nguồn thu, gây khó khăn trong việc cân đối ngân sách và có nguy cơ thâm hụt ngân sách Trong bối cảnh nền kinh tế, khi nhu cầu mở rộng sản xuất gia tăng, nhu cầu về vốn cũng tăng theo, điều này sẽ thúc đẩy hoạt động hiệu quả hơn của hệ thống ngân hàng và làm gia tăng lãi suất thị trường.
Tăng tiêu dùng, chủ yếu trong khu vực Nhà nước, thông qua việc tăng lương, trợ cấp và chi tiêu của Chính phủ, có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất Chẳng hạn, việc tăng chi tiêu cho quốc phòng giúp các nhà máy sản xuất quân trang tiêu thụ nhiều hàng hóa hơn, trong khi tăng chi cho ngành giáo dục sẽ làm tăng doanh thu của các công ty thiết bị sách Những hoạt động này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến tiêu dùng mà còn góp phần nâng cao giá trị GDP.
Việc cân đối ngân sách hàng năm trở thành một thách thức lớn, do Quốc hội Việt Nam quy định mức thâm hụt ngân sách không vượt quá 5% GDP.
Tăng đầu tư vào cơ sở hạ tầng như đường, cầu, trường học và quy hoạch đô thị sẽ có tác động trực tiếp đến chỉ số GDP Tuy nhiên, kết quả từ các khoản đầu tư này không phải lúc nào cũng ngay lập tức rõ ràng, mà có thể cần thời gian để các công trình phát huy hiệu quả.
Tăng cường đầu tư tạo ra áp lực lớn đối với việc cân đối ngân sách quốc gia Nhu cầu về vốn đầu tư trở thành một thách thức khó khăn, và việc lựa chọn phương thức vay vốn nước ngoài hay phát hành trái phiếu để huy động vốn thường tốn nhiều thời gian và chi phí.
Tăng kim ngạch xuất khẩu là thách thức lớn đối với các nước đang phát triển do trình độ kỹ thuật hạn chế và tiêu chuẩn quản lý chất lượng không rõ ràng Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ và phải đối mặt với nhiều rủi ro Vì vậy, vai trò của Nhà nước trở nên quan trọng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm thị trường, cải thiện giống và nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu.
Tỷ giá hối đoái là một trong những tác nhân chính giúp sản phẩm xuất khẩu cạnh tranh với thị trường nước ngoài.
Các công cụ trong chính sách tiền tệ được dùng chống suy giảm
Lãi suất đóng vai trò quan trọng trong việc xác định mức tăng trưởng kinh tế của một quốc gia Việc giảm lãi suất không chỉ thúc đẩy sản xuất mà còn kích thích chi tiêu và tăng cường đầu tư.
Việc kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào lượng tiền lưu thông trên thị trường Khi cung tiền tăng cao, có thể dẫn đến lạm phát và mất giá trị đồng tiền, gây ra nhiều tác động tiêu cực cho nền kinh tế.
Tuy nhiên nền kinh tế rất cần vốn để đầu tư, sản xuất… thiếu vốn cũng làm hạn chế sự phát triển của xã hội
Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô kinh tế, đặc biệt thông qua các công cụ hạn chế suy giảm kinh tế Trong số đó, lãi suất được xem là yếu tố có tác động sâu rộng nhất.
Kinh nghiệm các nước trong việc sử dụng công cụ lãi suất để chống suy giảm kinh tế
Giải pháp kích cầu các nước lựa chọn nhằm đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới thời kỳ 2008 – 2010
Trước những bài học từ cuộc khủng hoảng toàn cầu năm 2007 – 2008, nhiều quốc gia đã áp dụng chính sách hạ lãi suất và tăng cung tiền Đặc biệt, từ tháng 10/2008, các ngân hàng ở Mỹ, khu vực đồng euro, Canada, Thụy Điển, Thụy Sĩ và các thị trường mới nổi như Trung Quốc đã đồng loạt cắt giảm lãi suất ngắn hạn, tạo nên một sự điều chỉnh chưa từng có trong lịch sử.
Trong 03 quý đầu năm 2009, một số nền kinh tế vẫn tiếp tục giảm lãi suất xuống mức thấp hơn Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) tuyên bố giảm lãi suất liên bang xuống còn 0% – 0.25% Đây là chính sách “lãi suất 0%” mà lần đầu tiên FED áp dụng; Ngân hàng Anh giảm lãi suất cơ bản xuống 1%, là mức giảm thấp nhất trong 300 năm qua kể từ khi Ngân hàng Anh thành lập
Các ngân hàng trên thế giới đồng loạt giảm lãi suất nhằm kích thích tín dụng, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư và người tiêu dùng Đồng thời, nhiều quốc gia đã công bố các gói kích cầu, trong đó có việc giảm thuế tạm thời, giúp lưu thông vốn dễ dàng hơn và nâng cao thu nhập cho người dân Những biện pháp này không chỉ thúc đẩy tiêu dùng nội địa mà còn gia tăng niềm tin của nhà đầu tư, đồng thời tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động.
1.4.2.1 Chính sách kích c ầ u c ủ a m ộ t s ố n ướ c trong giai đ o ạ n 2008 - 2010
Trước nguy cơ khủng hoảng kinh tế toàn cầu, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (World Bank) và các nước G7 đã kêu gọi các quốc gia nhanh chóng thực hiện kế hoạch kích thích kinh tế để thúc đẩy phục hồi Hầu hết các quốc gia đã tích cực ban hành chính sách kích cầu nhằm giảm thiểu tác động xấu đến nền kinh tế Mặc dù mỗi quốc gia chọn một chính sách và gói kích cầu khác nhau, tất cả đều hướng đến mục tiêu chung là khôi phục nền kinh tế.
Tại Mỹ, cựu tổng thống Bush đã triển khai gói kích cầu trị giá 168 tỷ USD, sau đó tổng thống Obama tiếp tục với gói kích cầu thứ hai lên tới 787 tỷ USD Tiếp theo, Bộ Tài chính Mỹ đã công bố "kế hoạch giải cứu các tài sản xấu" với tổng giá trị gần 2.000 tỷ USD.
Tương tự, tại Anh kế hoạch cứu trợ với 400 tỷ bảng do chính phủ công bố để bảo lãnh sự ổn định của thị trường tài chính
Chính phủ Nhật Bản đã tăng vốn vay cho các cơ quan tài chính từ 2.000 tỷ Yên lên 12.000 tỷ Yên Vào tháng 12/2008, Nhật Bản công bố gói kích cầu trị giá 23.000 tỷ Yên nhằm hỗ trợ nền kinh tế.
Chính phủ đã dành 250 tỷ USD để giải quyết vấn đề vốn lưu động cho các doanh nghiệp gặp khó khăn và hỗ trợ người lao động bị ảnh hưởng bởi tình trạng thất nghiệp do khủng hoảng kinh tế.
Từ tháng 9/2008, chính phủ Hàn Quốc đã đầu tư 30 tỷ USD nhằm mở rộng chi tiêu và giảm thuế cho doanh nghiệp cũng như cá nhân, đồng thời thiết lập tổng dự toán chi ngân sách cho năm tiếp theo.
2009 tăng hơn 2008 là 1,1 tỷ Won để đầu tư vào cơ sở hạ tầng, kích thích và khôi phục sức sống của nền kinh tế
Tháng 01/2009, Ấn Độ đã công bố gói kích cầu 50 tỷ USD
Gói kích cầu của Singapore là 20,5 tỷ đôla Singapore
Vào tối 17/02/2009, sau một tháng nhậm chức, Tổng thống Mỹ Barack Obama và Phó tổng thống Joe Biden đã đến Denver, nơi diễn ra lễ ký kết gói kích thích kinh tế trị giá 787 tỷ USD tại bảo tàng Khoa học Tự nhiên Denver, trước sự chứng kiến của 250 người.
Gói kích cầu trên của Tổng thống Barack Obama với mục đích chi tiêu liên bang, ưu tiên giảm thuế và tạo việc làm cho người dân Cụ thể:
Chính quyền các bang nhận được nguồn tài chính để duy trì các chương trình phúc lợi xã hội, đồng thời hàng tỷ USD được đầu tư vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng mới như đường xá, cầu cống, giao thông công cộng, đường sắt cao tốc và công viên.
Chính sách miễn thuế áp dụng cho người mua nhà lần đầu, mua xe, sinh viên đại học, gia đình thu nhập thấp đông con và những gia đình lắp đặt hệ thống năng lượng sạch Trong khi đó, thuế thu nhập vẫn giữ nguyên đối với các gia đình trung lưu Những người làm công ăn lương đã hưởng lợi từ việc giảm thuế với giá trị lên đến 400 USD/người.
Những người mất việc do suy thoái kinh tế hiện đã được hưởng chương trình trợ cấp thất nghiệp với nhiều lợi ích hơn, bao gồm chăm sóc sức khỏe tốt hơn, lượng tem phiếu thực phẩm tăng thêm và cơ hội đào tạo nghề.
Vào ngày 18/02/2009, Tổng thống Mỹ đã công bố một kế hoạch cứu trợ trị giá 50 tỷ USD nhằm hỗ trợ những người dân tại bang Arizona, nơi chịu ảnh hưởng nặng nề từ khủng hoảng tài chính Hơn 2,3 triệu chủ nhà đã phải đối mặt với nguy cơ bị tịch thu trong năm 2008, tăng 81% so với năm 2007 Dự báo, vào năm 2009, con số này có thể gia tăng lên đến 10 triệu người, tùy thuộc vào mức độ suy thoái kinh tế.
Gói kích thích kinh tế của Chính phủ liên bang Mỹ đang phát huy hiệu quả rõ rệt, tạo ra nhiều việc làm mới và bảo vệ nhiều vị trí công việc cho người dân.
Mỹ đã chi 160 tỷ USD từ quỹ kích thích kinh tế, bên cạnh kế hoạch kích cầu 787 tỷ USD, để tạo và giữ lại 640.329 việc làm tính đến tháng 9/2009 Đến tháng 3/2010, các doanh nghiệp Mỹ đã tuyển dụng thêm 162 nghìn lao động, đạt mức cao nhất trong 3 năm qua.
Nền kinh tế Mỹ đã đạt được tốc độ tăng trưởng 3,5% trong quý 3/2009, 3,2% trong quý 1/2010
Hình 1.3: Tăng trưởng kinh tế Mỹ 2008 - 2009
Nguồn số liệu:www.imf.com
Bài học kinh nghiệm từ gói kích cầu các nước
Khi thực hiện các chính sách tài khóa và tiền tệ, cần lưu ý rằng sẽ có độ trễ trong hiệu quả của chúng Do đó, để nền kinh tế hoạt động hiệu quả, việc dự đoán các tác dụng phụ tiềm ẩn là rất quan trọng.
- Lãi suất thấp, cung tiền nhiều có thể dẫn đến nguy cơ xuất hiện bong bóng kinh tế mới, lạm phát gia tăng,
- Chi tiêu Chính phủ cho việc kích cầu quá nhiều sẽ khiến mức thâm hụt ngân sách càng thêm trầm trọng,
- Việc thực thi kế hoạch cứu trợ tài chính gặp nhiều khó khăn khi giá trị các tài sản xấu lớn và rắc rối trong việc định giá,
- Xung đột lợi ích giữa các thành phần kinh tế
Chính sách kích cầu cần tập trung vào một số mục tiêu sau:
- Chính sách kinh tế vĩ mô phải triệt để từ gốc tới ngọn, kết hợp với mục tiêu phát triển lâu dài
- Công tác phát triển giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực là vấn đề vô cùng quan trọng cho sự phát triển của một quốc gia
Gói kích cầu của các nước và chính sách hỗ trợ lãi suất tại Việt Nam trong vòng một năm đã mang lại nhiều kết quả tích cực, đồng thời cũng chỉ ra những vấn đề còn tồn tại Qua đó, chúng ta có thể rút ra bài học kinh nghiệm quý giá để cải thiện và áp dụng hiệu quả hơn trong những năm tới.
Vai trò của Nhà nước trong việc điều hành và điều tiết vĩ mô là cực kỳ quan trọng và đầy thách thức Để ổn định kinh tế - xã hội, các quốc gia cần nắm bắt tình hình, dự báo xu hướng và kịp thời đề ra chính sách đối phó.
Sự vận động của nền kinh tế luôn không ngừng và khó lường, chứa đựng nhiều rủi ro do tác động của nhiều nhân tố phức tạp Để xây dựng chính sách phù hợp, cần hiểu rõ bản chất và quy luật của nền kinh tế, chấp nhận thực tế để xác định đúng nguyên nhân và đưa ra giải pháp hiệu quả Để khắc phục tình trạng suy giảm kinh tế, cần phối hợp đồng bộ giữa chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ nới lỏng, mỗi chính sách sử dụng các công
Trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008 – 2009, Việt Nam đã quyết định áp dụng gói kích cầu hỗ trợ lãi suất nhằm thúc đẩy nền kinh tế Gói kích cầu này đã mang lại những thành công nhất định, nhưng cũng không tránh khỏi những khó khăn và tồn tại Tất cả những vấn đề này sẽ được phân tích chi tiết trong Chương 2.
Chương 2: Hoàn cảnh ban hành và tác động của chính sách hỗ trợ lãi suất tại Việt Nam năm 2009
Chính sách kích cầu đang trở thành xu hướng toàn cầu nhằm duy trì sự ổn định của nền kinh tế trong bối cảnh khủng hoảng Tại Việt Nam, lần đầu tiên áp dụng chính sách này dựa trên tác động của chính sách tiền tệ, cụ thể là lãi suất, kết hợp với phương pháp hỗ trợ tài khóa Đây là một bước đi sáng tạo trong điều hành chính sách tiền tệ, với biện pháp hỗ trợ lãi suất không làm thay đổi lãi suất cơ bản nhưng giúp giảm giá vốn, từ đó kích thích đầu tư và tiêu dùng Chính sách "hỗ trợ lãi suất" đã lan tỏa mạnh mẽ đến hầu hết các thành phần kinh tế và điều tiết đầu tư vào các ngành trọng điểm.