QUAN ĐIỂM CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ TƯ TƯỞNG VÀ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ TƯ TƯỞNG
Quan điểm chủ trương của Đảng về công tác giáo dục chính trị tư tưởng
1.1.1 Khái niệm chung và tầm quan trọng của công tác giáo dục chính trị tư tưởng
1.1.1.1 Khái niệm công tác giáo dục chính trị tư tưởng
Thuật ngữ “giáo dục chính trị tư tưởng” được sử dụng rộng rãi trong các Văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam và các tài liệu khác, nhưng khái niệm này vẫn chưa được định nghĩa rõ ràng Điều này cũng đúng với tài liệu của Liên Xô trước đây và hiện tại tại Việt Nam Để hiểu rõ hơn về công tác GDCTTT, cần làm rõ các khái niệm liên quan như giáo dục, chính trị, tư tưởng và các vấn đề liên quan đến công tác tư tưởng.
Giáo dục được định nghĩa là hoạt động hướng tới con người thông qua hệ thống biện pháp tác động nhằm truyền thụ tri thức, rèn luyện kỹ năng và lối sống, đồng thời bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức Mục tiêu của giáo dục là hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất, nhân cách phù hợp, chuẩn bị cho người học tham gia vào hoạt động sản xuất và đời sống xã hội.
Theo TS Phạm Đình Nghiệp, giáo dục được xem là một hình thái xã hội, là quá trình có mục đích và kế hoạch, tác động đến con người nhằm hình thành và phát triển tâm lý cũng như ý thức nhân cách Trong khi đó, TS Trần Sỹ Phán nhấn mạnh rằng giáo dục là một quá trình hai mặt, bao gồm sự tác động từ bên ngoài của tri thức và văn hóa nhân loại thông qua giáo viên đến học sinh, sinh viên, và quan trọng hơn, quá trình này giúp đối tượng tự biến đổi, hoàn thiện bản thân qua giáo dục.
Giáo dục là một hoạt động xã hội thiết yếu, giúp loài người tồn tại, cải hoá thế giới và phát triển bản thân Nó có nội hàm rộng, được hiểu là quá trình trao đổi và chuyển giao tri thức theo quy tắc đã định Trong nghĩa hẹp, giáo dục là quá trình hình thành nhân cách con người dưới sự ảnh hưởng có mục đích của người giáo dục.
Giáo dục là quá trình tổ chức và giao lưu cuộc sống cho đối tượng học, nhằm giúp họ nhận thức đúng, hình thành tình cảm và thái độ tích cực, cũng như phát triển thói quen hành vi văn minh phù hợp với chuẩn mực xã hội.
Giáo dục đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người theo chuẩn mực xã hội Để đạt được điều này, nhà giáo dục cần áp dụng một hệ thống phương diện đa dạng, bao gồm giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, pháp luật, kinh tế, thẩm mỹ, thường thức, sinh thái và giáo dục về giới Những phương diện này hợp thành một nền tảng vững chắc cho sự phát triển toàn diện của cá nhân.
GDCTTT là một phương diện hợp thành không thể thiếu khi đào tạo giáo dục một con người
Chính trị, trong lịch sử xã hội, từng được xem là lĩnh vực của giai cấp thống trị, nhưng với sự phát triển của dân chủ, nó đã trở thành công việc của quần chúng Trong các chính thể dân chủ, công dân đều có quyền tham gia chính trị, tuy nhiên mức độ tham gia phụ thuộc vào các yếu tố xã hội, kinh tế, văn hóa và tư tưởng Hơn nữa, tính chất tham gia này có thể là thật sự hoặc giả hiệu, tùy thuộc vào việc nền dân chủ là XHCN hay tư sản.
Chính trị, theo định nghĩa trong Từ điển Triết học Liên Xô năm 1975, là sự tham gia vào các công việc của Nhà nước, bao gồm việc quy định hình thức, nhiệm vụ và nội dung hoạt động của Nhà nước Nó bao hàm các vấn đề liên quan đến chế độ nhà nước, quản lý đất nước, lãnh đạo các giai cấp và đấu tranh đảng phái Chính trị thể hiện lợi ích cơ bản của các giai cấp và mối quan hệ tương tác giữa chúng, đồng thời cũng phản ánh các quan hệ giữa các dân tộc và quốc gia.
Chính trị được định nghĩa là tổng thể các hoạt động liên quan đến mối quan hệ giữa các giai cấp, dân tộc và tầng lớp xã hội Cốt lõi của chính trị bao gồm việc giành quyền lực, duy trì và sử dụng quyền lực Nhà nước, tham gia vào công việc của Nhà nước, cũng như xác định hình thức tổ chức, nhiệm vụ và nội dung hoạt động của Nhà nước.
Chính trị được định nghĩa từ nhiều góc độ khác nhau, nhưng nhìn chung, nó phản ánh bản chất giai cấp, các mối quan hệ và mục tiêu của các giai cấp cũng như các lực lượng chính trị trong cuộc đấu tranh giành quyền lực và điều hành nhà nước.
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, bản chất của chính trị là sự phản ánh tập trung của kinh tế Lênin nhấn mạnh rằng chính trị luôn giữ vị trí hàng đầu so với kinh tế, điều này cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa hai lĩnh vực này.
Chính trị luôn giữ vị trí hàng đầu so với kinh tế, vì khi giải quyết các vấn đề kinh tế, giai cấp cầm quyền cần tập trung vào việc bảo vệ và phát huy quyền lực chính trị của mình Do đó, kinh tế được xem là yếu tố thứ nhất, trong khi chính trị là yếu tố thứ hai.
Chính trị, mặc dù là yếu tố thứ hai, nhưng cần được ưu tiên hơn kinh tế, vì quyền lực chính trị là nền tảng để đạt được quyền lực kinh tế Quan điểm chính trị về kinh tế và các hoạt động kinh tế phải hướng đến việc đảm bảo và bảo vệ định hướng chính trị Khi giải quyết các vấn đề kinh tế, cần luôn xuất phát từ các quan điểm chính trị Tuy nhiên, không nên coi chính trị là yếu tố duy nhất, vì mỗi vấn đề đều có hai mặt cần xem xét.
Trong lĩnh vực chính trị, lợi ích chính trị đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt động chính trị và tăng cường tính tích cực chính trị, đồng thời chi phối các mối quan hệ chính trị.
Nhu cầu là những yêu cầu cơ bản mà con người cần để tồn tại và phát triển, trong khi lợi ích là những yếu tố thỏa mãn và đáp ứng những nhu cầu đó Lợi ích đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động xã hội của con người, hướng tới những giá trị và ý nghĩa thiết thực trong cuộc sống.
Thực trạng công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong
1.2.1 Khái quát về Trường Đại học Cần Thơ
Trường Đại học Cần Thơ (ĐHCT) được thành lập vào ngày 15 tháng 10 năm 1966, với mục tiêu đào tạo chính quy các tri thức trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội nhân văn và nông nghiệp Mặc dù Viện ĐHCT chỉ tồn tại từ tháng 9 năm 1966 đến tháng 4 năm 1975, nhưng đã mở ra một hướng đi mới trong lịch sử giáo dục vùng Đồng bằng sông Cửu Long, góp phần quan trọng vào việc đào tạo kỹ sư và cử nhân cho khu vực.
Ngày 30/4/1975, cùng với sự kiện giải phóng Sài Gòn - Gia Định, ĐBSCL và Cần Thơ cũng được giải phóng Khu uỷ Miền Tây Nam bộ đã nhanh chóng cử đoàn cán bộ tiếp quản các cơ sở giáo dục quan trọng, dẫn đến việc Viện ĐHCT trở thành Trường ĐHCT.
Khi còn là Viện ĐHCT, Viện có bốn khoa: Khoa học, Luật, Khoa học Xã hội, và Sư phạm, trong đó có trường Trung học Kiểu mẫu đào tạo hệ Cử nhân Ngoài ra, Trường cao đẳng Nông nghiệp cũng cung cấp chương trình đào tạo kỹ sư, và Trung tâm sinh ngữ chuyên giảng dạy ngoại ngữ cho sinh viên.
Viện Đại học Cần Thơ tọa lạc trên 4 địa điểm:
Toà Viện trưởng (Số 5, đại lộ Hoà Bình): Là nơi tập trung các bộ phận hành chính của Viện
Khu I (đường 30/4): diện tích trên 5 ha là khu nhà ở, lưu trú xá nữ sinh viên, Trường Trung học Kiểu mẫu, Trường Cao đẳng Nông nghiệp và nhà làm việc của các Khoa
Khu II: (đường 3/2): diện tích 87 ha, là khu nhà học chính của Trường
Khu III: (số 1, Lý Tự Trọng): diện tích 0,65 ha, là cơ sở đào tạo đầu tiên gồm khoa Khoa học và Thư viện
Sau khi Trường ĐHCT được thành lập, chương trình đào tạo và sinh viên cũ của Khoa Sư phạm và Cao đẳng Nông nghiệp được tiếp tục tại Khoa Sư phạm Tự nhiên và Khoa Nông nghiệp Sinh viên từ các khoa khác được chuyển đến các trường Đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh hoặc vào các chuyên ngành đang đào tạo tại ĐHCT.
Sau năm 1975, Khoa Sư phạm được chia thành Khoa Sư phạm Tự nhiên và Khoa Sư phạm Xã hội, nhằm đào tạo giáo viên cho bậc trung học phổ thông Các chuyên ngành đào tạo bao gồm Toán học, Vật lý, Hóa học, Sinh học, Văn học, Lịch sử, Địa lý và Ngoại ngữ Sau đó, cấu trúc đào tạo được mở rộng thành 5 Khoa, bao gồm Khoa Toán – Lý.
(1980), Hoá-sinh (1980), Sử- Địa (1983) và Ngoại ngữ (1983)
Khoa Nông nghiệp, formerly known as Trường Cao đẳng Nông nghiệp, hiện đào tạo hai ngành chính là Trồng trọt và Chăn nuôi Đến năm 1979, Khoa Nông nghiệp đã mở rộng thành bảy khoa, bao gồm Trồng trọt (1977), Chăn nuôi (1978), Thủy nông và cải tạo đất (1978), Cơ khí Nông nghiệp (1978), Chế biến và Bảo quản Nông sản (1978), Kinh tế nông nghiệp (1979), và Thủy sản (1979).
Năm 1978, Khoa Đại học Tại chức được thành lập nhằm quản lý và thiết kế chương trình bồi dưỡng giáo viên phổ thông trung học và kỹ sư thực hành cho các tỉnh ĐBSCL, với thời gian đào tạo là 5 năm Đến năm 1981, để đáp ứng nhu cầu của các địa phương, Trường đã mở rộng công tác đào tạo bằng cách liên kết với các tỉnh để thành lập các Trung tâm đào tạo - Bồi dưỡng Đại học Tại chức, hiện nay được gọi là Trung tâm giáo dục thường xuyên tại Tiền Giang, Long An, Bến Tre, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Cần Thơ, An Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, Kiên Giang và Minh Hải.
Năm 1987, nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế thị trường theo chính sách đổi mới, Khoa Kinh tế Nông nghiệp đã hợp tác với Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh để mở thêm 4 ngành đào tạo Cử nhân kinh tế: Kinh tế tài chính – Tín dụng, Kinh tế kế toán tổng hợp, Kinh tế Ngoại thương và Quản trị Kinh doanh Đến năm 1988, Khoa Thủy nông cũng đã khai giảng hai ngành mới là Thủy công và Công thôn, đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà ở và cầu đường tại nông thôn Đồng bằng sông Cửu Long.
Năm 1990, Khoa Toán Lý mở hệ cao đẳng đào tạo 2 ngành: Điện tử và Tin học và nâng cấp xưởng điện tử thành trung tâm Điện tử - Tin học
Tháng 12/1993, Khoa Ngoại ngữ được thành lập đào tạo giáo viên Anh văn, Pháp văn, Nga văn cho các trường phổ thông trung học
Đại học Cần Thơ không chỉ tập trung vào việc thành lập và phát triển các khoa mà còn tổ chức nhiều Trung tâm nghiên cứu khoa học, nhằm kết hợp hiệu quả ba nhiệm vụ chính: Đào tạo, Nghiên cứu khoa học và Lao động sản xuất Từ năm 1985 đến 1992, đã có bảy trung tâm được thành lập, trong đó có Trung tâm nghiên cứu và phát triển Công nghệ Sinh học vào năm 1988 và Trung tâm Điện tử - Tin học vào năm 1990.
Nghiên cứu và phát triển Tôm – Artemia (1991), Ngoại ngữ (1991),
Thông tin Khoa học & Công nghệ (1992)
Tính đến năm 1995, Trường ĐHCT có cơ cấu tổ chức bao gồm 7 khoa, 3 viện nghiên cứu, 4 trung tâm khoa học, 3 bộ môn trực thuộc Ban Giám hiệu và 9 phòng ban Đội ngũ cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khoa học của trường gồm 134 người có trình độ trên đại học, 579 người có trình độ cử nhân, kỹ sư, bác sĩ, cùng với 218 cán bộ có trình độ dưới đại học làm việc tại các khoa, bộ môn, phòng ban, nhà trẻ và mẫu giáo Ngoài ra, trường còn có 39 cán bộ quản lý.
Số lượng sinh viên từ các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) tham gia thi và trúng tuyển vào trường ngày càng tăng, đặc biệt trong 3 năm gần đây Năm 1986, trường ghi nhận 1.021 sinh viên, cho thấy sự gia tăng đáng kể trong những năm qua.
Nguồn: Dự thảo 30 năm thành lập trường
Theo số liệu thống kê tháng 10/1994 thì trong năm học 1994 -
Năm 1995, trường có 5.716 sinh viên theo học 29 ngành tại 3 khu vực I, II, III Theo số liệu từ các Sở Giáo dục và Đào tạo, Ban tổ chức chính quyền và Chi cục thống kê năm 1994 - 1995, ĐHCT đã đào tạo được 57.072 sinh viên tốt nghiệp chính quy bậc đại học và cao đẳng, chiếm 3,6/1000 dân trong tổng dân số ĐBSCL là 16.012.000 người.
ĐBSCL là vùng đất quan trọng, cung cấp khoảng 50% tổng sản lượng lương thực và thực phẩm của cả nước, đồng thời nổi bật với sản lượng cây ăn quả và thủy hải sản xuất khẩu lớn Tuy nhiên, khu vực này lại thiếu hụt lực lượng cán bộ khoa học – kỹ thuật và công nghệ Tính đến năm 1995, ĐBSCL chỉ có 2 trường đại học, trong đó Trường ĐHCT đóng vai trò chủ chốt trong việc đào tạo nguồn nhân lực cần thiết cho sự phát triển kinh tế – xã hội Ban lãnh đạo Trường ĐHCT đã nỗ lực không ngừng để thực hiện trách nhiệm lớn lao này.
Trong giai đoạn 1989 – 1995, trường đã đào tạo và gửi đi đào tạo hơn 6000 cử nhân, kỹ sư, bác sĩ, và phó tiến sĩ Đồng thời, phối hợp với các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, trường đã tổ chức đào tạo tại chức cho hơn 5000 cán bộ có trình độ cử nhân Ngoài ra, trường cũng đã cử 500 lượt cán bộ đi bồi dưỡng và học tập để nâng cao trình độ chuyên môn trong nước và quốc tế.
6 tiến sĩ, 5 phó tiến sĩ, 30 Master, 18 cao học Cho đến thời điểm năm
1996 trường đã có 23% cán bộ có trình độ trên bậc đại học, vượt 20% chỉ tiêu của Bộ Đại học & Đào tạo ấn định cho năm 1995 [147; 20]
1.2.2 Thực trạng công tác Giáo dục chính trị tư tưởng trong sinh viên của trường trước năn 1996