1. Trang chủ
  2. » Thể loại khác

Luận văn khai thác giá trị hệ thống chùa thủy nguyên phục vụ phát triển du lịch

94 8 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Luận Văn Khai Thác Giá Trị Hệ Thống Chùa Thủy Nguyên Phục Vụ Phát Triển Du Lịch
Thể loại luận văn
Định dạng
Số trang 94
Dung lượng 2,87 MB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (5)
  • 2. Mục đích nghiên cứu (6)
  • 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu (6)
  • 4. Phương pháp nghiên cứu (7)
  • 5. Bố cục bài khóa luận (7)
  • CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ PHẬT GIÁO TÀI NGUYÊN DU LỊCH NHÂN VĂN VÀ HỆ THỐNG CHÙA VIỆT NAM (8)
    • 1.1. Vài nét về đạo Phật ở Việt Nam (8)
      • 1.1.1. Sự ra đời và phát triển của đạo Phật (8)
      • 1.1.2. Giáo lý đạo Phật (10)
      • 1.1.3. Quan niệm của Phật giáo (11)
      • 1.1.4. Quá trình du nhập và phát triển Phật giáo ở Việt Nam (13)
    • 1.2. Tài nguyên du lịch nhân văn (15)
      • 1.2.1. Khái niệm (15)
      • 1.2.2. Đặc điểm (15)
      • 1.2.3. Phân loại (16)
    • 1.3. Chùa ở Việt Nam (17)
      • 1.3.1. Cấu trúc và Kiến trúc chùa ở Việt Nam (17)
      • 1.3.2. Các tƣợng Phật trong chùa Việt Nam (21)
      • 1.3.3. Giá trị lịch sử, kiến trúc văn hóa (28)
  • CHƯƠNG 2: KHAI THÁC GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VĂN HÓA CỦA HỆ THỐNG CHÙA TẠI THỦY NGUYÊN PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH27 2.1. Giới thiệu khái quát về huyện Thủy Nguyên (30)
    • 2.1.1. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch thiên nhiên (30)
    • 2.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội và tài nguyên du lịch nhân văn (35)
    • 2.2. Đặc điểm hệ thống chùa tại Thủy Nguyên (38)
      • 2.2.1. Cách bố trí tƣợng thờ (39)
      • 2.2.2. Kiến trúc chùa (40)
    • 2.3. Một số ngôi chùa tại Thủy Nguyên (43)
      • 2.3.1. Chùa Mỹ Cụ (44)
      • 2.3.2. Chùa Thiểm Khê ( Chùa Hoa Linh) (48)
      • 2.3.3. Chùa Hoàng Pha (52)
      • 2.3.4. Chùa Nhân Lý (55)
      • 2.3.5. Chùa Phù Lưu (57)
      • 2.3.6. Chùa Mai Động (59)
    • 2.4. Giá trị của Chùa tại Thủy Nguyên (60)
      • 2.4.1. Giá trị lịch sử (60)
      • 2.4.2. Giá trị cộng đồng (62)
      • 2.4.3. Giá trị tâm linh (63)
      • 2.4.4. Giá trị văn hóa (63)
    • 2.5. Thực trạng hoạt động du lịch tại hệ thống Thủy Nguyên (64)
      • 2.5.1. Thực trạng hoạt động du lịch (64)
      • 2.5.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật (65)
      • 2.5.3. Công tác quản lí và tổ chức khai thác (66)
      • 2.5.4. Môi trường tự nhiên và môi trường xã hội (67)
      • 2.5.5. Khách tham quan du lịch (68)
      • 2.5.6. Tổng kết đánh giá thuận lợi khó khăn đang tồn tại (68)
  • CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM KHAI THÁC CÓ HIỆU QUẢ GIÁ TRỊ VĂN HÓA, LỊCH SỬ CỦA HỆ THỐNG CHÙA THỦY NGUYÊN PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH (72)
    • 3.1. Những giải pháp nhằm khai thác có hiệu quả giá trị văn hóa lịch sử của hệ thống chùa Thủy Nguyên phục vụ cho việc phát triển du lịch (72)
      • 3.1.1. Giải pháp bảo tồn, tôn tạo di tích (72)
      • 3.1.2. Thu hút vốn đầu tƣ (73)
      • 3.1.3. Xây dựng các chế tài các quy định cụ thể đối với du khách và dân cƣ sở tại (73)
      • 3.1.4. Giải pháp về xúc tiến tuyên truyền quảng bá (74)
      • 3.1.5. Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực (75)
      • 3.1.6. Tổ chức các hoạt động xã hội hóa (75)
    • 3.2. Những đề xuất kiến nghị với các ban ngành nhằm bảo tồn và khai thác một cách có hiệu quả nhất các giá trị của hệ thống chùa Thủy Nguyên phục vụ hoạt động du lịch (76)
      • 3.2.1. Đối với Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Hải Phòng (76)
      • 3.2.2. Đối với Phòng Văn hóa Thể thao và Du lịch huyện Thủy Nguyên 74 3.3. Xây dựng tour du lịch văn hóa Thủy Nguyên (77)
  • KẾT LUẬN (80)
  • PHỤ LỤC (82)

Nội dung

Mục đích nghiên cứu

Khám phá giá trị văn hóa lịch sử của các chùa ở huyện Thủy Nguyên và đánh giá tình hình phát triển du lịch tại những điểm này Đề xuất các giải pháp nhằm khai thác hiệu quả các giá trị lịch sử và văn hóa của hệ thống chùa tại Thủy Nguyên, từ đó thúc đẩy sự phát triển du lịch tại địa phương.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là các ngôi chùa tại huyện Thủy Nguyên với các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể

Khai thác giá trị văn hóa của các di tích lịch sử, đặc biệt là các ngôi chùa tại Thủy Nguyên, là một lĩnh vực rộng lớn cần nhiều thời gian, công sức, và nguồn lực kinh tế Bài viết này, với vai trò lần đầu của người viết trong nghiên cứu, sẽ tập trung vào việc "Khai thác giá trị hệ thống chùa tại Thủy Nguyên phục vụ phát triển du lịch", nhằm góp phần vào sự phát triển bền vững của du lịch địa phương.

Thủy Nguyên nổi bật với 99 ngôi chùa, trong đó người viết sẽ tập trung nghiên cứu một số ngôi chùa tiêu biểu như Chùa Mỹ Cụ - ngôi chùa cổ nhất Hải Phòng, Chùa Nhân Lý - thuộc thiền phái Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông sáng lập, cùng với Chùa Phù Lưu, Chùa Thiểm Khê và Chùa Hoàng Pha Những ngôi chùa này không chỉ lớn mà còn nổi bật với kiến trúc độc đáo và lịch sử lâu đời.

Phương pháp nghiên cứu

Đề tài này thuộc lĩnh vực nghiên cứu Khoa học xã hội nhân văn cho nên được áp dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

Phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu bao gồm việc thu thập tài liệu từ các tác phẩm, website, và sách báo Người viết tổng hợp các thông tin này để biên soạn bài viết một cách hiệu quả.

Phương pháp điền dã được thực hiện bằng cách trực tiếp đến huyện Thủy Nguyên để khảo sát các ngôi chùa Qua việc tiếp xúc trực tiếp với những người am hiểu về di tích, chúng tôi thu thập thông tin và kiến thức quý giá về văn hóa và lịch sử của khu vực này.

Phương pháp đối chiếu so sánh để khắc họa giá trị đặc trưng của các ngôi chùa này.

Bố cục bài khóa luận

Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, phần Nội dung của khóa luận được chia thành 3 chương

Chương 1: Tổng quan về Phật giáo tài nguyên du lịch nhân văn và hệ thống chùa tại Việt Nam

Chương 2: Khai thác giá trị lịch sử văn hóa của hệ thống chùa tại Thủy Nguyên phục vụ phát triển du lịch

Chương 3 đề xuất một số kiến nghị và giải pháp nhằm khai thác hiệu quả giá trị văn hóa và lịch sử của hệ thống chùa Thủy Nguyên để phục vụ cho sự phát triển du lịch Việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa đặc sắc sẽ thu hút du khách, đồng thời nâng cao nhận thức cộng đồng về di sản Các giải pháp bao gồm tổ chức các tour du lịch trải nghiệm, phát triển các sản phẩm du lịch văn hóa, và tăng cường quảng bá thông tin về hệ thống chùa Bên cạnh đó, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng và cộng đồng địa phương để đảm bảo sự phát triển bền vững của du lịch tại khu vực này.

Ngoài ra trong khóa luận còn có các phần: Tài liệu tham khảo, Phụ lục và Mục lục.

TỔNG QUAN VỀ PHẬT GIÁO TÀI NGUYÊN DU LỊCH NHÂN VĂN VÀ HỆ THỐNG CHÙA VIỆT NAM

Vài nét về đạo Phật ở Việt Nam

Phật Giáo đã du nhập vào Việt Nam từ đầu Công nguyên và nhanh chóng được Việt hóa, trở thành một phần quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân Trong lịch sử, Phật giáo từng là quốc giáo, góp phần củng cố ý thức độc lập tự chủ của dân tộc qua các thời kỳ khác nhau Nó không chỉ giúp xây dựng nền văn hóa Việt Nam phong phú mà còn thể hiện đậm đà bản sắc dân tộc.

1.1.1 Sự ra đời và phát triển của đạo Phật Đạo Phật ở Ấn Độ Lịch sử Ấn Độ chia làm 3 thời kỳ:

Thời kì văn hóa Ha-ra-pa, còn gọi là nền văn minh sông Ấn, vào khoảng thiên niên kỷ thứ III, II TCN

Thời kì Vệ-đà, vào khoảng thiên niên kỷ thứ II, I TCN, với sự hình thành đạo Bà-la-môn

Thời kỳ Ấn Độ cổ đại, kéo dài từ giữa thiên niên kỷ I trước Công Nguyên đến thế kỷ III sau Công Nguyên, đánh dấu sự xuất hiện và phát triển của đạo Phật.

Đạo Bà-la-môn hình thành vào khoảng thiên niên kỷ thứ I trước công nguyên ở Ấn Độ, đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và sự phân hóa giai cấp trong xã hội Thời kỳ này, đạo Bà-la-môn đạt đỉnh cao về tôn giáo và vị trí chính trị xã hội, trở thành công cụ quan trọng trong việc củng cố chế độ phân chia đẳng cấp, hay còn gọi là chế độ Vác-ca Chế độ này phân chia dân cư thành bốn đẳng cấp: tăng lữ và quý tộc, vua và quan cai trị, thợ thủ công và dân tự do, cùng với những người vô sản và nô lệ chiếm đa số Đạo Bà-la-môn khẳng định rằng sự phân chia này là ý chí của Thượng đế, thể hiện qua quyền lợi kinh tế, địa vị xã hội và quan hệ giao tiếp, sinh hoạt tôn giáo Ba đẳng cấp đầu tiên hợp tác để trở thành giai cấp bóc lột và thống trị, với đặc quyền nổi bật thuộc về đẳng cấp tăng lữ, trong khi đẳng cấp thứ tư phải chịu đựng sự áp bức và nô lệ từ ba đẳng cấp trên.

Sự phân chia đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ đã dẫn đến sự oán ghét mạnh mẽ từ tầng lớp đa số đối với chế độ này Nhiều trào lưu tư tưởng đã xuất hiện, phản ánh sự bất bình của quần chúng lao động trước sự áp bức của đẳng cấp thống trị và quyền uy độc đoán của họ.

Theo truyền thuyết và tài liệu nghiên cứu Phật giáo ở Việt Nam, Đạo Phật được hình thành ở Ấn Độ vào khoảng thế kỷ V trước Công Nguyên, do Thái tử Cồ Đàm Tất-đạt-đa sáng lập Đức Phật là con vua Tịnh Phạm thuộc bộ tộc Thích Ca, trị vì vương quốc Ca-ty-la-vệ ở phía bắc Ấn Độ, gần núi Hy Mã Lạp Sơn (nay thuộc Nepal) Ông sinh vào ngày 8 tháng 4 âm lịch, tương ứng với ngày trăng tròn tháng Vaiskha trong lịch Ấn Độ, tức ngày 15 tháng 4 âm lịch ở Trung Hoa và Việt Nam Khi các nhà sư Ấn Độ truyền bá Đạo Phật sang Trung Hoa, họ đã tính ngày sinh của Đức Phật theo ngày trăng tròn này.

Ngài Thích Ca Mâu Ni Phật, sinh năm 563 trước công nguyên và mất năm 438 trước công nguyên, sống thọ 80 tuổi Thân mẫu của ngài, hoàng hậu Ma-gia, qua đời khi ngài mới 7 ngày tuổi, và em của bà là Ma Ha Ba Xà Đề đã nuôi dưỡng thái tử Tất-đạt-đa trong suốt thời thơ ấu.

Trước cảnh tượng phân chia đẳng cấp và kỳ thị màu da, cùng nỗi khổ đau tột cùng của nhân loại, ngài đã cảm thấy buồn phiền sâu sắc Quyết tâm từ bỏ đạo Bà-la-môn, ngài rời bỏ nhà cửa để tu hành, tìm kiếm con đường giải thoát cho con người khỏi mọi khổ đau Cuối cùng, dưới gốc cây bồ đề, ngài đã ngộ ra chân lý và đạt được giác ngộ, trở thành Phật Thích Ca Mâu Ni.

Trong suốt 49 năm sau khi thành Phật, Ngài đã đi khắp lưu vực sông Hằng và nhiều nơi khác để truyền bá tư tưởng giáo hóa chúng sinh Ngài không phân biệt sang hèn hay chủng tộc, chỉ mong giải thoát mọi người khỏi bể khổ Nhờ đó, Đạo Phật nhanh chóng được lan rộng khắp các nước xung quanh Ấn Độ và sau đó là toàn châu Á.

Giáo lý Phật giáo nổi bật với sự sâu sắc và hấp dẫn, nhấn mạnh khả năng kiểm soát dục vọng và vai trò tự giải thoát của con người Nó cũng đề cao sự bình đẳng giữa mọi người, cùng với những luật lệ và lễ nghi đơn giản, không phức tạp hay tốn kém Chính những yếu tố này đã thu hút đông đảo quần chúng, đặc biệt là nhân dân lao động, tin tưởng và thực hành.

Hiện nay, Phật giáo có hơn 300 triệu tín đồ, chủ yếu tập trung ở các quốc gia Châu Á Trong những thập niên gần đây, Phật giáo đã lan rộng sang một số nước Châu Âu và Bắc Mỹ.

Gốc là Tam tạng kinh điển Gồm 3 loại: Kinh-Luật-Luận

Kinh tạng là những sách ghi những lời Phật Thích Ca giảng về giáo lý

Kinh tạng gồm 5 bộ lớn:

Trường bộ kinh Trung bộ kinh Tương ứng bộ kinh Tăng bộ kinh

Trong Phật giáo Đại thừa, năm bộ kinh được gọi bằng những tên khác nhau như Trường A hàm, Trung A hàm, Trung nhất A hàm, Tăng nhất A hàm, Tạp A hàm và Tiểu A hàm.

Luật tạng là bộ sách ghi chép các giới luật do Đức Phật thiết lập, nhằm hướng dẫn và quy định cho việc sinh hoạt cũng như tu học của các đệ tử, đặc biệt là những người xuất gia.

Luận tạng là tập hợp các tác phẩm do các Bồ Tát biên soạn sau khi Đức Phật Thích Ca nhập niết bàn, nhằm mục đích hệ thống hóa giáo lý Phật giáo Những sách này không chỉ phê phán và điều chỉnh những quan niệm sai lầm mà còn phản bác các luận điệu xuyên tạc về giáo thuyết Phật giáo.

1.1.3 Quan niệm của Phật giáo

Quan niệm về thế giới và con người của Phật giáo có hệ thống và mang tính triết học sâu sắc

Phật giáo quan niệm rằng thế giới là một thực tại vật chất không ngừng chuyển động và biến đổi, không có khởi đầu hay kết thúc Sự biến đổi và sinh diệt của mọi sự vật, hiện tượng là kết quả của chính bản thân chúng, được gọi là “tự kỉ nhân quả” Những gì con người nhận biết qua giác quan chỉ là ảo ảnh, không phản ánh được thực tướng của sự vật Do đó, thế giới khách quan mà con người trải nghiệm chỉ là một hư ảnh, không có thực.

Phật giáo quan niệm rằng thời gian là vô cùng và không gian là vô tận Tuy nhiên, khi xem xét từng sự vật và hiện tượng cụ thể, Phật giáo nhận thấy thời gian và không gian có giới hạn, tức là mọi sự vật đều có khởi đầu và kết thúc.

Quan niệm về con người: Phật giáo cho rằng con người không phải do thượng đế hay một đấng thiêng liêng nào sinh ra

Con người là sự kết hợp của ngũ uẩn: sắc, thụ, tưởng, hành, thức

Phần sinh lý “sắc uẩn “ là thần sắc, hình tướng được tạo bởi 4 yếu tố vật chất: Đất tạo phần cứng: xương, tóc, lục phủ, ngũ tạng

Nước tạo máu, mật mồ hôi…

Gió tạo hơi thở, hơi khí trong cơ thể

Phần tâm lý gồm: “thụ uẩn”, “tưởng uẩn”, “hành uẩn”, “thức uẩn” được biểu hiện bằng: ái, ố, nộ, hỉ, lạc, ai, dục

Tài nguyên du lịch nhân văn

Tài nguyên du lịch nhân văn bao gồm các di tích lịch sử, văn hóa, lễ hội, phong tục tập quán và các công trình đương đại do con người sáng tạo Những tài nguyên này không chỉ thu hút du khách mà còn mang lại giá trị giải trí và hưởng thụ thiết thực Chúng được khai thác nhằm phục vụ cho sự phát triển của ngành du lịch.

Tài nguyên du lịch nhân văn hiện diện tại các khu vực quần cư, bao gồm nông thôn, đô thị, miền núi, đồng bằng, ven biển và hải đảo.

Tham quan và tìm hiểu về tài nguyên du lịch nhân văn không chỉ giúp nâng cao nhận thức mà còn mang lại trải nghiệm giải trí độc đáo, mặc dù có thể không phải là mục đích chính.

Việc khám phá các đối tượng nhân tạo diễn ra nhanh chóng, thường chỉ trong vài giờ hoặc thậm chí vài phút, phù hợp với loại hình du lịch nhận thức theo lộ trình.

Số người quan tâm tới tài nguyên du lịch nhân văn thường có trình độ văn hoá cao, thu nhập và yêu cầu thưởng thức cao

Tài nguyên du lịch nhân văn mang lại lợi thế vượt trội nhờ vào việc phần lớn không bị ảnh hưởng bởi mùa vụ, cũng như ít phụ thuộc vào điều kiện khí hậu và các yếu tố tự nhiên khác.

Sở thích của những người tìm hiểu đến tài nguyên du lịch nhân văn rất phức tạp và rất khác nhau

Tài nguyên du lịch nhân văn tác động theo từng giai đoạn:

Giai đoạn thông tin là thời điểm mà du khách tiếp nhận những kiến thức cơ bản nhất thông qua các nguồn thông tin miệng hoặc phương tiện truyền thông đại chúng, do đó có thể họ vẫn chưa hiểu rõ về đối tượng mà mình quan tâm.

Giai đoạn tiếp xúc là thời điểm mà khách du lịch có nhu cầu quan sát đối tượng bằng mắt thường Dù chỉ là một cái nhìn thoáng qua, nhưng đây là quá trình quan sát thực sự bằng mắt.

Trong giai đoạn nhận thức, khách du lịch bắt đầu làm quen sâu hơn với đối tượng, tìm hiểu nội dung một cách chi tiết hơn và dành nhiều thời gian tiếp xúc hơn.

Giai đoạn đánh giá nhận xét là thời điểm mà du khách sử dụng kinh nghiệm sống của bản thân để so sánh đối tượng này với những đối tượng tương tự.

Việc làm quen với tài nguyên du lịch nhân văn thường chỉ dừng lại ở hai giai đoạn đầu, trong khi giai đoạn nhận thức và đánh giá lại chủ yếu dành cho du khách có trình độ văn hóa cao và chuyên môn sâu.

1.2.3.1 Tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể

Sản phẩm tinh thần mang giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học được bảo tồn qua trí nhớ, chữ viết và truyền miệng Chúng bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, lễ hội, bí quyết nghề thủ công truyền thống, tri thức y dược cổ truyền, văn hóa ẩm thực, trang phục truyền thống dân tộc và nhiều trí thức dân gian khác.

1.2.3.2 Tài nguyên du lịch nhân văn vật thể

Sản phẩm vật chất mang giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật và bảo vật quốc gia Những sản phẩm này không chỉ là gương mặt của lịch sử mà còn là nhân chứng cho các thời đại khác nhau.

Tài nguyên du lịch nhân văn vật thể ở Việt Nam rất phong phú và đa dạng, bao gồm các di tích khảo cổ, kiến trúc nghệ thuật, lịch sử và các công trình đương đại Trong số đó, di tích kiến trúc nghệ thuật như chùa, đình, đền, nhà thờ, miếu, nhà cổ, lăng tẩm và cung điện chiếm ưu thế, mang lại nhiều giá trị lịch sử và văn hóa Những địa điểm này không chỉ có giá trị kiến trúc nghệ thuật cao mà còn là điểm đến hấp dẫn cho du khách và nhà nghiên cứu.

Chùa ở Việt Nam

Chùa là nơi thờ Phật, và ở Việt Nam, mỗi làng quê đều có chùa, cùng với nhiều chùa rải rác trong các phường và khu phố của thành phố Dù ở mùa nào, chùa Việt Nam vẫn mang vẻ đẹp kín đáo, thầm lặng, gợi nhớ trong tâm hồn con người về những giá trị thiện lương.

Chùa Dâu, ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, được xây dựng vào đầu thế kỷ II tại Trung tâm Phật giáo Luy Lâu, thuộc Thuận Thành, Bắc Ninh.

Hà Nội nổi tiếng với những ngôi chùa mang dấu ấn lịch sử hàng ngàn năm, như chùa Khai Quốc (nay là chùa Trấn Quốc) và chùa Một Cột (Diên Hựu), với kiến trúc độc đáo hình bông hoa sen trên hồ Các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý, và Trần đã xây dựng nhiều chùa, và các triều đại sau cũng tiếp tục phát triển Ngôi chùa lớn nhất, chùa Vĩnh Nghiêm, được xây dựng từ năm 1964 đến 1971 tại quận 3, thành phố Hồ Chí Minh Tại Hà Nội, có khoảng 150 ngôi chùa được công nhận là di tích lịch sử văn hóa.

1.3.1 Cấu trúc và Kiến trúc chùa ở Việt Nam

Chùa ở Việt Nam thường không cao lớn hay lộng lẫy như chùa ở nhiều quốc gia khác, điều này chủ yếu do thời tiết khắc nghiệt với mưa bão và ngập lụt, cùng với việc sử dụng các vật liệu xây dựng truyền thống như gỗ và gạch Ngoài ra, các nhà sư xây dựng chùa cũng chịu ảnh hưởng từ giáo lý Phật giáo, nhấn mạnh sự bình đẳng giữa mọi sinh linh, với mong muốn không đứng trên người khác mà cùng chia sẻ những đau khổ trong cuộc sống.

Vẻ đẹp của chùa Việt Nam được thể hiện qua sự hài hòa với cảnh quan thiên nhiên xung quanh Tại vùng trung du, nhiều chùa được xây dựng trên các triền núi, như Chùa Tây Phương trên núi Câu Lâu, Chùa Phật Tích trên triền núi Lạn Kha, và Chùa Thầy dựa vào sườn núi Phật Tích Ở vùng đồng bằng, chùa thường nằm trên gò cao, xa khu dân cư để phân biệt cõi Phật với cõi trần, thường có ao hồ hoặc sông nước bên cạnh Chùa Trấn Quốc, chùa Một Cột và tháp Báo Thiên đều được bao quanh bởi hồ nước, tạo nên vẻ đẹp thanh lịch cho những công trình tâm linh này.

Chùa Hương Tích, nằm trên dãy núi Hương Sơn thuộc huyện Mỹ Đức, Hà Nội, là một quần thể chùa độc đáo kết hợp hoàn hảo giữa cảnh quan thiên nhiên và không gian tâm linh Sự hòa quyện giữa núi non, dòng nước, hang động và rừng cây tạo nên một nơi thờ Phật linh thiêng, mang đến cho du khách cảm giác tôn kính và ngưỡng mộ khi đến lễ Phật và chiêm bái cảnh đẹp nơi đây.

Núi non sông nước và chùa chiền gắn bó mật thiết, tạo nên cảnh sơn thủy hữu tình, tôn vinh giá trị của ngôi chùa Sự hòa quyện giữa thiên nhiên và kiến trúc chùa chiền như hình với bóng, mang lại vẻ đẹp đặc sắc và thu hút du khách.

Trước cửa chùa thường có một bãi đất trống, giúp không che khuất tầm nhìn của Phật tử và khách thập phương Hai bên trước chùa thường được trang trí bằng hai hàng chó đá hoặc phỗng đá, tạo nên vẻ uy nghi Góc sân gần cổng thường có cây đa cổ thụ với những chùm rễ lủng lẳng hoặc đâm thẳng xuống đất, tạo nên thế đứng vững vàng và sinh động.

Trước khi vào chùa, khách hành hương cần bước qua cổng Tam quan, hay còn gọi là nhà tam quan Cổng này thường được chia thành ba phần, tượng trưng cho nhiều ý nghĩa tâm linh trong văn hóa Phật giáo.

Cửa chính ở giữa lớn và cao, thường đóng quanh năm, chỉ mở vào các dịp lễ hội, sóc vọng và Tết Trong khi đó, cửa bên phải luôn được mở để chào đón khách thập phương.

Theo triết lý đạo phật , Tam quan có nghĩa là 3 điều quan sát, 3 điều xem, 3 điều nhìn Ba điều đó là:

Khi xem xét bất kỳ sự vật nào, cần phân biệt rõ giữa hình dạng và tính chất của chúng Vật chất tồn tại mà không sinh ra, không diệt vong, không hư hoại, không kết thúc; nó chính là sự không Để hiểu rõ về bất kỳ vật nào, cần xem xét toàn bộ các phép biến hóa trong quy luật vô thường, tức là phải nắm bắt đầy đủ tất cả các khía cạnh.

Trung quan là sự quan sát và xem xét theo lẽ không phải hoàn toàn phủ định cũng không phải hoàn toàn khẳng định, mà là sự hòa quyện giữa cả hai Đây chính là cốt lõi của con đường vào cửa Phật, hay còn gọi là con đường trung đạo.

Cổng vào chùa thường có ba cửa, gọi là Tam quan, tượng trưng cho ba lẽ chân thực Tại các chùa lớn, Tam quan không chỉ là lối vào mà còn là một công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo Ở một số chùa, tầng trên của Tam quan còn được sử dụng làm tháp chuông.

Khi bước qua cổng chùa, ta tiến vào sân chùa, nơi thường được trang trí bằng các chậu cây cảnh và hòn non bộ nhằm tăng cường vẻ đẹp tự nhiên cho không gian Diện tích sân chùa có thể khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện và đặc điểm riêng của từng ngôi chùa.

Trong khu vực sân chùa hay vườn chùa lại có thể gặp những ngôi tháp cao (chùa Bút Tháp ở Hà Bắc, chùa Thiên Mụ ở Huế) gọi là báo tháp

Để lên lớp kiến trúc đầu tiên của ngôi chùa, nhà bái đường (tiền đường), du khách phải trèo qua một số bậc thiềm Đặc biệt, nếu chùa nằm trên núi cao như chùa Thầy, chùa Tây Phương hay chùa Thiên Mụ, số bậc thềm sẽ nhiều hơn Nhà bái đường là nơi tổ chức lễ phật cho mọi người Ở giữa nhà bái đường thường trải chiếu hoa và đặt các đồ vật cần thiết, bao gồm cả chuông khánh nếu không có gác chuông ở cổng tam quan Thông thường, nhà bái đường có 5 gian.

KHAI THÁC GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VĂN HÓA CỦA HỆ THỐNG CHÙA TẠI THỦY NGUYÊN PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH27 2.1 Giới thiệu khái quát về huyện Thủy Nguyên

Điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch thiên nhiên

Thủy Nguyên là huyện thuộc miền duyên hải Hải Phòng nằm trong tọa độ

20 0 55’ vĩ độ Bắc, 106 0 45’kinh độ Đông, có diện tích 242km 2 Hiện nay huyện Thủy Nguyên có 37 đơn vị hành chính gồm 2 thị trấn: Minh Đức và Núi Đèo và

Vùng đất Nam Triệu Giang, nằm trong khu vực An Biên do nữ tướng Lê Chân cai quản, đã hình thành từ rất lâu Sau này, vùng đất này được gọi là huyện Thủy Đường thuộc phủ Tân An Châu Đông Triều Vào thời vua Duy Tân (1908), huyện Thủy Nguyên được thành lập và thuộc tỉnh Kiến An, trước khi sát nhập vào tỉnh Hải Phòng.

Thủy Nguyên được ví như một hòn đảo xinh đẹp, được bao bọc bởi các dòng sông Phía tây là sông Hàn, phía bắc là sông Đá Bạc, phía đông là sông Bạch Đằng, và phía nam là sông Cấm, tạo nên ranh giới tự nhiên giữa huyện Thủy Nguyên với quận Hải An và nội thành Hải Phòng Nằm giữa huyện là hồ sông Giá thơ mộng, mang lại vẻ đẹp yên bình cho vùng đất này.

Thủy Nguyên, từ xa xưa, đã đóng vai trò là điểm trung gian quan trọng trong việc kết nối nhiều vùng qua cả đường bộ và đường thủy Trên bản đồ hành chính Hải Phòng, huyện Thủy Nguyên giống như một trái tim lớn, với phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh, phía Tây giáp huyện Kinh Môn tỉnh Hải Dương, phía Nam giáp quận Hải An và nội thành Hải Phòng, trong khi phía Đông hướng ra biển và cửa Nam Triệu Huyện có chiều dài 31 km từ bến Đụn (đập Phi Liệt) đến bến rừng Tam Hưng và chiều rộng khoảng 17 km từ bến Bính đến cầu Đá Bạc.

Huyện được kết nối bởi quốc lộ 10, nối liền Hải Phòng với khu vực mỏ Quảng Ninh Bên cạnh đó, đường 5B và đường 205 từ Trịnh Xá qua bến phà Đụn đến vùng mỏ Mạo Khê cũng đóng vai trò quan trọng Thêm vào đó, hệ thống đường máng nước từ Vàng Danh cung cấp nước ngọt cho khu vực Thủy Nguyên.

Huyện Thủy Nguyên, nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa châu thổ sông Hồng và vùng đồi núi Đông Bắc, có địa hình đa dạng với đồng bằng, đồi núi và vùng trũng ven biển Phía bắc huyện có núi đá vôi xen kẽ với đồi núi đất, kéo dài qua các xã như An Sơn, Lại Xuân, và Minh Đức Trung tâm huyện là đồng bằng với các xã Kiền Bái, Mỹ Đồng, và Thủy Sơn, nơi có lượng phù sa lớn, thích hợp cho việc trồng lúa, hoa màu và cây ăn quả, với độ cao trung bình từ 0,2 - 0,8m Ngoài ra, vùng đồng bằng ven sông tại các xã Hoàng Động, Hoa Động, Lâm Động, Tân Dương và Phục thường bị ngập nước do bồi tụ.

Lễ, Phả Lễ, An lư, Thuỷ Triều thuận lợi cho nền nông nghiệp phát triển

Vùng cửa sông ven biển huyện Thủy Nguyên nổi bật với các bãi lầy hình thành từ lớp phù sa và bùn nhão, có màu phớt hồng trên bề mặt Đây là môi trường lý tưởng cho sự phát triển của hệ thống thực vật đa dạng và rừng ngập mặn.

Địa hình đặc biệt của Thuỷ Nguyên nổi bật với các hang động Karst trên cạn, mang đến vẻ đẹp hấp dẫn và kỳ thú Nhiều hang động, như Hang Vua, Hang Vảo, Hang Ma, Hang Sộp, Hang Lương và Hang Đốc Tít, tập trung chủ yếu ở phía Bắc huyện và vẫn giữ được vẻ hoang sơ Tuy nhiên, hiện tại chưa có nghiên cứu hệ thống nào về quá trình hình thành các hang động độc đáo này.

Hầu hết các hang động ở Thuỷ Nguyên có chiều dài dưới 200m, với những hang lớn nhất cũng chỉ đạt tối đa 500m Chúng thường nằm ở độ cao từ 4-6m, 15-20m, hoặc 30m so với mực nước biển, có chiều rộng từ 5-10m và chiều cao từ 10-18m Dù kích thước không lớn, nhưng hang động ở đây nổi bật với địa hình đẹp, các thành tạo địa chất hấp dẫn và nhiều thạch nhũ Đặc biệt, các hang động này còn gắn liền với tên tuổi của các anh hùng dân tộc trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm.

Khí hậu Thuỷ Nguyên có đặc điểm nhiệt đới nóng ẩm gió mùa, chịu ảnh hưởng của làn gió mùa Đông Nam Á và không khí cực đới Khu vực này có hai mùa rõ rệt, với nhiệt độ trung bình khoảng 23ºC và độ ẩm từ 82-85%.

Huyện Thủy Nguyên trên bản đồ Hải Phòng như một ốc đảo với hệ thống sông ngòi phong phú bao quanh Nơi đây có các loại sông nước ngọt, nước lợ và nước mặn gần biển, trong đó sông Giá nổi bật với vẻ đẹp và tiềm năng du lịch Được mệnh danh là "sông giàu huyền thoại", sông Giá mang đến cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp, thu hút du khách.

Sông Giá, một chi lưu của hệ thống sông Bạch Đằng, bắt nguồn từ sông Đá Bạc tại thôn Giao Dương, xã Lại Xuân Sông chảy qua các xã phía Đông Bắc huyện Thủy Nguyên và cuối cùng đổ ra sông Bạch Đằng tại khu Đầm Đe, thị trấn Minh Đức.

Sông Giá chảy qua những vùng núi non hùng vĩ, với bờ tả là các xã Liên Khê, Lưu Kiếm, Minh Đức, và bờ hữu là các xã Lại Xuân, Kỳ Sơn, Chính Mỹ, Kênh Giang, Hòa Bình, Trung Hà, Phục Lễ.

Sông Giá, nằm giữa miền châu thổ ven biển Đông, là nơi khởi nguồn của các nền văn minh lớn của cư dân Lạc Việt Ngàn năm trước, sông Giá đã góp phần hình thành "Hành lang văn hóa" của vùng đất Thủy Nguyên, với đỉnh cao là văn hóa Tràng Kênh và văn minh Đông Sơn Đôi bờ sông còn là kho tàng văn hóa phong phú, là quê hương của nhiều danh tài và là nơi gìn giữ phong tục tập quán lâu đời của quê hương đất nước.

Hồ sông Giá là vùng du lịch cảnh quan sinh thái bao gồm 3 khu vực chính có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong khai thác đó là:

Vùng lòng hồ sông Giá có chiều dài 16,5km từ đập Minh Đức tới đập Phi Liệt, chiều rộng trung bình từ 250 đến 400m, diện tích là 6,6km2

Vùng bờ phía Bắc hồ bao gồm các xã Minh Tân, Lưu Kiếm, Liên Khê và thị trấn Minh Đức, nổi bật với cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp, bao gồm nhiều núi đá và hang động Nơi đây còn có các danh thắng nổi tiếng như Hang Vua và đền thờ Trần Quốc Bảo, thu hút du khách đến khám phá và chiêm ngưỡng.

Vùng phía Nam hồ gồm các xã Ngũ Lão, Thuỷ Triều, Trung Hà…với những đồi thấp ven hồ, những vườn cây ăn quả trù phú

Tài nguyên đất ở huyện Thủy Nguyên rất phong phú và đa dạng, bao gồm nhiều loại đất khác nhau Đất phù sa màu nâu xám nhạt tại Liên Khê, Lại Xuân có khả năng trồng lúa và hoa màu Đất đồi núi và thung lũng ở An Sơn, Phù Ninh, Quảng Thanh cũng thích hợp cho việc trồng lúa, hoa màu và các loại cây như chè, dứa Bên cạnh đó, đất cát ven sông có lớp phủ sú vẹt xuất hiện ở các xã dọc theo các dòng sông, trong khi đất chua mặn phân bố ở phía Nam huyện, ven sông và ven biển.

2.1.1.6 Tài nguyên động thực vật a Động vật

Điều kiện kinh tế xã hội và tài nguyên du lịch nhân văn

Vùng đất Thuỷ Nguyên, với lịch sử hình thành lâu đời, đã có cư dân sinh sống từ rất sớm Theo thống kê năm 2007, huyện Thuỷ Nguyên có khoảng gần 30.000 người, cho thấy đây là một trong những huyện có mật độ dân số cao tại Hải Phòng, đạt 170 người/km2.

Con người Thuỷ Nguyên từ xưa đã nổi tiếng với tài năng và vẻ đẹp, thể hiện sự thông minh và duyên dáng Địa hình phong phú và đa dạng đã giúp họ phát triển toàn diện, vượt qua khó khăn trong cuộc sống và nhanh chóng thích nghi với môi trường hiện đại Điều kiện đất đai và khí hậu thuận lợi đã giúp người dân nơi đây không chỉ thành thạo trong nông nghiệp, lâm nghiệp, và ngư nghiệp, mà còn giỏi về các nghề thủ công, thương mại và công nghiệp.

2.1.2.2 Di tích lịch sử văn hoá

Tính đến nay, huyện Thủy Nguyên sở hữu 147 di tích lịch sử văn hóa, trong đó có 28 di tích được xếp hạng cấp thành phố và 23 di tích cấp quốc gia Ngoài ra, Thủy Nguyên còn nổi bật với nhiều thắng cảnh đẹp, thu hút du khách đến tham quan và khám phá.

Huyện Thủy Nguyên sở hữu tài nguyên nhân văn phong phú, có giá trị cao cho ngành du lịch Nơi đây ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử quan trọng và là nơi phát hiện các di chỉ mộ cổ của tổ tiên Nhiều di tích lịch sử như Hang Vua, đền thờ Trần Quốc Bảo và bãi cọc chiến Bạch Đằng, cùng với hang Đốc Tít từ thời kỳ chống thực dân Pháp, không chỉ làm phong phú thêm di sản văn hóa mà còn thu hút du khách đến khám phá vẻ đẹp của vùng đất này.

Thuỷ Nguyên là vùng đất nổi bật với nhiều lễ hội dân gian đặc sắc và là nơi tập trung nhiều làng nghề thủ công truyền thống, thu hút khách du lịch Tuy nhiên, tiềm năng du lịch ở đây vẫn chưa được khai thác hiệu quả, với số lượng di tích lịch sử phục vụ du lịch còn hạn chế Nguyên nhân chủ yếu là do cơ sở hạ tầng kém, giao thông chưa thuận tiện, cùng với việc nhiều di tích đang xuống cấp nghiêm trọng, thậm chí có nơi bị đổ nát Mặc dù một số đình chùa đã được tôn tạo, nhưng vẫn chưa đảm bảo tính chân thực của lịch sử và phong cách kiến trúc cổ.

2.1.2.3 Tình hình kinh tế- xã hội

Nằm ở phía Bắc thành phố Hải Phòng, Thuỷ Nguyên được đánh giá là huyện có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế, an ninh, quốc phòng

Thuỷ Nguyên, với diện tích 242,7 km², là quận huyện lớn nhất thành phố và có dân số gần 300.000 người, bao gồm 37 đơn vị hành chính Đây là một đầu mối giao thông quan trọng, kết nối đường bộ, đường sông và đường biển.

Thuỷ Nguyên có tiềm năng phát triển mạnh mẽ trong các ngành công nghiệp như đóng mới và sửa chữa tàu biển, khai thác và chế biến, sản xuất vật liệu xây dựng, nhiệt điện, cũng như phát triển đô thị hiện đại và các dịch vụ thương mại, nuôi trồng và khai thác thuỷ sản.

Huyện Thủy Nguyên là một trong những khu vực được đầu tư mạnh mẽ vào hệ thống giao thông và các dự án công nghiệp quan trọng, tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế năng động Việc phát triển huyện Thủy Nguyên không chỉ đóng vai trò then chốt trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa thành phố Hải Phòng mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế cho các địa phương lân cận.

Thủy Nguyên hiện nay đang trải qua sự phát triển mạnh mẽ nhờ vào những chính sách đổi mới hợp lý và đội ngũ lãnh đạo năng động, dám nghĩ dám làm.

Trong những năm qua, đảng bộ, quân và dân huyện Thủy Nguyên đã nỗ lực đạt được nhiều kết quả quan trọng và toàn diện trên các lĩnh vực.

Cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch tích cực với sự giảm dần tỉ trọng ngành nông nghiệp và tăng trưởng mạnh mẽ ở các ngành công nghiệp, xây dựng, thương mại và dịch vụ Kinh tế địa phương đạt mức tăng trưởng liên tục và ổn định, đặc biệt trong lĩnh vực giao thông và cơ sở hạ tầng nông thôn Quản lý đất đai và xây dựng có những cải thiện rõ rệt, cùng với tốc độ đô thị hóa nhanh chóng Huyện đã hợp tác chặt chẽ với các ngành chức năng để triển khai các dự án quan trọng như nhà máy xi măng Hải Phòng, nhà máy nhiệt điện Tam Hưng và cầu Bính.

Các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa thông tin và thể dục thể thao đang trải qua quá trình xã hội hóa, phát triển nhanh chóng về cả quy mô lẫn chất lượng, đạt được nhiều thành tựu nổi bật.

Những vấn đề xã hội như xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm và chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được chú trọng Chính sách xã hội được thực hiện hiệu quả, góp phần cải thiện và nâng cao đời sống của người dân Từ đó, tư tưởng quần chúng trở nên ổn định, tăng cường niềm tin vào đường lối đổi mới của Đảng và sự lãnh đạo của huyện.

Nhờ nỗ lực của các cấp, các ngành, tình hình kinh tế - xã hội tại Thủy Nguyên vẫn duy trì sự ổn định và tiếp tục phát triển, đạt được các chỉ tiêu nhiệm vụ đã đề ra.

Trong 6 tháng đầu năm 2007, tổng giá trị sản xuất của các ngành đạt 562,725 triệu đồng, hoàn thành 54,7% kế hoạch và tăng 15,5% so với cùng kỳ năm trước Cụ thể, nông nghiệp và thuỷ sản tăng 11,9%, công nghiệp - xây dựng tăng 21,4%, và dịch vụ tăng 13,7% Cơ cấu kinh tế chuyển dịch hiệu quả, với tỉ trọng ngành công nghiệp chiếm 38,39%, công nghiệp - xây dựng 35,12%, và dịch vụ 25,5%.

Đặc điểm hệ thống chùa tại Thủy Nguyên

Huyện Thủy Nguyên hiện có 99 ngôi chùa lớn nhỏ phân bố khắp các xã, nhưng hầu hết đều không giữ được hình dáng ban đầu do những lần trùng tu Dù vậy, kiến trúc truyền thống Việt Nam, bất kể thời kỳ hay vùng miền, luôn mang những đặc trưng hòa hợp với môi trường và bối cảnh văn hóa xã hội địa phương Vì vậy, các chùa ở huyện Thủy Nguyên đều mang nét đặc trưng của chùa miền Bắc.

2.2.1 Cách bố trí tƣợng thờ

Các ngôi chùa ở miền Bắc, đặc biệt là tại Thủy Nguyên, nổi bật với hệ thống tượng thờ phong phú và đa dạng, thường bao gồm gian thờ mẫu và ban thờ các nhân vật Nho giáo và Đạo giáo Ngược lại, các chùa ở miền Trung và miền Nam đã giản lược hệ thống tượng, với xu hướng xuất hiện nhiều chùa thờ Phật độc tôn hơn.

Chùa ở Thủy Nguyên, giống như các ngôi chùa Bắc Bộ, thường được chia thành 4 khu vực: Chính điện, tiền đường, nhà hành lang, nhà tổ và nhà trai Trong Chính điện, triết lý vô thường được thể hiện rõ ràng qua cách bài trí tượng thờ, phản ánh sự biến đổi không ngừng của vạn vật Các không gian và thời gian trong Phật giáo được gọi là tam thiên thế giới, bao gồm trang nghiêm đại kiếp (quá khứ), hiền đại kiếp (hiện tại) và tinh tú đại kiếp (tương lai) Triết lý này còn được minh họa qua bộ tượng tam thế Phật, với sự bố trí theo hàng dọc của tượng Di Đà tam tôn (quá khứ) và Thích ca niệm hoa, còn gọi là Hoa nghiêm tam thánh.

Hiện tại được thể hiện qua tượng Di lặc, trong khi tương lai được biểu trưng bởi các vị như Quan Thế Âm Bồ Tát, Phật A Di Đà và Đại Thế Chí Bồ Tát Lớp thứ ba bao gồm Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phật Thích Ca Mâu Ni và Phổ Hiền Bồ Tát, mặc dù ở một số nơi, hai vị Bồ Tát này có thể được thay thế bằng tượng A Nan và Ca Diếp Cuối cùng, lớp thứ tư là Pháp Hoa Lâm.

Bồ Tát, Phật Di Lặc và Đại Diệu Tướng Bồ Tát thường được thờ cúng tại các chùa, trong đó có ban Cửu Long dưới chính điện, nơi thờ đức Phật đản sinh, kèm theo các tượng Đế Thích và Phạm Thiên Các lớp tượng thứ hai, ba, tư diễn giải cụ thể về hiện thân của đức Phật tại lớp tượng thứ nhất qua không gian và thời gian Ngoài ban thờ Đức Ông, còn có ban thờ Đức Thánh Hiền, hai ban này có vị trí đối xứng nhau Theo giáo lý Phật giáo, Đức Ông được xem là trưởng giả.

Cấp Cô Độc, hay còn gọi là Đức Thánh Hiền, được nhận diện là ngài A Nan, nhưng ở nhiều nơi, Đức Ông được xem là hiện thân của võ quan có công dẹp giặc giữ nước, trong khi Đức Thánh Hiền tượng trưng cho quan văn có công xây dựng đất nước Miền Bắc nước ta, với vị trí địa lý đặc biệt, là vùng giao thoa văn hóa và tín ngưỡng, dẫn đến việc tại đa số các chùa Thủy Nguyên, thường có sự phối thờ giữa các ban thờ thánh Mẫu và ban Công Đồng.

Hầu hết các ngôi chùa tại Thủy Nguyên đều mang đặc điểm của kiến trúc Phật giáo thời nhà Trần

Thứ nhất các chùa tại Thủy Nguyên hầu hết được xây dựng ở các vùng tách biệt với xóm làng, nhưng lại là trung tâm của nhiều vùng lân cận

Thứ hai các công trình đều được xây dựng ở phong quang thoáng đãng

Các chùa Thủy Nguyên thường được xây dựng trên những ngọn đồi lớn và núi cao, tạo ra không gian tĩnh lặng, thanh tịnh, phù hợp với tâm linh tôn thờ Thần Phật Vị trí này không chỉ giúp xa lánh cuộc sống trần tục mà còn mang đến bầu không khí thiêng liêng Với địa hình núi cao, các kiến trúc chùa được xây dựng theo các lớp nền khác nhau, với vườn chùa rộng rãi kéo dài từ cổng vào Các ngôi chùa thường quay hướng Nam, dựa lưng vào núi, được ôm trọn bởi những dãy núi hùng vĩ như tay long, tay hổ, tạo nên sự hài hòa với thiên nhiên.

Các chùa thường được xây dựng với mối liên hệ chặt chẽ với thiên nhiên, tạo nên kiến trúc hài hòa với cảnh trí xung quanh Những công trình này như hòa mình vào đất đai, giúp tôn vinh vẻ đẹp của kiến trúc và cảnh quan thiên nhiên xung quanh.

Một đặc điểm nổi bật của các ngôi chùa tại Thủy Nguyên là sự hiện diện của tháp mộ, nơi lưu giữ xá lị của các vị sư tổ đã tu hành và viên tịch Tháp mộ thường được coi là kiến trúc phụ trong tổng thể ngôi chùa, nhưng tại Thủy Nguyên, tháp lại được đặt ở vị trí phía trước chùa, khác với các chùa ở các tỉnh khác.

2.2.2.3 Kiến trúc Phật điện Điện thờ Phật của các ngôi chùa Thủy Nguyên thường có nền là hình vuông Các nền chùa thường được tôn cao hơn mặt đất bình thường và không lát gạch

Kiến trúc Phật điện được thiết kế với cấu trúc một gian hai trái, không có tường vách bao quanh Các tòa thượng điện có bốn cột cái lớn ở giữa và 12 cột quân xung quanh, tạo nên một không gian thoáng đãng Hai vì chia gian đều thuộc gian giữa, với kết cấu khung gỗ hỗ trợ hai mái chính ở phía trước và sau, cùng hai mái bên Toàn bộ trọng lượng mái được truyền qua các cột xuống nền nhà Mái điện tỏa ra bốn phía, với các đầu đao uốn cong, tạo hình giống như những đóa hoa ở bốn góc.

Kết cấu kiến trúc điển hình có nền hình vuông với bốn cột lớn ở giữa, tạo thành bộ vì giá chiêng Các cột cái được kết nối bằng câu đầu lớn, trong khi cột quân nối với cột cái qua xà nách Trên câu đầu là bộ phận giá chiêng, thường thấp hơn so với các thời kỳ sau, bao gồm hai trụ chống đỡ bụng lợn Bộ khung giá chiêng không chỉ giữ cho con chồng vững chắc mà còn hỗ trợ mái Ở giữa khung, ván bưng trang trí chạm trổ hình lá đề và phù điêu rồng, tiên nữ tạo nên phong cách đặc trưng Từ cột cái, xà nách nằm ngang và các con rường chồng lên nhau qua đấu kê Đầu bẩy từ cột quân ra ngoài hiên được chúc xuống theo độ dốc mái Trên xà nách có các bức cốn hình vuông, nơi hội tụ tinh hoa trang trí của ngôi chùa Các thành phần gỗ thời kỳ này đều lớn và liên kết với nhau bằng mộng, tạo ra cấu kiện chắc chắn nhưng dễ tháo lắp khi sửa chữa.

Trang trí gỗ tại các chùa Thủy Nguyên nổi bật với vẻ đẹp khỏe khoắn và chất dân dã Các họa tiết trang trí thường mang tính chất chính thống và quyền quý, bao gồm những hình ảnh như rồng phượng, sấu, hoa mẫu đơn, quầng lửa, sóng nước, hoa sen và hoa dây.

Các vì kèo gỗ thể hiện sự phong phú trong nghệ thuật chạm khắc của ông cha ta, với những ván bưng giữa các giá chiêng khắc họa đề tài lưỡng long tranh châu Các trụ đỡ được trang trí bằng hình ảnh tiên nữ trên sóng nước, tay giơ lên đỡ bệ sen, cùng với những hình phỗng và hoa mẫu đơn Hình tượng tiên nữ thường xuất hiện trong các bức ván nong, khi thì thổi tiêu, kéo nhị hay chơi sáo Những bức chạm khắc khác cũng thể hiện các nhạc công chơi nhạc cụ dân tộc Bố cục cân xứng và đường nét mềm mại, đôi lúc gân guốc nhưng điêu luyện, tạo nên sự chắc khỏe đặc trưng trong trang trí tại các ngôi chùa Thủy Nguyên Nhân vật trung tâm là vũ nữ và nhạc công, với cách bố cục đăng đối và phong cách tương đồng, làm nổi bật sự lặp lại trong không gian hình tượng, cùng với sự tương phản giữa khoảng đặc và khoảng rỗng, sáng và tối trên các ván gỗ phẳng với hoa văn ken đặc.

Hình tượng con rồng tại các ngôi chùa Thủy Nguyên thường được chạm nổi với những đường nét cao, uốn khúc mềm mại và thoải mái Đặc điểm nổi bật là hình khối tròn lẳn và đuôi rồng múp dần, thể hiện sự tinh tế trong nghệ thuật chạm khắc.

Một số ngôi chùa tại Thủy Nguyên

Sau khi tham khảo phòng văn hóa Huyện Thủy Nguyên và thực tế nghiên cứu nhiều ngôi chùa, tác giả đã lựa chọn một số ngôi chùa để nghiên cứu và thực hiện bài khóa luận của mình.

Chùa Mỹ Cụ Chùa Thiểm Khê (Chùa Hoa Linh) Chùa Hoàng Pha

Chùa Nhân Lý Chùa Phù Lưu Chùa Mai Động

Người viết chọn những ngôi chùa trên để tìm hiểu nghiên cứu do những nguyên nhân sau:

Huyện Thủy Nguyên có 99 ngôi chùa, nhưng hầu hết đã được xây dựng lại, không còn giữ được kiến trúc xưa và giá trị lịch sử Vì vậy, tác giả cần chọn lọc những ngôi chùa cổ chưa bị thay đổi nhiều để nghiên cứu và phục vụ cho bài khóa luận.

Các ngôi chùa được lựa chọn để nghiên cứu đều là những di tích lịch sử cấp quốc gia nằm trên địa bàn huyện.

Các ngôi chùa được chọn lọc đều là những ngôi chùa có nét kiến trúc đặc biệt mà không ngôi chùa nào có được

Các ngôi chùa trên đều còn lưu giữ được rất nhiều hiện vật cổ quý giá có giá trị lịch sử, giá trị văn hóa vô cùng to lớn

Làng Mỹ Cụ, xã Chính Mỹ, huyện Thủy Nguyên, nằm bên dòng sông Giá, mang đến cuộc sống thanh bình và đậm đà bản sắc văn hóa cổ của vùng Đồng Bằng Bắc Bộ Tại đây, chùa Mỹ Cụ, hay còn gọi là Linh Sơn, là nơi gắn bó với đời sống tâm linh của người dân trong suốt nhiều thế hệ.

Tự được xếp hàng đầu trong bốn cổ tự huyện Thủy Nguyên

Chùa nằm ở vị trí đắc địa trên dãy núi Phượng Hoàng thuộc làng Mỹ Cụ, được người dân địa phương đặt tên theo làng để dễ nhớ Theo phong thủy, chùa tọa lạc trong thế ngũ linh: phụng, long, quy, hổ, tượng Phía trước chùa cách khoảng 500m có núi hổ và núi rùa, trong khi dãy núi uốn lượn hình con rồng ôm lấy chùa từ phía sau Xa xa, núi voi đứng chầu về chính giữa, tạo nên một không gian linh thiêng, làm cho vị trí của chùa trở thành điểm hội tụ khí thiêng của trời đất.

Chùa Mỹ Cụ, theo tài liệu lịch sử, là nơi lưu giữ nhiều dấu ấn của các nhân vật nổi bật trong lịch sử Việt Nam thời hậu Lý, tiền Lê và Trần Di sản từ cố đại lão hòa thượng Kim Cương Tử cho biết, cha mẹ Lê Hoàn đã cầu tự tại đây, dẫn đến sự ra đời của vị vua khai sáng nhà tiền Lê, người đã lãnh đạo quân dân Đại Cồ Việt đánh bại quân xâm lược nhà Tống trên sông Bạch Đằng Ngoài ra, chùa còn có nơi ăn chay niệm Phật của thiền học Tuệ Trung Thượng Sĩ, ghi dấu ấn văn hóa tâm linh của khu vực này cách đây 700 năm.

Trần Tung (1230 – 1291) là một nhà thơ, nhà quân sự, và danh nhân văn hóa nổi bật trong lịch sử Việt Nam, được biết đến với tên gọi Hưng Ninh Vương và đạo hiệu Tuệ Trung Tượng Sỹ Ông là thầy của Trúc Lâm sơ tổ, một thiền học bậc thầy trong thời kỳ thịnh vượng của Phật giáo Tại thái ấp Dưỡng Chân (nay là Chính Mỹ), Trần Tung sống cuộc đời ẩn dật thanh cao, nghiên cứu thiền học và phát triển những châm ngôn giúp thế hệ sau tìm thấy ánh sáng trong cuộc sống Ông là con trai đầu của An Sinh Vương Trần Liễu và anh cả của Trần Quốc Tuấn Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông (1284 – 1285), ông cùng em trai Trần Quốc Tuấn chỉ huy cánh quân lớn, buộc quân Nguyên rút khỏi Thăng Long về Vạn Kiếp.

Sau chiến thắng quân Nguyên, ngài được bổ nhiệm làm Tiết Độ Sứ vùng Duyên hải nhưng đã từ chức để sống cuộc đời thanh nhàn tại Dưỡng Chân Hơn 700 năm sau, dấu tích như cánh đồng Trang học, giếng đá và cầu rửa vẫn còn tồn tại ở làng Dưỡng Chính, Chính Mỹ, cùng với tĩnh thất Dưỡng Chân của ngài Trong cuốn sách của Trần Khắc Chung, ngài được ca ngợi là “ngọn đèn tổ của Phật hoàng”, người đã truyền đạt tri thức Phật giáo cao siêu Ngài đã mở mang lĩnh ngộ về phép thần, và từ đó, ông được xem là nhà thiền học bậc thầy ở Việt Nam, với nhiều hội thảo và sách của ông được phiên âm ra chữ quốc ngữ.

Mỹ Cụ là nơi khởi nguồn của nghĩa quân trong cuộc khởi nghĩa nông dân do Trần Cao, một con dân của quê hương Mỹ Cụ, lãnh đạo Cuộc khởi nghĩa này đã góp phần quan trọng vào việc lật đổ hệ thống chính trị thời Lê Sơ, mở đường cho sự ra đời của triều đại nhà Lý.

Giai đoạn 1930-1945, Đảng lãnh đạo nhân dân đoàn kết đấu tranh giành độc lập, chùa Mỹ Cụ trở thành địa điểm hoạt động của các tăng già cứu quốc, nơi tập trung của các sư tăng yêu nước tham gia chiến khu Đông Triều do trung tướng Nguyễn Bình chỉ huy Đầu năm 1945, Đảng và Mặt trận Việt Minh cử ông Hoàng Ngọc Lương lãnh đạo phong trào cách mạng ở xã Chính Mỹ, cùng với các chiến sĩ cách mạng như Trần Ngọc Ánh, Nguyễn Văn Sự, vận động thanh niên yêu nước tham gia hoạt động cách mạng Chùa Mỹ Cụ trở thành trụ sở cách mạng của xã và vẫn giữ vai trò quan trọng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp Theo lời kể của đại đức trụ trì, trong những năm kháng chiến, nhiều vị sư đã tham gia kháng chiến, và hiện nay, trong vườn chùa có khu tưởng niệm các nhà sư có công với kháng chiến.

Ngôi chùa hiện nay không còn giữ được những nét kiến trúc xưa nhưng vẫn duy trì bố cục tổng quan từ chân đến lưng chừng núi theo thứ tự thượng, trung, hạ Chùa Mỹ Cụ có kiến trúc truyền thống kiểu chữ Đinh với năm gian tiền đường và ba gian hậu, bao gồm chùa cao, nhà tổ và Phật điện Xung quanh chùa là rừng thông, tùng, bách rậm rạp, cùng với vườn cây ăn quả chủ yếu là vải và nhãn, tạo nên không gian mát mẻ và bóng râm.

Tâm linh và biểu tượng của Phật pháp hiện lên qua các pho tượng tại chùa Mỹ Cụ, nổi bật nhất là bức tượng Phật A-di-đà cao 2m3, được tạc từ gỗ lim tại chỗ Tượng mang vẻ đẹp thanh thoát, với khuôn mặt hiền hòa và tư thế thuyết pháp trên đài sen Không gian chùa Mỹ Cụ không sử dụng trang trí phô trương mà chỉ điểm xuyết những đường lá cách điệu, tạo cảm giác mộc mạc và giản dị Phía sau Phật điện là nhà thờ các vị sư tổ, trong khi ngôi chùa nhỏ nhất thờ Đức Quan Thế Âm Tống Tử Vườn tháp 12 ngôi có tuổi đời hàng thế kỷ nằm trước tiền đường, hòa quyện với vẻ đẹp tự nhiên của khu vườn Cổng sơn môn mới được xây dựng gần đây cũng là điểm nhấn dễ nhận thấy từ xa, góp phần làm tăng thêm vẻ đẹp linh thiêng của chùa Mỹ Cụ.

2.3.1.4 Các hiện vật lịch sử

Chùa có văn tự cổ nhất ghi lại việc trùng tu và xây dựng vào thời vua Lê Hy Tông (1680 – 1705) Đến năm 1717, dưới triều đại Lê Dụ Tông, hòa thượng Thích Tế Cổn đã đứng ra trùng tu chùa với quy mô lớn, xây dựng 12 gian nhà và tạc 19 pho tượng Hiện nay, chùa còn lưu giữ bia đá ghi lại sự kiện này Ban đầu, chùa Mỹ Cụ theo Thiền phái Trúc Lâm, nhưng sau đó chuyển sang Thiền phái Tế Trúc Năm 1838, ngài Vô Cấu luật sư kiêm Thiền sư họ Phạm là trụ trì, tiếp tục tu bổ và tôn tạo chùa Năm 1942, chùa lại được sửa chữa, nhưng mất đi màu sắc cổ xưa Ngôi chùa hiện tại được xây mới vào năm 1979, vẫn giữ nét kiến trúc chính của lần trùng tu năm 1942.

2.3.1.5 Quá trình trùng tu chùa

Việc trùng tu chùa đã diễn ra liên tục từ năm 1979, với sự tham gia của nhân dân địa phương trong việc thay thế các cột gỗ hư hỏng ở 5 gian tiền đường và 3 gian phật điện Đến cuối năm 1999 và đầu năm 2002, chùa tiếp tục được sửa chữa và cải tạo một số công trình phục vụ sinh hoạt hàng ngày Nổi bật trong các hoạt động đầu tư và tôn tạo là việc hoàn thành xây dựng tam quan và gác chuông, cùng với một số công trình khác như phòng họp và 2 hồ tròn tượng trưng cho trời và đất.

Chùa Mỹ Cụ đã có những bước đầu trong việc tu bổ và tôn tạo, với 2 cổng phụ và 6 cột đèn điện được xây dựng Đại đức Thích Trường Xuân cho biết, kế hoạch trong tương lai là quy hoạch, mở rộng chùa một cách bề thế hơn mà vẫn giữ được vẻ đẹp cổ kính và bảo tồn các di vật quý Hiện tại, chùa đã hoàn tất đền bù đất ruộng của người dân địa phương để mở rộng diện tích Các công trình mới sẽ được xây dựng và cải tạo, dựa vào sự đóng góp của cộng đồng nhằm làm đẹp thêm cho ngôi chùa có lịch sử hàng nghìn năm.

Giá trị của Chùa tại Thủy Nguyên

Thuỷ Nguyên, huyện có truyền thống lịch sử và văn hóa nổi bật nhất Hải Phòng, là nơi ghi dấu những chiến công vĩ đại trong lịch sử dân tộc, như chiến thắng của Ngô Quyền trước quân Nam Hán vào năm 938 và những chiến tích của Lê Đại.

Hành đại phá quân Tống năm 981 và chiến thắng quân Nguyên Mông năm 1288 của Trần Hưng Đạo đã khẳng định vị trí quan trọng của Thuỷ Nguyên, cửa ngõ ra vào vùng biển Đông Bắc Nơi đây đã chứng kiến nhiều cuộc khởi nghĩa chống triều đình và nội chiến thời phong kiến, phản ánh lịch sử khai hoang lấn biển và nỗ lực bảo vệ, xây dựng mảnh đất thiêng liêng này.

Tham quan các chùa tại Thủy Nguyên giúp du khách hiểu rõ quá trình khai phá đất đai, hình thành làng ấp và bảo vệ bờ cõi của tổ quốc Quá trình này kéo dài và đòi hỏi sự đoàn kết của các thế hệ cư dân để vượt qua khắc nghiệt của thời tiết cũng như các cuộc xâm lấn từ giặc biển và phong kiến phương Bắc Nền kinh tế biển đặc trưng của Thủy Nguyên đã tạo ra một hệ thống chùa chiền, không chỉ là nơi sinh hoạt cộng đồng và tâm linh mà còn tổ chức lễ hội gắn liền với chiến công của các vị tướng thời nhà Trần và những bậc tiền bối.

Trong suốt lịch sử, cư dân Thủy Nguyên đã đóng góp lớn vào việc bảo vệ vùng đất Đông Bắc của tổ quốc trước kẻ thù xâm lược Họ thể hiện ý chí kiên cường và lòng dũng cảm, tạo nên những chiến thắng vang dội trong lịch sử dân tộc, tiêu biểu là chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 của triều Trần Những sự kiện này không chỉ ghi dấu ấn trong lịch sử mà còn giáo dục lòng yêu quê hương đất nước cho các thế hệ người Việt Nam, đặc biệt là cư dân Thủy Nguyên.

Qua các hiện vật lịch sử còn lại và dấu tích của vùng đất Thủy Nguyên, chúng ta nhận thấy chứng tích của một nền kinh tế phát triển và một vùng đất trù phú Thời kỳ đất nước bình yên đã cho phép người dân nơi đây xây dựng và tu bổ các đình chùa, tạo ra những nơi hội họp và tưởng nhớ các anh hùng dân tộc cũng như các vị khai canh, khai cơ đã góp phần lập nên vùng đất này.

Vùng đất Thuỷ Nguyên đã có hoạt động quần cư từ rất sớm, thể hiện sự đoàn kết và cố kết cộng đồng cao của cư dân để đối phó với khí hậu khắc nghiệt và giặc ngoại xâm Tính cộng đồng này được phản ánh rõ nét qua các di tích và lễ hội, những biểu hiện cho khát vọng chung của cộng đồng về một cuộc sống ổn định và trù phú.

Người dân địa phương xem chùa là biểu tượng thiêng liêng nhất của cộng đồng Việc xây dựng chùa cần sự đóng góp to lớn về sức người và vật lực Nếu không có tinh thần đoàn kết và ý thức cộng đồng, việc xây dựng các ngôi chùa sẽ không thể thực hiện được.

Việc xây dựng các ngôi chùa đã khó, nhưng việc bảo quản, tu bổ và gìn giữ chúng còn khó khăn hơn nhiều Điều này đòi hỏi ý thức cộng đồng cao và sự chung sức đóng góp của mọi người.

Các lễ hội tại huyện Thủy Nguyên không chỉ là môi trường văn hóa mà còn là nơi giáo dục các thế hệ, truyền lại giá trị văn hóa từ ngàn xưa Hoạt động lễ hội gắn kết cộng đồng qua sự thống nhất văn hóa giữa các thế hệ Thủy Nguyên có lợi thế về con người, khi mỗi người dân từ nhỏ đã được "tắm mình" trong các lễ hội, giúp họ tham gia một cách tự nhiên và tự nguyện Các nghi thức tế lễ được thực hiện thuần thục, do đó, ban tổ chức không phải lo lắng về việc huy động lực lượng tham gia Điều này thể hiện tinh thần cộng đồng cao của người dân Thủy Nguyên.

Lễ hội truyền thống mang đậm tính cộng đồng, thể hiện rõ nét qua sự tham gia đông đảo của người dân trong làng Vào ngày lễ, mọi người cùng nhau chuẩn bị và hòa mình vào các hoạt động, phản ánh ý thức cộng đồng mạnh mẽ.

Lễ hội mang lại sự bình đẳng cho mọi người, không phân biệt đẳng cấp hay địa vị xã hội Từ vua quan đến người dân, tất cả đều tham gia và hưởng thụ như nhau trong không khí cộng đồng và trước thần linh Qua đó, lễ hội góp phần tăng cường sự đoàn kết, gắn bó giữa con người, tạo nên một cộng đồng mạnh mẽ và thống nhất Có thể nói, "lễ hội chính là cuộc đời thứ hai bên cạnh cuộc đời thật."

Sự phát triển vật chất đi đôi với việc nâng cao yếu tố tâm linh trong đời sống con người, đặc biệt là ở Thuỷ Nguyên, nơi tín ngưỡng phật giáo đóng vai trò chủ đạo Việc lên chùa lễ Phật không chỉ là hoạt động của Phật tử mà còn thu hút đông đảo người dân, thể hiện nét đẹp văn hóa và bảo tồn bản sắc dân tộc Hành động này giúp mọi người tạm gác lại những lo toan thường nhật, mang lại cảm giác thanh thản và hướng tới những giá trị tốt đẹp của cuộc sống như cái Thiện, cái Chân, và cái Mĩ.

Chùa là biểu tượng lịch sử, phản ánh các sự kiện hào hùng qua nhiều thế hệ Mặc dù cuộc sống con người đã thay đổi theo thời gian, nhưng các ngôi chùa vẫn giữ nguyên giá trị tâm linh và văn hóa Những giá trị này được tinh lọc qua các thế hệ, trở thành phong tục truyền thống, thể hiện bản sắc văn hóa của cộng đồng.

Chùa Thủy Nguyên nổi bật với kiến trúc mang đậm triết lý Á Đông, thể hiện sự tinh tế qua các hoa văn biểu tượng Ngôi chùa được bố trí hài hòa với thiên nhiên xung quanh, tạo nên không gian thanh thoát và gợi lên những cảm xúc thăng hoa cho du khách.

Nét văn hóa hướng nội của ngôi chùa thể hiện qua nếp sống và sinh hoạt của tăng đồ, tạo ra năng lực tự nội và ảnh hưởng đến cộng đồng xung quanh Người xuất gia như những thiền gia, sống trong không gian thiền tịnh của nhà chùa Cảnh chùa luôn mang đến sự yên tĩnh, trầm mặc và linh thiêng, góp phần sâu sắc vào đời sống tâm linh của người dân địa phương.

Thực trạng hoạt động du lịch tại hệ thống Thủy Nguyên

2.5.1 Thực trạng hoạt động du lịch

Ngành du lịch huyện Thủy Nguyên, mặc dù sở hữu nhiều giá trị lịch sử, tâm linh, văn hóa và kiến trúc phong phú, vẫn chưa được khai thác triệt để Hiện tại, việc nghiên cứu và phát triển du lịch tại đây còn thiếu sót và chưa đi sâu vào những tiềm năng cụ thể.

Các ngôi chùa chủ yếu thu hút du khách tham quan vào dịp lễ hội đầu năm, từ mồng 6 tháng 1 đến mồng 9 tháng 3 âm lịch, khi diễn ra nhiều lễ hội với quy mô khác nhau Ngoài thời gian này, chùa thường chỉ đón tiếp người dân địa phương đến thăm với mục đích tâm linh và hướng về Phật.

Hoạt động du lịch không chỉ mang lại nguồn thu nhập cho người dân địa phương, cải thiện đời sống, mà còn gây ra những tác động tiêu cực như giá cả sinh hoạt tăng cao, buôn bán cổ vật và các tệ nạn xã hội.

Để phát triển du lịch bền vững, các cấp chính quyền và ngành du lịch cần có định hướng rõ ràng, tìm ra phương pháp ổn định và hiệu quả Đồng thời, cần thực hiện các biện pháp kịp thời để ngăn chặn tệ nạn xã hội, bảo vệ và gìn giữ bản sắc văn hóa địa phương.

2.5.2 Cơ sở vật chất kỹ thuật

Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật trong kinh doanh du lịch, bao gồm cơ sở lưu trú, dịch vụ ăn uống, phương tiện vận chuyển và các hoạt động vui chơi giải trí, đóng vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động kinh doanh du lịch.

Hiện tại, khu vực xung quanh các ngôi chùa ở Thủy Nguyên thiếu thốn các nhà nghỉ và nhà hàng phục vụ du khách Hầu hết các cơ sở lưu trú lớn đều tập trung chủ yếu tại Thị trấn Núi Đèo, Thị trấn Minh Đức và một số khu vực lân cận khác.

Hệ thống thông tin liên lạc tại huyện được cải thiện đáng kể, với tỷ lệ 20 máy/100 dân, đảm bảo sự thuận tiện và thông suốt 100% các thôn xóm vùng sâu và làng xã xung quanh các ngôi chùa đều có điện thoại, đáp ứng kịp thời nhu cầu thông tin liên lạc của du khách.

Trước đây, các hộ dân xung quanh chùa chủ yếu sử dụng nước giếng khoan và nước mưa, nhưng hiện nay, 100% hộ gia đình đã được cung cấp điện và nguồn nước hợp vệ sinh Hệ thống điện nước hiện đại này góp phần quan trọng vào việc phát triển du lịch tại huyện.

Huyện hiện có một mạng lưới phương tiện vận chuyển phong phú, với nhiều xe ô tô từ 4 đến 45 chỗ ngồi phục vụ cho hoạt động vận chuyển khách du lịch Đặc biệt, trong số đó có nhiều xe chất lượng cao, đáp ứng tốt nhu cầu của du khách.

Cơ sở hạ tầng du lịch tại Thủy Nguyên đóng vai trò quan trọng trong việc khai thác giá trị của hệ thống chùa nơi đây Tuy nhiên, hiện tại, hệ thống giao thông đến một số ngôi chùa vẫn còn gặp khó khăn, và cơ sở lưu trú cùng nhà hàng phục vụ ăn uống chỉ đáp ứng được nhu cầu cơ bản của du khách.

2.5.3 Công tác quản lí và tổ chức khai thác

Huyện Thuỷ Nguyên sở hữu tài nguyên du lịch phong phú và đặc sắc, nhưng nhận thức của chính quyền và người dân địa phương về việc khai thác giá trị du lịch còn hạn chế Việc thiếu quy hoạch tổng thể đã dẫn đến việc khai thác các di tích một cách tuỳ tiện, chưa hiệu quả.

Tại các ngôi chùa, người dân địa phương tự huy động kinh phí để sửa chữa, tu bổ mà không tuân thủ đúng các văn bản hướng dẫn, dẫn đến việc tu bổ mang tính tự phát và thiếu sự giám sát từ cơ quan quản lý chuyên ngành Sự tự giác này đã làm phá vỡ kiến trúc Phật giáo nguyên gốc của nhiều ngôi chùa Hơn nữa, một số ngôi chùa được tu bổ dưới sự chủ trì của các nhà sư, nhưng do mời cá nhân không đủ hiểu biết về giá trị thực sự của kiến trúc, nên đã gây ra những thay đổi chủ quan và làm mất đi giá trị văn hóa của chúng.

Việc khai thác du lịch tại các chùa Thủy Nguyên hiện nay còn mang tính tự phát và quy mô nhỏ, dẫn đến hiệu quả chưa cao và lãng phí tài nguyên Hơn nữa, sự kết nối giữa các tiềm năng du lịch và các hoạt động khác của tỉnh còn thiếu chặt chẽ, do huyện Thủy Nguyên chưa có trung tâm lữ hành Các chương trình du lịch chủ yếu do doanh nghiệp tỉnh thiết kế, tập trung vào việc khai thác hiệu quả hơn tiềm năng du lịch của huyện, nhằm tăng số lượng khách đến các di tích lịch sử văn hóa trong khu vực.

Mặc dù Thuỷ Nguyên sở hữu tiềm năng du lịch lớn, công tác quản lý và bảo vệ các ngôi chùa tại huyện vẫn chưa được chú trọng, dẫn đến tình trạng xuống cấp và bỏ hoang của nhiều ngôi chùa Quản lý nhà nước về du lịch trong khu vực còn hạn chế, với nhiều vấn đề bất cập, thiếu cán bộ chuyên ngành có kiến thức sâu về lĩnh vực này.

Các lễ hội tại chùa Thuỷ Nguyên phản ánh sâu sắc văn hóa dân gian truyền thống của vùng quê Bắc Bộ, với cả nghi lễ và phần hội thể hiện bản sắc văn hóa đầy cảm xúc và nhân văn Tuy nhiên, trong những năm gần đây, sự phát triển của nền kinh tế thị trường và giao lưu văn hóa quốc tế đã dẫn đến sự biến dạng và lai căng ở nhiều lễ hội, làm mai một một số nghi thức trong phần hội và giảm sút giá trị nhân văn vốn có của chúng.

2.5.4 Môi trường tự nhiên và môi trường xã hội

ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM KHAI THÁC CÓ HIỆU QUẢ GIÁ TRỊ VĂN HÓA, LỊCH SỬ CỦA HỆ THỐNG CHÙA THỦY NGUYÊN PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH

Ngày đăng: 05/08/2021, 21:48

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Bùi Thị Hải Yến, Tuyến điểm du lịch Việt Nam- NXB Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tuyến điểm du lịch Việt Nam
Nhà XB: NXB Giáo dục
6. Nguyễn Văn Đính cùng nhóm tác giả- Kinh tế du lịch, NXB lao động và xã hội Hà Nội, 2004 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kinh tế du lịch
Nhà XB: NXB lao động và xã hội Hà Nội
8. Nguyễn Minh Tuệ( chủ biên)- Địa lý du lịch, NXB thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Địa lý du lịch
Nhà XB: NXB thành phố Hồ Chí Minh
9. Trần Nho Thìn- Vào Chùa Lễ Phật, NXB Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vào Chùa Lễ Phật
Nhà XB: NXB Hà Nội
10. Trương Thìn( chủ biên)- Lên Chùa Lễ Phật Đầu Năm, NXB Thời Đại Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lên Chùa Lễ Phật Đầu Năm
Nhà XB: NXB Thời Đại
11. Phạm Trung Lương cùng nhóm tác giả- Tài nguyên và môi trường du lịch Việt Nam, NXB Giáo dục 2000 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tài nguyên và môi trường du lịch Việt Nam
Nhà XB: NXB Giáo dục 2000
13. Trần Đức Thanh- Nhập môn khoa học du lịch, NXB Đại học QGHN,1999 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhập môn khoa học du lịch
Nhà XB: NXB Đại học QGHN
14. Đào Văn Tập- Tự điển Việt Nam phổ thông 15. Wesbsite: www.Haiphonggov.vn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tự điển Việt Nam phổ thông" 15. Wesbsite
16. Wesbsite: www.goole.com.vn 17. Wesbsite: www.sodulichgov.vn Sách, tạp chí
Tiêu đề: www.goole.com.vn" 17. Wesbsite
2. Hà Văn Tấn - Phạm Thị Tâm, Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông thế kỉ 13 Khác
3. Huyện ủy, UBND huyện Thủy Nguyên - Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội huyện Thủy Nguyên đến năm 2020 Khác
4. Huyện ủy, UBND, phòng giáo dục huyện Thủy Nguyên - Thủy Nguyên quê hương em- NXB Hải Phòng,1998 Khác
5. HĐND thành phố Hải Phòng- Kỷ yếu kỳ họp thứ VI hội đồng nhân dân thành phố Hải Phòng khóa VIII nhiệm kì 2004 – 2009, năm 2006 Khác
7. Ngô Sĩ Liên- Đại Việt sử ký toàn thư II Khác
12. Tổng cục thống kê- Niên giám thống kê Hải Phòng năm 2006 Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w