1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tài liệu luận văn Tác Động Tuyến Tính Và Phi Tuyến Tính Của Nợ Công Đến Tăng Trưởng Kinh Tế

95 7 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 95
Dung lượng 2,33 MB

Cấu trúc

  • BÌA

  • MỤC LỤC

  • DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

  • DANH MỤC BẢNG

  • 1. GIỚI THIỆU

  • 2. TỔNG QUAN CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TRƢỚC ĐÂY

    • 2.1. Khung lý thuyết về nợ công và tăng trƣởng kinh tế

    • 2.2. Bằng chứng thực nghiệm về tác động của nợ công đến tăngtrƣởng kinh tế

      • 2.2.1. Tác động tuyến tính:

      • 2.2.2. Tác động phi tuyến:

  • 3. DỮ LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

    • 3.1. Mô hình:

      • 3.1.1. Hồi quy quan hệ tuyến tính

      • 3.1.2. Hồi quy quan hệ phi tuyến

    • 3.2. Phƣơng pháp nghiên cứu:

    • 3.3. Dữ liệu

  • 4. KẾT QUẢ

    • 4.1. Phân tích đa biến: quan hệ giữa nợ công và tăng trƣởng

    • 4.2. Kiểm định tính bền vững của mô hình

  • 5. KẾT LUẬN

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • Phụ lục I.1: Hồi quy bằng phương pháp GMM- Mô hình tuyến tính cơ bản

  • Phụ lục I.2: Hồi quy bằng phương pháp GMM- Mô hình phi tuyến dạng bậc hai

  • Phụ lục I.3: Hồi quy bằng phương pháp GMM- Mô hình phi tuyến dạng 1ngưỡng

  • Phụ lục I.4: Hồi quy bằng phương pháp GMM- Mô hình phi tuyến 2 ngưỡng

  • Phụ lục I.5: Hồi quy bằng phương pháp GMM- Mô hình phi tuyến với CPIA(Robust,

  • Phụ lục II.1: Hồi quy bằng phương pháp GMM- Mô hình tuyến tính (bỏ biếnCPIA)

  • Phụ lục II.2: Hồi quy bằng phương pháp GMM- Mô hình phi tuyến dạng bậc 2 (bỏbiến CPIA)

  • Phụ lục II.3: Hồi quy bằng phương pháp GMM- Mô hình phi tuyến dạng 1 ngưỡng(bỏ biến CPIA)

  • Phụ lục II.4: Hồi quy bằng phương pháp GMM- Mô hình phi tuyến dạng 2ngưỡng (bỏ biến CPIA)

  • Phụ lục III.1: Hồi quy bằng phương pháp Fixed effect model- Mô hình tuyến tính

  • Phụ lục III.2: Hồi quy bằng phương pháp Fixed effect Model- Mô hình phi tuyếndạng bình phương

  • Phụ lục III.3: Hồi quy bằng phương pháp Fixed effect model- Mô hình phi tuyếndạng 1 ngưỡng

  • Phụ lục III.4: Hồi quy bằng phương pháp Fixed effect model- Mô hình phi tuyếndạng 2 ngưỡng

  • Phụ lục III.5: Hồi quy bằng phương pháp Fixed effect model- Mô hình phi tuyếntheo CPIA

  • Phụ lục III.6: Hồi quy bằng phương pháp Random effect model- Mô hình tuyếntính

  • Phụ lục III.7: Hồi quy bằng phương pháp Random effect model- Mô hình phi tuyếndạng bình phương

  • Phụ lục III.9. Hồi quy bằng phương pháp Random effect model- Mô hình phi tuyếndạng 2 ngưỡng

  • Phụ lục III.9: Hồi quy bằng phương pháp Random effect model- Mô hình phi tuyếndạng 2 ngưỡng

  • Phụ lục III.10: Hồi quy bằng phương pháp Random effect model- Mô hình phi tuyếntheo CPIA

  • Phụ lục IV.1: Kiểm định tính vững mô hình 2 ngưỡng- thêm biếnPOPULATION

  • Phụ lục IV.2: Kiểm định tính vững mô hình 2 ngưỡng- thêm biến CREDIT

  • Phụ lục IV.3: Kiểm định tính vững mô hình 2 ngưỡng- thêm biếnDEMOCRACY

  • Phụ lục IV.4: Kiểm định tính vững mô hình phi tuyến theo CPIA- thêm biếnPOPULATION

  • Phụ lục IV.5: Kiểm định tính vững mô hình phi tuyến theo CPIA- thêm biếnCREDIT

  • Phụ lục IV.6: Kiểm định tính vững mô hình phi tuyến theo CPIA- thêm biếnDEMOCRACY

  • Phụ lục V.1: Kiểm định tính vững (Collapse) - Mô hình tuyến tính

  • Phụ lục V.2 : Kiểm định tính vững (Collapse) - Mô hình phi tuyến dạng bậc hai

  • Phụ lục V.3: Kiểm định tính vững (Collapse) - Mô hình phi tuyến dạng 1 ngưỡng

  • Phụ lục V.4: Kiểm định tính vững (Collapse) - Mô hình phi tuyến dạng 2 ngưỡng

  • Phụ lục V.5: Kiểm định tính vững (Collapse) - Mô hình phi tuyến theo CPIA

Nội dung

Giới thiệu

Khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu năm 2008 đã thúc đẩy nhiều quốc gia gia tăng nợ chính phủ nhằm phục hồi nền kinh tế Từ đó, cuộc khủng hoảng nợ công đã nảy sinh, ảnh hưởng sâu rộng đến tình hình tài chính của các quốc gia.

Khủng hoảng Hy Lạp đã lan rộng ra khắp Châu Âu, tạo ra tác động tiêu cực đến hầu hết các nền kinh tế lớn như Mỹ và Nhật Bản, đồng thời ảnh hưởng đến tình hình kinh tế toàn cầu.

Khủng hoảng nợ công bắt nguồn từ Hy Lạp đã lan rộng ra Châu Âu và ảnh hưởng nghiêm trọng đến các nền kinh tế lớn như Mỹ và Nhật Bản, đẩy nhiều quốc gia vào nguy cơ vỡ nợ Vấn đề nợ công không chỉ giới hạn ở Hy Lạp hay các nước trong khu vực đồng euro, mà còn là thách thức lớn đối với các nước đang phát triển, nơi có nhu cầu vốn lớn cho đầu tư phát triển Một câu hỏi quan trọng đặt ra là mức vay nợ tối ưu cho mỗi quốc gia để đảm bảo an toàn tài chính và liệu quy mô nợ công có tác động đến tăng trưởng kinh tế hay không Hiểu rõ tác động của tổng nợ công đến tăng trưởng kinh tế sẽ giúp nâng cao nhận thức về vai trò của nó, từ đó xây dựng các chính sách quản lý nợ công hiệu quả, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế.

Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế, nhưng bằng chứng thực nghiệm vẫn còn hạn chế, chủ yếu tập trung vào các nước phát triển và vấn đề nợ nước ngoài Để cung cấp cái nhìn tổng quát về tác động của tổng nợ công đối với các quốc gia đang phát triển, tôi đã chọn nghiên cứu về tác động tuyến tính và phi tuyến tính của nợ công đến tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là tại Việt Nam, nhằm kiểm định lại mối quan hệ này và nhấn mạnh tác động phi tuyến tính.

Bài nghiên cứu được cấu trúc như sau: Phần hai tổng hợp các nghiên cứu trước đây về lý thuyết và thực nghiệm Phần ba trình bày phương pháp nghiên cứu, mô hình kinh tế và thông tin về bộ dữ liệu Tiếp theo, nghiên cứu thảo luận các kết quả hồi quy chính (4.1) và kiểm định độ vững mạnh của mô hình (4.2) Cuối cùng, bài viết tổng kết và đưa ra gợi ý chính sách cho các quốc gia trong mẫu nghiên cứu, đồng thời chỉ ra một số hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo.

Tổng quan những nghiên cứu trước đây

Khung lý thuyết về nợ công và tăng trưởng kinh tế

Khái niệm về nợ công:

Nợ công hiện nay vẫn chưa có định nghĩa chính thức, nhưng thường được hiểu là nợ của khu vực công, bao gồm các nghĩa vụ nợ của chính quyền trung ương, chính quyền địa phương, ngân hàng trung ương và các tổ chức độc lập Theo nghĩa rộng, nợ công bao gồm những khoản nợ mà nhà nước phải trả trong trường hợp các tổ chức này phá sản, trong khi theo nghĩa hẹp, nó chỉ bao gồm nợ của chính phủ và các khoản nợ được chính phủ bảo lãnh Nợ công thường được phân thành nợ công nội địa và nợ công nước ngoài Ở nhiều quốc gia, nợ công được xác định bao gồm nợ của chính phủ và nợ do chính phủ bảo lãnh, trong khi một số nước còn tính cả nợ của chính quyền địa phương và doanh nghiệp nhà nước phi lợi nhuận Quan niệm về nợ công còn phụ thuộc vào thể chế kinh tế - chính trị của từng quốc gia.

Lý thuyết về tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế đang gây tranh cãi với hai quan điểm chủ đạo Một bên cho rằng nợ công có thể thúc đẩy tăng trưởng thông qua đầu tư vào cơ sở hạ tầng và các dịch vụ công, trong khi bên kia lo ngại rằng nợ công cao sẽ dẫn đến áp lực tài chính và cản trở sự phát triển bền vững.

Theo quan điểm truyền thống của Keynes, khi chính phủ vay nợ để bù đắp thâm hụt ngân sách do giảm thuế và chi tiêu công không thay đổi, sẽ ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng của người dân Điều này dẫn đến việc tăng mức tiêu dùng, từ đó làm tăng tổng cầu về hàng hóa và dịch vụ, cũng như sản lượng và việc làm trong ngắn hạn Tuy nhiên, về dài hạn, điều này có thể dẫn đến sự giảm sút trong tiết kiệm quốc gia và những hệ lụy khác.

David Ricardo (1772-1832) cho rằng mức thuế cắt giảm được bù đắp bằng nợ chính phủ sẽ không ảnh hưởng đến tiêu dùng như quan điểm truyền thống về nợ Thay vào đó, điều này sẽ dẫn đến việc gia tăng tiết kiệm tư nhân, vì người dân chuẩn bị cho mức thuế cao trong tương lai để chi trả lãi và gốc cho các khoản nợ hiện tại.

Hai quan điểm về nợ công luôn song hành và phù hợp với từng thời điểm của quốc gia phụ thuộc vào hành vi của quốc gia đó Nợ công có thể mang lại tác động tích cực khi chính phủ sử dụng nó để tài trợ cho các dự án trọng điểm, khuyến khích phát triển sản xuất và kích thích tăng trưởng kinh tế Việc tăng nợ công để bù đắp thâm hụt ngân sách do cắt giảm thuế có thể kích thích tiêu dùng, tăng sản lượng, việc làm và tổng sản phẩm quốc dân trong ngắn hạn.

Trong dài hạn, nợ chính phủ lớn có thể dẫn đến lãi suất tăng, đầu tư và tiết kiệm giảm, từ đó làm chậm tăng trưởng sản lượng tiềm năng quốc gia Khi nợ công vượt quá giới hạn an toàn, nền kinh tế sẽ trở nên dễ bị tổn thương và chịu áp lực từ cả nội tại lẫn bên ngoài Những tác động tiêu cực này của nợ công đến nền kinh tế rất đáng lưu ý.

Nợ công lớn làm giảm tích lũy vốn tư nhân, dẫn đến thoái lui đầu tư Khi chính phủ tăng vay nợ, đặc biệt là vay trong nước, tích lũy vốn tư nhân bị thay thế bởi nợ chính phủ Người dân chuyển từ sở hữu cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp hay tiết kiệm ngân hàng sang trái phiếu chính phủ, làm giảm cung vốn trong khi cầu tín dụng của chính phủ tăng Điều này dẫn đến lãi suất tăng, chi phí đầu tư gia tăng và có thể gây ra thoái lui đầu tư khu vực tư nhân.

Nợ công làm giảm tiết kiệm quốc gia, đặc biệt khi ngân sách nhà nước thâm hụt và chính phủ phải vay nợ để bù đắp Sự gia tăng nợ công dẫn đến giảm tiết kiệm tư nhân, giảm đầu tư nội địa và giảm xuất khẩu ròng Khi thâm hụt ngân sách và thâm hụt cán cân thương mại xảy ra đồng thời, hiện tượng thâm hụt kép sẽ xuất hiện, gây tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế.

Nợ công tạo áp lực gây ra lạm phát thông qua hai nguyên nhân chính: tăng tổng cầu và chi phí đẩy Khi chính phủ vay nợ bằng cách phát hành trái phiếu, tiêu dùng của chính phủ tăng lên, đồng thời lãi suất cũng tăng, làm tăng chi phí đầu tư và giá thành sản phẩm Lãi suất cao khiến người nắm giữ trái phiếu cảm thấy giàu có hơn, dẫn đến tiêu dùng tư nhân tăng, từ đó tạo áp lực lạm phát trong ngắn hạn và ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế Ngoài ra, khi chính phủ vay nợ nước ngoài, dòng ngoại tệ lớn sẽ vào trong nước, nhưng áp lực trả nợ bằng ngoại tệ sẽ làm tăng cầu ngoại tệ, giảm giá đồng nội tệ và tăng chi phí nhập khẩu, dẫn đến nguy cơ lạm phát Tỷ giá tăng cũng làm chi phí thanh toán nợ trở nên cao hơn, có thể vượt quá khả năng ngân sách và dẫn đến nguy cơ vỡ nợ.

Nợ công có tác động tiêu cực đến hoạt động kinh tế và phúc lợi xã hội, khiến người dân phải chịu thuế cao hơn trong tương lai để trả lãi cho các khoản vay nước ngoài, từ đó làm giảm thu nhập và tiêu dùng, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống Trong khi vay trong nước ít tác động hơn do chính phủ nợ công dân của mình, vẫn có những tác động tiêu cực đến hành vi kinh tế của họ, như thay đổi trong tiết kiệm và tiêu dùng Dù chính phủ áp dụng loại thuế nào, việc đánh thuế sẽ dẫn đến sai lệch trong các hoạt động kinh tế cá nhân, ảnh hưởng đến sản xuất và việc làm Hơn nữa, việc tăng thuế để trả lãi cũng tạo ra sự phân phối lại thu nhập giữa người nộp thuế và người sở hữu trái phiếu chính phủ, khiến người nộp thuế phải gánh chịu sự suy giảm về thu nhập, tiêu dùng hoặc tiết kiệm.

Nợ công lớn không chỉ ảnh hưởng đến nền kinh tế mà còn gây ra nhiều hệ quả nghiêm trọng khác, như thay đổi quy trình quản lý Nhà nước và chính sách tài chính quốc gia Điều này có thể làm tổn hại đến hệ số tín nhiệm quốc gia, giảm chủ quyền và độc lập chính trị Các quốc gia nợ thường phải đối mặt với áp lực từ chủ nợ và tổ chức tài chính quốc tế, dẫn đến việc thắt chặt chi tiêu, tăng thuế và giảm trợ cấp xã hội Hơn nữa, sự phụ thuộc vào vay nợ nước ngoài có thể làm giảm vị thế của quốc gia trong các mối quan hệ quốc tế.

Nợ công có ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế, tùy thuộc vào thời điểm, tỷ lệ nợ và đặc điểm của các quốc gia vay nợ Tổng thể, việc chính phủ vay nợ có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Bằng chứng thực nghiệm

2.2 Bằng chứng thực nghiệm về tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế

Hiện nay, nghiên cứu thực nghiệm về nợ công vẫn còn hạn chế và thiếu sự đồng thuận, theo nhận định của Abbas và Christensen.

Một trong những lý do chính dẫn đến sự thiếu quan tâm trong việc điều tra chính thức về tác động của nợ công đến tăng trưởng là sự thiếu hụt và không đáng tin cậy của dữ liệu nợ công ở nhiều quốc gia, đặc biệt là ở các nước đang phát triển Số liệu nợ công ở các quốc gia này thường hạn chế và ít được công khai, dẫn đến việc nghiên cứu chủ yếu tập trung vào nợ nước ngoài thay vì tổng nợ công Nguyên nhân của tình trạng này bao gồm sự thiếu sẵn sàng và đáng tin cậy của dữ liệu cho một mẫu lớn quốc gia, sự thờ ơ của các tổ chức tài chính quốc tế đối với nợ ở các nước mới nổi và đang phát triển, cùng với sự thiếu minh bạch trong việc công bố số liệu nợ từ nhiều chính phủ.

Nợ công được coi là một biến nội sinh, có thể sử dụng để kiểm soát và ảnh hưởng đến kết quả tài chính vĩ mô Trước khi xảy ra khủng hoảng nợ công khu vực Châu Âu, nợ công chưa được xem là vấn đề quan trọng, với nhiều nghiên cứu tập trung vào nợ nước ngoài ở các quốc gia mới nổi và có thu nhập thấp Clements et al (2003) đã chứng minh mối quan hệ phi tuyến giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế, chỉ ra rằng điểm bước ngoặt của nợ nước ngoài nằm trong khoảng 20%-30% GDP, trong khi ngưỡng danh nghĩa cao hơn khoảng 50%.

Nghiên cứu năm 2002 đã xác nhận mối quan hệ phi tuyến tính, cụ thể là đường cong Laffer, giữa mức độ nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế, dựa trên dữ liệu của 93 quốc gia đang phát triển trong giai đoạn 1969-1998 Hơn nữa, nghiên cứu của Partillo et al (2004) cho thấy rằng mức nợ nước ngoài có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển khi vượt quá 35-40% GDP ở các quốc gia đang phát triển.

Nợ nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, nhưng từ những năm 1990, nhiều quốc gia đã nhận thức được tầm quan trọng của nợ nội địa trong tổng nợ công và bắt đầu thay thế nợ nước ngoài bằng nợ nội địa Từ 1990 đến 2004, tỷ trọng nợ nội địa trong tổng nợ công của 25 nước mới nổi đã tăng từ 38% lên 58%, và nợ nội địa cũng gia tăng đáng kể ở các nước có thu nhập thấp Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007 đã làm trầm trọng thêm tình hình tài chính của các quốc gia đang phát triển, với chi tiêu công tăng cao và thu nhập giảm Do đó, khi phân tích nợ công, ngoài tỷ lệ nợ công so với GDP, việc xác định nguồn gốc nợ là trong nước hay nước ngoài cũng rất quan trọng.

Mặc dù được gọi là "Hy Lạp thứ hai", Nhật Bản có sự khác biệt lớn về nợ công so với Hy Lạp, với 95% trái phiếu chính phủ do người dân nắm giữ, trong khi 70% nợ của Hy Lạp thuộc về người nước ngoài Nhật Bản cũng kiểm soát tỷ giá hối đoái và có dự trữ ngoại tệ cao, điều này giúp nền kinh tế Nhật Bản, mặc dù gặp nhiều khó khăn, khó trở thành mục tiêu của giới đầu cơ quốc tế.

Nhận thức được tầm quan trọng của nợ công trong nước và nước ngoài, nhiều nghiên cứu gần đây đã thu thập dữ liệu so sánh để khám phá ảnh hưởng của tổng nợ công đến tăng trưởng, bao gồm cả tác động tuyến tính và phi tuyến.

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng nợ công có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế, với hầu hết các kết quả đều ủng hộ mối quan hệ tuyến tính này.

Nợ công có thể gây ra tác động tiêu cực đến nền kinh tế thông qua lạm phát và áp lực tài chính, ngay cả trong ngắn hạn (Cochrane, 2011a, b) Nghiên cứu của Kumar và Woo (2010) cùng với Greiner (2012a) cũng khẳng định rằng nợ công có ảnh hưởng đơn điệu và tiêu cực đến tăng trưởng GDP, năng suất các yếu tố tổng hợp và đầu tư.

Nghiên cứu của Alfredo Schclanek (2004) điều tra mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế, tập trung vào nợ nước ngoài của nợ công Mẫu nghiên cứu bao gồm 24 nước công nghiệp và 59 nước đang phát triển, sử dụng hồi quy GMM hệ thống cho dữ liệu 5 năm không chồng chéo từ 1970-2002 Kết quả cho thấy ở nhóm nước đang phát triển, có mối quan hệ tiêu cực giữa tỷ lệ nợ công nước ngoài trên GDP, xuất khẩu, TFP với tốc độ tăng trưởng GDP Ngược lại, không tìm thấy bằng chứng có ý nghĩa thống kê về mối quan hệ này ở nhóm nước công nghiệp, cho thấy nợ công cao ở các nước công nghiệp không nhất thiết liên quan đến tốc độ tăng trưởng GDP thấp hơn.

Nghiên cứu của Andrea F Presbitero (2010) chỉ ra rằng nợ công có tác động tuyến tính tiêu cực lên tăng trưởng kinh tế ở 92 nước đang phát triển trong giai đoạn 1990-2007, sử dụng dữ liệu không chồng chéo 3 năm và phương pháp ước lượng GMM hệ thống Tương tự, nghiên cứu của Stephen G Cecchetti, M.S Mohanty và Fabrizio Zampolli (2011) trên mẫu 18 quốc gia OECD từ 1980 đến 2010 cũng cho thấy rằng mức độ nợ công gia tăng sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế, mặc dù ảnh hưởng này tương đối nhỏ.

Vladimir Šimić và Vinko Muštra (2012) đã tiến hành khảo sát mối quan hệ giữa nợ công và nợ nước ngoài với tăng trưởng kinh tế tại khu vực Trung Đông và Đông Nam Âu, sử dụng các phương pháp như Fixed effect model (FEM), random effect model (REM) và GMM để phân tích dữ liệu bảng động từ 18 quốc gia Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối quan hệ thống kê đáng kể giữa nợ công, nợ nước ngoài và tăng trưởng, với xu hướng giảm tăng trưởng khi nợ ở mức cao Những phát hiện này cảnh báo các nhà hoạch định chính sách cần kiểm soát nợ quốc gia, đặc biệt trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu gần đây, khi nhiều nền kinh tế đang đối mặt với nguy cơ phá sản.

Nghiên cứu của Manoel Bittencourt (2012) đã khảo sát ảnh hưởng của nợ công nước ngoài đối với tăng trưởng kinh tế ở 9 quốc gia châu Mỹ La Tinh, áp dụng phương pháp phân tích dữ liệu bảng và hồi quy OLS gộp.

Các phương pháp FEM, Fixed effect với biến công cụ (FEIV), GMM sai phân và GMM hệ thống đã củng cố quan điểm rằng tăng trưởng kinh tế được thúc đẩy khi chính phủ giảm gánh nặng nợ, đặc biệt là nợ vay nước ngoài.

Nợ công lớn có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng dài hạn thông qua hiện tượng debt-overhang, khi mà đầu tư bị giảm hoặc trì hoãn do khu vực tư nhân lo ngại rằng lợi nhuận sẽ phải dùng để trả nợ Theo lý thuyết của Krugman (1988) và Sachs (1989), khi nợ vượt quá một ngưỡng nhất định, nó sẽ gây ra sự không chắc chắn về khả năng thanh toán nợ của quốc gia, dẫn đến giảm lợi ích đầu tư và tiềm năng tăng trưởng Hơn nữa, mức độ nợ công cao còn có thể gây ra những hệ quả xấu đối với sự ổn định kinh tế vĩ mô.

Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu

Mô hình

3.1.1 Hồi quy quan hệ tuyến tính

Phương trình được ước tính là một mô hình tăng trưởng Solow cơ bản

(1956) bao gồm các biến chính cộng với một số biến kiểm soát khác, và được dựa chủ yếu trên nền tảng bài nghiên cứu của Andrea F Presbitero (2010):

Trong đó: GROWTH là tốc độ tăng GDP bình quân đầu người, được tính bằng logarit tự nhiên của thay đổi GDP bình quân đầu người;

GDPi,t-1 là GDP bình quân đầu người trễ 1 kỳ,được tính bằng logarit tự nhiên của GDP bình quân đầu người;

PDEBTi,t: nợ công, được tính bằng logarit tự nhiên của tỷ lệ nợ công/ GDP hàng năm

Bộ biến kiểm soát Xi,t trong mô hình nợ công-tăng trưởng kinh tế bao gồm tập hợp các biến sau:

 INVEST: logarit tự nhiên của tỷ lệ tổng đầu tư/GDP

Trong nghiên cứu về nguồn nhân lực, tác giả sử dụng logarit tự nhiên của tổng tỷ lệ giáo dục tiểu học để đo lường nguồn nhân lực tích lũy, dựa trên mô hình Solow và các nghiên cứu của Mankiw, Romer và Weil (1992) Mặc dù các nghiên cứu trước đây đề xuất rằng giá trị đầu tư vào nguồn nhân lực nên bao gồm tốc độ tăng dân số và tỷ lệ giáo dục trung học, bài nghiên cứu này vẫn chọn tỷ lệ giáo dục tiểu học vì cho rằng nó cung cấp thông tin giá trị hơn cho các nước đang phát triển với thu nhập thấp và trung bình (Kalaitzidakis và cộng sự, 2001) Khi kiểm định độ vững của mô hình, việc thêm biến tốc độ tăng dân số không làm thay đổi đáng kể kết quả.

CPIA, hay Chỉ số Đánh giá Chính sách và Tổ chức, đo lường vai trò của chính sách và tổ chức trong phát triển kinh tế, theo Acemoglu và Robinson (2010) Đây là một chỉ số tổng hợp phản ánh mức độ mà chính sách quốc gia và các tổ chức tạo ra môi trường thuận lợi cho tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo CPIA được phát triển bởi Ngân hàng Thế giới, và từ năm 2005, dữ liệu đã được công bố đầy đủ trong Chỉ số Phát triển Thế giới Tuy nhiên, do dữ liệu chỉ được đánh giá chính thức từ năm 2005, các số liệu trước đó được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau có thể không chính xác, ảnh hưởng đến kết quả phân tích mô hình.

 OPENESS: độ mở thương mại, đo lường bằng logarit tự nhiên của tổng giá trị xuất nhập khẩu so với GDP

Lạm phát: Độ lệch chuẩn của lạm phát trong chu kỳ 3 năm phản ánh mức độ bất ổn kinh tế vĩ mô và cung cấp thông tin giá trị hơn so với chỉ số lạm phát đơn thuần Các yếu tố ảnh hưởng bao gồm hiệu ứng cố định quốc gia và hiệu ứng cố định thời gian, được đo bằng biến giả không gian và thời gian, cùng với sai số eit Các biến số chính được thể hiện dưới dạng logarit để bảo tồn các hình thức nhân của hàm sản lượng.

Mô hình này là mô hình bảng động, kết hợp dữ liệu dạng bảng với dữ liệu chuỗi thời gian và dữ liệu chéo Sự xuất hiện của độ trễ biến phụ thuộc ở vế phải khiến nó được gọi là mô hình động (dynamic panel model).

Tóm lại, mô hình hồi quy tuyến tính thể hiện mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế được triển khai cụ thể như sau:

GROWTH i,t = αGDP i,t-1 + γ PDEBT i,t +β 1 INV+ β 2 HUMAN+β 3 CPIA+β 4

3.1.2 Hồi quy quan hệ phi tuyến

Tiến hành kiểm tra sự hiện diện của hiệu ứng phi tuyến theo giả thuyết debt-overhang, phù hợp với các bằng chứng gần đây từ Cordella, Ricci và Ruiz-Arranz (2010) cũng như Reinhart và Rogoff (2010b) Lý thuyết debt-overhang giải thích mối quan hệ giữa nợ và tăng trưởng kinh tế, có thể được minh họa qua đường cong Laffer nợ Đường cong này cho thấy tổng nợ càng lớn thì khả năng trả nợ càng giảm Trên phần dốc lên của đường cong, giá trị hiện tại của nợ tăng lên đi kèm với khả năng trả nợ cũng tăng, trong khi trên phần dốc xuống, giá trị hiện tại của nợ tăng lại dẫn đến khả năng trả nợ giảm.

Lý thuyết debt-overhang cho thấy rằng tổng nợ lớn có thể kìm hãm tăng trưởng kinh tế do giảm đầu tư Ở mức nợ hợp lý, vay nợ có thể thúc đẩy tăng trưởng, nhưng khi tổng nợ tích lũy vượt quá ngưỡng nhất định, nó sẽ cản trở sự phát triển Điều này dẫn đến kết luận rằng mối quan hệ giữa nợ và tăng trưởng là phi tuyến Đỉnh của đường cong Laffer nợ chỉ ra điểm mà sự gia tăng tổng nợ bắt đầu gây gánh nặng cho đầu tư và cải cách kinh tế, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng Vì vậy, đỉnh của đường cong Laffer nợ có thể được xem là mức độ nợ tối ưu mà một quốc gia nên duy trì để tránh vấn đề debt-overhang.

Hình 2.1: Đường cong Laffer nợ

Hiệu ứng phi tuyến được mô hình hóa bằng hai cách khác nhau Nghiên cứu áp dụng hình thức bậc cao của biến nợ để phát hiện mối quan hệ đường cong Laffer theo đề xuất của Lind và Mehlum (2010), mặc dù có thể bị ảnh hưởng bởi giá trị ngoại lai Kỳ vọng hệ số của biến PDEBT dương, trong khi hệ số của biến PDEBT 2 âm, nhằm đảm bảo sự tồn tại của đường cong Laffer có ý nghĩa thống kê.

Phương trình 2: hồi quy phi tuyến dạng bậc 2

Bài nghiên cứu áp dụng phương pháp tiếp cận quan hệ phi tuyến dạng tham số để ước tính mô hình với một hoặc hai điểm gián đoạn, theo Marsh và Cormier (2002) Mô hình tự hồi quy ngưỡng (TAR), được Tong (1978) đề xuất, là phương pháp chủ yếu được tham khảo trong các nghiên cứu thực nghiệm trước đó Mô hình này đã được ứng dụng rộng rãi trong nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm về nhiều vấn đề như sản lượng, tăng trưởng, lãi suất, tỷ giá hối đoái, tỷ suất sinh lợi chứng khoán và nợ Ngoài ra, nó còn được phát triển bởi nhiều tác giả như Tong (1990), Caner và Hansen (2001), Hansen (1996, 1999a, 2000), Kapetanios (2003), và Koop và Potter (1999), cùng với Medeiros và các cộng sự (2002).

Caner và Hansen (2004) đã phát triển phương pháp ước tính ngưỡng cho mô hình động Dạng tổng quát của mô hình này có dạng: yi,t=α i,t + β y i, t-1 + λ X i,t + δ1 Zi,t*D(dd*)+ εi,t

Biến D là biến giả, trong khi biến d được chọn để tính toán hiệu ứng ngưỡng, và d* là giá trị xác định của ngưỡng Mô hình ngưỡng cho thấy rằng khi xuất hiện các điểm gián đoạn, giá trị của biến phụ thuộc sẽ nhận nhiều khoảng giá trị khác nhau, tùy thuộc vào khoảng giá trị của biến độc lập được sử dụng Khi đó, mô hình không còn đặc điểm tuyến tính mà chuyển sang dạng phi tuyến với đồ thị là một đường cong.

Phương trình tổng quát với ngưỡng d* có thể được mở rộng thành mô hình với nhiều ngưỡng như 2, 3 hay k ngưỡng Trong trường hợp dữ liệu bảng động, việc sử dụng sai phân trung bình có thể dẫn đến ước tính sai lệch do độ trễ của biến phụ thuộc có mối tương quan với sai số ngẫu nhiên.

Bài nghiên cứu này mở rộng mô hình ngưỡng của chuỗi nghiên cứu thực nghiệm Hansen, nhưng không áp dụng phương pháp ước lượng để xác định giá trị ngưỡng chưa biết theo Hansen hay Cordella, Ricci và Ruiz-Arranz (2010) do thiếu chú trọng đến vấn đề nội sinh Thay vào đó, tôi lựa chọn hai mức ngưỡng cố định là 10% (T1) và 90% (T2), thực hiện hồi quy phi tuyến với từng ngưỡng Cuối cùng, nghiên cứu kiểm tra hiệu ứng không đồng nhất của nợ công đối với tăng trưởng dựa trên điểm số tổng thể CPIA (Presbitero, 2008).

Phương trình 3 và 4: hồi quy phi tuyến dạng ngưỡng:

GROWTH i,t = αGDP i,t-1 + βX i,t ++ γPDEBT i,t + δ 1 PDEBT i,t *D 1 ( debt

Ngày đăng: 21/07/2021, 14:19

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w