1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tài liệu Tác Động Đầu Tư Công Đến Tăng Trưởng Kinh Tế Của Tỉnh Bình Thuận

61 16 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tác Động Đầu Tư Công Đến Tăng Trưởng Kinh Tế Của Tỉnh Bình Thuận
Tác giả Phan Thanh Tấn
Người hướng dẫn TS Ung Thị Minh Lệ
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Tp. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Kinh Tế Tài Chính – Ngân Hàng
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2011
Thành phố Tp.Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 61
Dung lượng 0,95 MB

Cấu trúc

  • PHẦN MỞ ĐẦU

  • CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỂ LÝ THUYẾT ĐẦU TƯ CÔNG

    • 1.1. Khái niệm đầu tư công

    • 1.2. Đặc điểm cuả đầu tư công và Vai trò vốn đầu tư đối với sự phát triểnkinh tế - xã hội

      • 1.2.1. Đặc điểm cuả đầu tư công

      • 1.2.2. Vai trò của vốn đầu tư đối với sự phát triển kinh tế - xã hội

    • 1.3. Các Quan điểm về đầu tư công

    • 1.4. Đánh giá hiệu đầu tư công

      • 1.4.1. Tác động của đầu tư công đối với tăng trưởng

      • 1.4.2. Hiệu quả của vốn đầu tư (ICOR)

      • 1.4.3. Phương pháp phân tích Lợi ích - Chi phí

      • 1.4.4. Quy trình thẩm định dự án đầu tư công

    • 1.5. Kinh nghiệm một số tỉnh, thành phố về đầu tư công

    • Kết luận chương 1

  • Chương 2: Thực trạng đầu tư công của tỉnh Bình Thuận

    • 2.1 Giới thiệu tổng quan chung về tỉnh Bình thuận

      • 2.1.1 Vị trí địa lý

      • 2.1.2. Khái quát tình hình tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội

    • 2.2. Thực trạng đầu tư công trên địa bàn Bình Thuận

      • 2.2.1. Tổng vốn đầu tư trên địa bàn

      • 2.2.2. Cơ cấu đầu tư công trên địa bàn từ 2001 đến 2010

      • 2.2.3. Kết quả và hạn chế của đầu tư công trên địa bàn tỉnh Bình Thuận

        • 2.2.3.1 Kết quả đạt được

        • 2.2.3.2 Hạn chế trong đầu tư công của tỉnh

        • 2.2.3.3. Nguyên nhân hạn chế

        • 2.2.3.4. Bài học kinh nghiệm từ thực trạng đầu tư 10 năm qua

      • 2.2.4. Ứng dụng mô hình Harrod – Domar trong phân tích tác động đầu tưcông đến tăng trưởng kinh tế tỉnh Bình thuận

      • 2.2.5. Khung phân tích tác động đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế tỉnhBình Thuận

      • 2.2.6. Kết quả tính toán

    • Kết luận chương 2

  • CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ CÔNGTRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH THUẬN

    • 3.1. Mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội và đầu tư công trên địa bàntỉnh Bình Thuận

    • 3.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư công tỉnh Bình Thuận

      • 3.2.1 Giải pháp đối với cơ quan quản lý nhà nước trong quản lý đầutư công

      • 3.2.2 Giải pháp đa dạng các phương thức đầu tư công, tạo ra cơ chếtài chính thu hút các nguồn lực xã hội

    • Kết luận chương 3

  • KẾT LUẬN

Nội dung

TỔNG QUAN VỂ LÝ THUYẾT ĐẦU TƯ CÔNG

Đặc điểm cuả đầu tƣ công và Vai trò vốn đầu tƣ đối với sự phát triển

1.1 Khái niệm đầu tư công: bao gồm tất cả các khoản đầu tư do chính phủ và các doanh nghiệp thuộc khu vực nhà nước tiến hành: đầu tư ngân sách phân cho các Bộ ngành Trung ương, và phân cho các địa phương; đầu tư theo các chương trình hỗ trợ có mục tiêu; tín dụng đầu tư (vốn cho vay) có mức độ ưu đãi nhất định; đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước

1.2 Đặc điểm cuả đầu tư công và Vai trò vốn đầu tư đối với sự phát triển kinh tế - xã hội

1.2.1 Đặc điểm cuả đầu tư công

- Đầu tư công tạo nên hàng hóa công - Đầu tư chủ yếu bằng vốn ngân sách nhà nước

Hàng hoá công là loại hàng hoá mà nhiều người có thể sử dụng đồng thời mà không gây cản trở cho nhau, và không ai bị từ chối quyền sử dụng Thông thường, hàng hoá công được cung cấp chủ yếu bởi Chính phủ Mặc dù khu vực tư có thể tham gia cung cấp hàng hoá công, nhưng việc đảm bảo quyền lợi sử dụng tự do vẫn là một thách thức lớn.

Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc tái phân phối thu nhập thông qua đầu tư và chi tiêu công Việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng và nâng cao phúc lợi xã hội không chỉ cải thiện mức sống của người dân mà còn góp phần tạo ra sự ổn định và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước đóng vai trò quan trọng trong đầu tư công, góp phần tạo ra bước đột phá cho sự phát triển đất nước Trong bối cảnh nền kinh tế đa dạng, Nhà nước cần khuyến khích khu vực tư nhân tham gia đầu tư và cung cấp hàng hóa công thông qua các hình thức như BOT, BTO, BT, và PPP.

- Đầu tư công của ngân sách nhà nước là khoản chi tích lũy

Đầu tư công trực tiếp không chỉ gia tăng số lượng và chất lượng tài sản cố định mà còn nâng cao giá trị tài sản cho nền kinh tế quốc dân Điều này thể hiện qua việc nhà nước tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội như giao thông, thủy lợi, y tế và giáo dục Sự gia tăng này là nền tảng cho sự phát triển cân đối giữa các ngành, vùng kinh tế, đồng thời nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh Hơn nữa, nó còn thúc đẩy sự phát triển các thành phần kinh tế, thu hút đầu tư trong và ngoài nước, tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế.

Quy mô và cơ cấu chi đầu tư công từ ngân sách nhà nước được xác định bởi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước trong từng giai đoạn, cũng như sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.

Theo kinh nghiệm phát triển của Hàn Quốc, trong giai đoạn đầu của chiến lược công nghiệp hóa, đầu tư công từ ngân sách nhà nước chiếm tỷ lệ lớn trong tổng đầu tư xã hội do khu vực kinh tế tư nhân còn yếu Chính sách thu hút vốn đầu tư chưa hoàn thiện, nên ngân sách nhà nước cần đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy công nghiệp hóa Đầu tư công không chỉ tăng về quy mô mà còn đa dạng về cơ cấu, nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn, bao gồm hỗ trợ và thực hiện các chương trình mục tiêu kinh tế - xã hội Khi chiến lược công nghiệp hóa thành công và khu vực kinh tế tư nhân phát triển, quy mô đầu tư công sẽ giảm, chủ yếu tập trung vào các chương trình mục tiêu quốc gia như an sinh xã hội và xóa đói giảm nghèo, trong khi các khoản chi cho vay chỉ định và chương trình mục tiêu sẽ được cắt giảm.

- Chi đầu tư công phải gắn chặt v ớ i chi thường xuyên nhằm nâng cao hiệu quả vốn đầu tư

Sự phối hợp đồng bộ giữa chi đầu tư và chi thường xuyên là rất cần thiết để đảm bảo đủ kinh phí cho việc duy tu, sửa chữa và bảo dưỡng cơ sở hạ tầng Khi hai nhóm chi tiêu này được gắn kết chặt chẽ, sẽ giảm thiểu tình trạng đầu tư không hiệu quả, đồng thời nâng cao hiệu quả khai thác và sử dụng tài sản đầu tư.

1.2.2 Vai trò của vốn đầu tư đối với sự phát triển kinh tế - xã hội

Thực tiễn từ các quốc gia có mức tăng trưởng cao cho thấy vốn là yếu tố quyết định cho sự thành công trong phát triển kinh tế Nhật Bản và các nước công nghiệp mới (NIC) đã đạt được những thành tựu kinh tế ấn tượng nhờ vào chính sách huy động và đầu tư vốn hiệu quả Vốn đã đóng góp hơn 50% vào mức tăng trưởng thu nhập của những quốc gia này trong thời gian dài Điều này cho thấy vai trò quan trọng của vốn trong việc khai thác hiệu quả các nguồn lực tự nhiên như đất đai và tài nguyên.

Mô hình tăng trưởng kinh tế Harrod-Domar chỉ ra mối quan hệ tỉ lệ thuận giữa tỷ lệ vốn đầu tư và tỷ lệ tăng trưởng GDP Mối liên hệ này được thể hiện qua một phương trình kinh tế rõ ràng, khẳng định rằng sự gia tăng vốn đầu tư sẽ dẫn đến sự tăng trưởng kinh tế bền vững.

Mức tăng GDP được tính bằng cách chia mức tăng vốn đầu tư cho ICOR (Hệ số tăng trưởng vốn - đầu ra), phản ánh hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trong nền kinh tế.

Việc sử dụng vốn đầu tư hiệu quả không chỉ quan trọng mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ tăng trưởng Khi tỷ lệ vốn đầu tư gia tăng, tốc độ tăng trưởng cũng sẽ theo đó tăng lên, và điều này tạo ra một vòng xoáy tích cực trong nền kinh tế.

Tăng trưởng kinh tế chỉ là điều kiện cần để phát triển kinh tế bền vững, một quá trình biến đổi sâu sắc mọi mặt kinh tế xã hội của đất nước về số lượng và chất lượng Để phát triển, cần duy trì tăng trưởng liên tục, tạo ra chuyển biến trong cơ cấu kinh tế và xã hội theo hướng hiện đại Nền kinh tế hoạt động hiệu quả sẽ nâng cao sức cạnh tranh hàng hóa trên thị trường quốc tế, đồng thời cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của người dân Việc duy trì nguồn vốn đầu tư hiệu quả là yếu tố quan trọng để đạt được mục tiêu phát triển, đặc biệt là trong việc phát triển kết cấu hạ tầng, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển kinh tế Kết cấu hạ tầng cần được xây dựng trước để mở đường cho sự phát triển kinh tế trong tương lai.

Ngân hàng Thế giới cho rằng sự gia tăng tổng sản phẩm quốc gia thường đi kèm với việc tăng cường đầu tư vào kết cấu hạ tầng Để phát triển kinh tế, cần có một lượng vốn đáng kể dành cho đầu tư này Đồng thời, để đạt được sự phát triển nhanh và bền vững, cần xây dựng một cơ cấu kinh tế tối ưu, phù hợp với đặc điểm của từng quốc gia Cơ cấu kinh tế tối ưu sẽ bảo đảm sự phát triển cân đối giữa các ngành và vùng lãnh thổ Vốn đầu tư đóng vai trò then chốt trong việc khai thác hiệu quả các nguồn lực tiềm năng, từ đó thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng tối ưu, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững.

Vốn đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế, đảm bảo sự cân đối giữa tiết kiệm và đầu tư Tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư, nhưng do các chủ thể thực hiện khác nhau, nền kinh tế có thể rơi vào tình trạng thừa hoặc thiếu vốn, dẫn đến tăng trưởng thấp và thất nghiệp gia tăng Khi thừa vốn, nhà nước cần khuyến khích đầu tư và kích cầu tiêu dùng; ngược lại, trong trường hợp thiếu vốn, cần có chính sách thu hút vốn từ bên ngoài và nâng cao hiệu quả hấp thụ vốn trong nước Sự chu chuyển vốn sẽ tạo ra sự cân bằng vĩ mô giữa tiết kiệm và đầu tư, góp phần ổn định và phát triển kinh tế.

Các Quan điểm về đầu tƣ công

Trường phái tân cổ điển cho rằng nhà nước không nên can thiệp vào nền kinh tế trong việc phân bổ nguồn lực như vốn và lao động, vì thị trường có khả năng thực hiện vai trò này tốt hơn Họ khẳng định rằng một trong những ưu điểm của kinh tế thị trường là khả năng phân bổ nguồn lực một cách tự động Đầu tư, trong bối cảnh này, được xem là một hình thức phân bổ nguồn lực, đặc biệt là phân bổ vốn trong nền kinh tế.

Theo lý thuyết này, các đơn vị sản xuất sẽ tự tìm kiếm cơ hội đầu tư tốt nhất để tối đa hóa lợi nhuận mà không cần sự can thiệp của nhà nước Cơ cấu đầu tư tổng hợp từ các doanh nghiệp sẽ tạo nên cơ cấu đầu tư hợp lý cho nền kinh tế Trong bối cảnh này, vai trò của nhà nước chủ yếu là cung cấp những hàng hóa công cần thiết, như hạ tầng kỹ thuật và xã hội, mà thị trường không thể tự đáp ứng.

Quan điểm ủng hộ sự can thiệp của nhà nước nhấn mạnh rằng thị trường không hoàn hảo, dẫn đến việc tự vận động không mang lại hiệu quả tối ưu Do đó, nhà nước cần cung cấp thông tin để cải thiện hoạt động của thị trường Ở nhiều nước đang phát triển, với nền kinh tế còn lạc hậu và phụ thuộc vào nông nghiệp, sự can thiệp của nhà nước là cần thiết để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện chiến lược công nghiệp hóa và hiện đại hóa, đồng thời phân bổ nguồn lực hiệu quả, giảm thiểu rủi ro và khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế.

Quan điểm về sự phát triển cân đối hay không cân đối

Thuyết tăng trưởng cân đối của Rosenstain - Rodan nhấn mạnh sự cần thiết phải đầu tư đồng thời vào nhiều ngành trong nền kinh tế để tăng trưởng cân đối giữa cung và cầu Ông cho rằng việc đầu tư vào các ngành chế biến cần một lượng vốn lớn trong thời gian dài, từ đó tạo ra nhu cầu phát triển cả sản phẩm phục vụ sản xuất và tiêu dùng Ý tưởng về “cú huých” cho rằng sự gia tăng đột ngột về đầu tư sẽ dẫn đến tăng thu nhập và tiết kiệm Cú huých này thường được thể hiện qua các hoạt động của chính phủ và là mục tiêu của viện trợ nước ngoài Rosenstain - Rodan cũng chỉ ra rằng viện trợ nước ngoài cho các nước kém phát triển nhằm thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế đến mức tự duy trì, không còn phụ thuộc vào nguồn tài trợ bên ngoài.

Thuyết tăng trưởng không cân đối của Hirchman (1958) nhấn mạnh rằng sự mất cân đối giữa cung và cầu có thể kích thích nhiều dự án mới Ông cho rằng đầu tư nhà nước vào các ngành công nghiệp trọng điểm sẽ mở ra cơ hội cho các ngành khác, từ đó tạo ra làn sóng đầu tư thứ hai Việc lựa chọn ngành đầu tư nên dựa trên mối liên hệ trong “chuỗi giá trị”, tức là khả năng tạo ra ngành mới hoặc cung cấp đầu vào cho ngành đã chọn Mặc dù Hirchman chấp nhận sự can thiệp của nhà nước, ông cho rằng ý tưởng “cú huých” không khả thi, và sự phát triển tốt nhất thường nảy sinh từ những mất cân đối Do nguồn vốn hạn chế, chính phủ nên tập trung phát triển một ngành cụ thể để tạo điều kiện cho các ngành khác phát triển.

Nền kinh tế Việt Nam hiện nay chủ yếu là nông nghiệp và có trình độ phát triển thấp, do đó cần có sự chủ động của nhà nước trong việc định hướng phát triển các ngành kinh tế Nhà nước cần tạo ra những điều kiện cần thiết như hạ tầng kỹ thuật và nguồn nhân lực để thúc đẩy sự phát triển kinh tế.

Đánh giá hiệu đầu tƣ công

Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng tổng sản lượng quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định, chủ yếu từ quá trình sản xuất Quá trình này liên quan đến việc phối hợp hiệu quả các yếu tố đầu vào để tạo ra sản phẩm Sự gia tăng tổng sản lượng quốc gia phụ thuộc vào nguồn lực đầu vào của đất nước, và bất kỳ sự thay đổi nào trong các nguồn lực này sẽ ảnh hưởng đến tổng sản lượng.

Các lý thuyết tăng trưởng được phát triển nhằm phân tích nguồn gốc của sự tăng trưởng kinh tế từ nhiều góc độ khác nhau Mỗi lý thuyết mang đến những khám phá mới, nhưng nhìn chung, chúng đều tập trung vào việc phân tích mối quan hệ giữa đầu ra và đầu vào trong nền kinh tế.

Mối quan hệ đầu ra (GDP, GNP) với đầu vào được khái quát qua hàm sản xuất:

Xi là yếu tố đầu vào

Hầu hết các nhà kinh tế học đều đồng ý rằng bốn yếu tố đầu vào cơ bản của nền kinh tế bao gồm: (1) Vốn sản xuất, yếu tố tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất và tạo ra tổng sản lượng quốc gia; (2) Lao động, yếu tố đặc biệt có ảnh hưởng lớn đến gia tăng sản lượng; (3) Đất đai nông nghiệp và tài nguyên thiên nhiên, đóng góp vào việc tăng sản lượng; và (4) Công nghệ, đầu vào quan trọng giúp cải tiến phương pháp sản xuất và nâng cao năng suất lao động Hàm sản xuất tổng quát được thể hiện qua công thức Y = F(K, L, R, T), trong đó K là vốn sản xuất, L là lao động, R là đất đai và T là công nghệ.

Hàm sản xuất chỉ ra rằng tổng sản lượng tăng trưởng phụ thuộc vào quy mô và chất lượng của các yếu tố đầu vào như K, L, R, T cùng với cách phối hợp chúng Mỗi yếu tố đóng vai trò quan trọng và có sự tác động lẫn nhau, tùy thuộc vào từng giai đoạn phát triển kinh tế Trong một số giai đoạn, có thể có yếu tố được nhấn mạnh hơn, nhưng điều đó không có nghĩa là tổng sản lượng chỉ phụ thuộc vào một yếu tố duy nhất.

Tăng trưởng kinh tế không chỉ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố kinh tế mà còn phụ thuộc vào những yếu tố phi kinh tế như thể chế kinh tế chính trị, đặc điểm văn hóa - xã hội và tôn giáo.

1.4.2 Hiệu quả của vốn đầu tư (ICOR)

Hệ số ICOR (k) là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của vốn đầu tư, nó được xác định theo công thức: k = K/Y Trong đó:

K (mức thay đổi vốn sản xuất) = Kt – Kt-1

Mức thay đổi về kết quả sản xuất (ΔY) được tính bằng Yt – Yt-1, trong đó t là năm nghiên cứu và t - 1 là năm trước đó Hệ số ICOR (Incremental Capital-Output Ratio) cho biết số đơn vị vốn cần tăng thêm để tạo ra một đơn vị kết quả sản xuất, tức là "giá" phải trả cho sự gia tăng này Hệ số ICOR càng lớn cho thấy chi phí cho tăng trưởng càng cao, phụ thuộc vào mức độ khan hiếm nguồn lực và công nghệ sản xuất Thông thường, các nước phát triển có hệ số ICOR cao hơn so với các nước đang phát triển, và xu hướng chung là hệ số ICOR sẽ tăng khi nền kinh tế phát triển, nghĩa là để đạt được một đơn vị kết quả sản xuất mới, cần nhiều nguồn lực hơn, đặc biệt là vốn, khi đường sản lượng thực tế gần tiệm cận đường sản lượng tiềm năng.

Công thức tính vốn sản xuất rất đơn giản, nhưng việc xác định các thành phần cấu tạo lại khá phức tạp Yếu tố Y có trong số liệu niên giám, và điều quan trọng là xác định mức tăng của vốn sản xuất Để tính K, cần hiểu rõ chỉ tiêu vốn sản xuất, bao gồm giá trị các tư liệu vật chất tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất và dịch vụ của nền kinh tế Vốn sản xuất được chia thành vốn cố định như công xưởng, nhà máy, và cơ sở hạ tầng, cùng với vốn lưu động bao gồm hàng tồn kho và các khoản đầu tư khác.

Vốn sản xuất được đánh giá qua các yếu tố hiện vật, phản ánh năng lực sản xuất của doanh nghiệp Chỉ tính đến phần vốn còn lại, tức là phần đã được tích lũy, và chỉ xem xét những tài sản có liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất và dịch vụ.

K đại diện cho phần tăng thêm trong năm, được tính bằng số vốn cuối năm trừ đi số vốn đầu năm, hoặc bằng tổng đầu tư mới, sửa chữa, và đưa thiết bị vào sản xuất, trừ đi phần giảm trong năm như khấu hao tài sản cố định và hư hỏng.

Việc xác định vốn có vào cuối mỗi năm gặp nhiều khó khăn do cần phải kiểm kê và đánh giá lại tài sản hàng năm Điều này đặc biệt phức tạp khi xác định sự tăng giảm của tài sản trong năm, đặc biệt là các tài sản được đưa vào sản xuất hoặc bị hư hỏng Do đó, người ta thường thay thế chỉ tiêu vốn đầu tư phát triển để phản ánh số vốn tăng lên trong năm, thông qua dữ liệu thống kê hàng năm.

1.4.3 Phương pháp phân tích Lợi ích - Chi phí

Phương pháp phân tích lợi ích - chi phí là kỹ thuật giúp quyết định lựa chọn giữa các dự án loại trừ lẫn nhau Phân tích này được thực hiện bằng cách đo lường giá trị tiền tệ của đầu vào và đầu ra Nếu lợi ích của dự án lớn hơn chi phí, dự án đó sẽ được xem là có giá trị và nên được triển khai.

Các dự án được phân tích lợi ích - chi phí để triển khai thường có giá trị đầu ra lớn hơn đầu vào Khi lựa chọn giữa nhiều dự án, phân tích này giúp xác định dự án mang lại lợi ích ròng cao nhất Tuy nhiên, việc xác định chi phí và lợi ích không hề đơn giản, vì một số đầu vào và đầu ra có mức giá ổn định trong khi số khác lại biến đổi Thêm vào đó, một số đầu vào và đầu ra có thể không được giao dịch trên thị trường, đòi hỏi chúng ta phải áp dụng các phương pháp định giá linh hoạt.

Mặc dù phương pháp phân tích lợi ích - chi phí được xem là hiệu quả trong đánh giá hiệu quả kinh tế của dự án, nhưng trong việc lựa chọn các dự án công, các yếu tố chính trị và xã hội cũng quan trọng không kém Tài nguyên thường được phân bổ dựa trên quyết định chính trị và hiệu quả xã hội, chứ không chỉ dựa vào lợi ích kinh tế Do đó, phương pháp này có thể ảnh hưởng đến quyết định của những người còn do dự và giúp chúng ta lựa chọn tối ưu giữa các dự án có tác động chính trị và xã hội tương tự.

Các nước phát triển thường sử dụng phương pháp phân tích lợi ích - chi phí để thẩm định các dự án công và tư quy mô lớn, nhằm ước tính lợi ích kinh tế, đặc biệt khi dự án nhận hỗ trợ từ quỹ EU Phương pháp này quan trọng vì nó không chỉ chứng minh tính khả thi kinh tế của dự án mà còn làm nổi bật sự cần thiết của quỹ EU Tại Việt Nam, việc áp dụng phương pháp này vẫn hạn chế do tài nguyên thường được phân bổ dựa trên quyết định chính trị hơn là hiệu quả kinh tế, công bằng và bình đẳng.

Phương pháp phân tích lợi ích - chi phí bao gồm các bước quan trọng như nhận dạng tất cả các yếu tố thuận lợi và bất lợi từ dự án, xác định lợi ích và chi phí xã hội của từng phương án, và lượng hóa chúng thành tiền Tiếp theo, lập bảng lợi ích và chi phí hàng năm, tính toán lợi ích xã hội ròng cho mỗi phương án, và so sánh chúng theo tiêu chí này Cuối cùng, cần kiểm tra ảnh hưởng của sự thay đổi trong giả định và dữ liệu trước khi đưa ra đề nghị cuối cùng.

1.4.4 Quy trình thẩm định dự án đầu tư công

Thực trạng đầu tư công của tỉnh Bình Thuận

Giới thiệu tổng quan chung về tỉnh Bình thuận

Bình Thuận là tỉnh ven biển thuộc Nam Trung Bộ, nằm giữa hai thành phố lớn Hồ Chí Minh và Nha Trang, tiếp giáp với Ninh Thuận, Lâm Đồng, Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu Tỉnh có quốc lộ 1A và đường sắt thống nhất chạy qua, với địa hình chủ yếu là đồi núi thấp và đồng bằng ven biển Tổng diện tích tự nhiên của Bình Thuận là 7.830 km2, chiều dài bờ biển đạt 192 km, dân số khoảng 1,3 triệu người và lực lượng lao động lên tới 734.500 người.

Về đơn vị hành chính, tỉnh có 10 đơn vị hành chính bao gồm: 1 thành phố,

1 thị xã và 8 huyện Thành phố Phan Thiết là trung tâm kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Thuận

Bình Thuận có lợi thế phát triển kinh tế với tiềm năng du lịch biển, nghỉ dưỡng, chế biến thủy sản, nông sản và khai thác khoáng sản Tuy nhiên, tỉnh vẫn gặp khó khăn trong việc thu hút đầu tư cho ngành công nghiệp chế biến và công nghiệp nặng do hạ tầng chưa phát triển đầy đủ, thiếu sức cạnh tranh so với các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam về nguồn nhân lực và khoa học kỹ thuật.

2.1.2 Khái quát tình hình tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội

Từ năm 1991 đến nay, tỉnh Bình Thuận đã trải qua những bước tăng trưởng kinh tế ấn tượng, với mức tăng trưởng bình quân đạt 12,02% trong giai đoạn 1991-1995 Tuy nhiên, giai đoạn 1996-2000, tăng trưởng kinh tế giảm xuống còn 10,16%, cho thấy sự không ổn định trong phát triển kinh tế của tỉnh Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực Đông Nam Á vào đầu năm 1998 cùng với các hạn chế nội tại đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế Bình Thuận, dẫn đến sự chững lại trong tăng trưởng.

Giai đoạn 1996-2000, mức tăng trưởng kinh tế đạt 10,16%, mặc dù thấp hơn so với giai đoạn 1991-1995 (12,02%), nhưng vẫn vượt trội so với mức tăng trưởng bình quân toàn quốc là 8,2%.

Giai đoạn 2001 - 2005, Việt Nam đã thực hiện nhiều cải cách pháp lý và kinh tế vĩ mô, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, đặc biệt tại Bình Thuận với mức tăng trưởng bình quân 14,3%/năm Trong đó, ngành công nghiệp chiếm 26%, dịch vụ 38% và nông nghiệp 36% Sự phát triển mạnh mẽ của ngành dịch vụ, đặc biệt là du lịch biển và nghỉ dưỡng, đã thu hút khoảng 1,5 triệu du khách đến tham quan và nghỉ dưỡng tại tỉnh Bình Thuận.

Giai đoạn 2006-2010, tỉnh ghi nhận mức tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 12,84% Tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm, ngoại trừ năm 2008 với mức cao 16,2% Cụ thể, năm 2006 tăng trưởng GDP đạt 13,9%, năm 2007 là 12,1%, năm 2008 tăng mạnh lên 16,2%, trong khi năm 2009 ước đạt 10,1% và năm 2010 ước là 12% Mặc dù năm 2009, nền kinh tế thế giới gặp khủng hoảng nghiêm trọng, ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế Việt Nam và tỉnh, nhưng tốc độ tăng trưởng của tỉnh vẫn đạt 10,1%, cao hơn mức bình quân chung của cả nước.

Năm 2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 12%, thấp hơn kế hoạch 14-15% nhưng vẫn cao hơn so với các giai đoạn trước Tỷ trọng ngành công nghiệp chiếm 28-29%, dịch vụ 41-42% và nông lâm - ngư nghiệp 30-31% GDP bình quân đầu người đạt 20,71 triệu đồng (1.089 USD), tăng gần 19,03% và gấp 2,7-2,8 lần so với năm 2000.

Biểu độ 2.1: Tăng trưởng kinh tế của tỉnh từ 1991-2010

Nguồn: Cục thống kê Bình Thuận

Tăng trưởng kinh tế của tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2001 - 2010 đạt bình quân 12,4%, với sự phát triển rõ rệt của cả ba nhóm ngành: nông lâm thủy sản tăng 7%/năm, công nghiệp xây dựng tăng 16%/năm và dịch vụ tăng 15,1%/năm Cơ cấu ngành nghề đã có sự chuyển dịch tích cực, trong đó tỷ trọng nông lâm thủy sản giảm từ 40% năm 2001 xuống 20,5% năm 2010, trong khi tỷ trọng ngành dịch vụ tăng từ 36,45% lên 44,6% trong cùng thời gian Ngành du lịch nổi bật với sự phát triển nhanh chóng và đóng góp tỷ trọng cao trong lĩnh vực dịch vụ.

Biểu đồ 2.2: Tăng trưởng các ngành kinh tế từ năm 2001 -2010

Nguồn: Cục thống kê Bình Thuận

2.2 Thực trạng đầu tư công trên địa bàn Bình Thuận 2.2.1 Tổng vốn đầu tư trên địa bàn

Vốn đầu tư phát triển tại tỉnh Bình Thuận đã tăng nhanh trong những năm gần đây, đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh Từ năm 2001 đến nay, tỷ lệ đầu tư trên GDP trung bình đạt 39,91% mỗi năm, với mức tăng từ 30,29% năm 2001 lên 40,73% năm 2005 Mặc dù có sự giảm nhẹ xuống 37,74% vào năm 2007 và bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế, nhưng vốn đầu tư năm 2008 vẫn tăng 39,84% so với năm 2007.

Trong giai đoạn 2001 – 2010, tỷ lệ đầu tư trên tổng GDP của khu vực kinh tế tư luôn cao hơn khu vực công, với các số liệu cụ thể như sau: năm 2001 khu vực công chiếm 11,21% trong khi khu vực tư đạt 18,03%; năm 2005 là 14,79% và 24,97%; năm 2007 giảm xuống 8,89% nhưng khu vực tư tăng lên 28,08%; và năm 2010 khu vực công đạt 11,49% trong khi khu vực tư vươn lên 39,01% Sự phát triển mạnh mẽ của khu vực tư, đặc biệt trong lĩnh vực du lịch - dịch vụ, được thúc đẩy nhờ các hình thức đầu tư như BOT và PPP, mà Nhà nước đã khuyến khích thông qua việc xây dựng hạ tầng giao thông phục vụ ngành du lịch Ngược lại, vốn đầu tư của khu vực công chủ yếu tập trung vào phát triển doanh nghiệp nhà nước, chương trình xoá đói giảm nghèo, và các dự án an sinh xã hội.

Biểu độ 2.3: Tỷ lệ đầu tư trên GDP các khu vực từ 2001-2010

Tỷ lệ đầu tư/GDP các khu vực

Khu vực công Khu vực tư

Nguồn: Cục Thống Kê tỉnh Bình Thuận

Biểu đồ 2.4: Tổng vốn đầu tư các khu vực

Tổng vốn đầu tư các khu vực

Tổng vốn đầu tư Vốn khu vực tư Vốn khu vực công

Nguồn: Cục Thống Kê tỉnh Bình Thuận

Nếu so sánh đầu tư hai khu vực trong tổng vốn đầu tư xã hội thì kể từ năm

Từ năm 2001 đến nay, đầu tư khu vực công đã bị khu vực tư vượt trội, chủ yếu do tác động từ khu vực công và các chính sách khuyến khích đầu tư như BOT, BT, PPP Đầu tư khu vực công đã tạo ra kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, thu hút sự quan tâm từ khu vực tư Cụ thể, tỷ lệ đầu tư khu vực tư đã tăng từ 18,03% năm 2001 lên 39,01% năm 2010, cho thấy sự đóng góp lớn vào GDP của tỉnh Nguồn vốn đầu tư khu vực tư đến từ các doanh nghiệp, chủ yếu tập trung vào các ngành như du lịch, dịch vụ, công nghiệp, nông lâm thủy sản, và xây dựng Ngoài ra, nguồn vốn từ người dân cũng đóng góp đáng kể, chủ yếu cho sản xuất nông nghiệp và xây dựng nhà ở.

Việc nâng cấp đường sá, giải phóng mặt bằng, xây dựng các khu cụm công nghiệp … đã làm thay đổi bộ mặt nông thôn

Nguồn vốn này chủ yếu được sử dụng cho sản xuất nông nghiệp, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc đổi mới trang thiết bị và nâng cao năng lực sản xuất Nó cũng nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất tư liệu phục vụ thu hoạch, sau thu hoạch và chế biến nông sản.

Nguồn vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu đầu tư phát triển của Tỉnh Kể từ năm 2009, Tỉnh đã triển khai cải cách hành chính và xây dựng chính sách ưu đãi để thu hút nhà đầu tư nước ngoài, dẫn đến sự gia tăng dòng vốn đầu tư trực tiếp và tỷ trọng của nó trong tổng đầu tư phát triển cũng ngày càng tăng.

Mặc dù vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Tỉnh chủ yếu tập trung vào ngành công nghiệp dệt may và chế biến thực phẩm, tính đến tháng 9/2010, Tỉnh đã thu hút 77 dự án FDI với tổng vốn đăng ký đạt 1.100 triệu USD.

2.2.2 Cơ cấu đầu tư công trên địa bàn từ 2001 đến 2010

Tỉnh Bình Thuận nhận thức rõ vai trò quan trọng của đầu tư công trong phát triển kinh tế - xã hội địa phương Để thúc đẩy sự phát triển, tỉnh đã tập trung vào việc cải thiện kết cấu hạ tầng, coi đây là yếu tố then chốt cho sự phát triển bền vững Chủ trương này được khẳng định trong các Nghị quyết của Đảng và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, nhằm chuẩn bị cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đồng bộ với cả nước.

Thực trạng đầu tƣ công trên địa bàn Bình Thuận

3.1 Mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội và đầu tư công trên địa bàn tỉnh Bình Thuận

Bình Thuận là tỉnh có mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào đầu tư, với việc huy động nguồn vốn lớn cho phát triển có vai trò quan trọng trong giai đoạn hiện nay Tăng cường đầu tư không chỉ nâng cao năng lực sản xuất mà còn tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững.

Do vậy, trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh từ nay đến

Năm 2020, tỉnh đã tập trung đầu tư vào kết cấu hạ tầng và huy động mọi nguồn lực để đạt hiệu quả cao trong phân bổ đầu tư công Dự báo các chương trình, dự án trọng điểm sẽ tiếp tục phát triển, tạo nền tảng cho tăng trưởng kinh tế và an sinh xã hội Các công trình như đường cao tốc Bắc - Nam, cảng tổng hợp Alumin Kê Gà, và tuyến đường sắt cao tốc TP Hồ Chí Minh - Phan Thiết - Nha Trang sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế Đầu tư cho hạ tầng khu công nghiệp, công trình thủy lợi, và các dự án phúc lợi như cấp nước, trường học, và cơ sở y tế sẽ khai thác tiềm năng và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống người dân.

CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ CÔNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH THUẬN

Ngày đăng: 18/08/2021, 10:49

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN