Đối t-ợng và phạm vi nghiên cứu của khoá luận
- Đối t-ợng nghiên cứu là các điểm di tích thờ t-ớng quân nhà Trần ở huyện Thủy Nguyên với các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể
Khai thác giá trị di tích lịch sử văn hóa là một lĩnh vực rộng lớn, yêu cầu thời gian, công sức, và trình độ nghiên cứu Bài viết này tập trung vào việc tìm hiểu và khai thác giá trị của một số di tích thờ tướng quân nhà Trần, đặc biệt là về văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
Ph-ơng pháp nghiên cứu của khoá luận
Đề tài này thuộc lĩnh vực nghiên cứu Khoa học xã hội và Nhân văn cho nên đ-ợc sử dụng các ph-ơng pháp nghiên cứu sau:
- Ph-ơng pháp nghiên cứu các tài liệu văn bản
Phương pháp phân tích hệ thống được áp dụng để nghiên cứu và đánh giá giá trị văn hóa của các cụm di tích, trong mối liên hệ với môi trường sinh thái, lịch sử hình thành, đời sống văn hóa của cư dân, cũng như các điều kiện lịch sử, văn hóa và kinh tế xã hội của địa phương.
Phương pháp điền dã là hình thức khảo sát trực tiếp các đối tượng nghiên cứu, bao gồm việc tiếp cận các di tích và trao đổi trực tiếp với những người có trách nhiệm hoặc hiểu biết về những di tích này.
- Ph-ơng pháp đối chiếu so sánh để khắc họa những giá trị đặc tr-ng của các di tích này.
Lịch sử nghiên cứu
Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông thế kỉ XIII là những chiến công hiển hách của quân và dân Đại Việt, thể hiện rõ vai trò to lớn của các tướng quân nhà Trần Với hào khí “Đông A”, họ đã làm nên những kỳ tích phi thường, ba lần đánh bại quân xâm lược Nguyên - Mông, bảo vệ giang sơn gấm vóc và lưu giữ những giá trị lịch sử cho dân tộc.
Trên mảnh đất Thủy Nguyên, Hải Phòng, dấu ấn của các tướng quân nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược thế kỷ XIII vẫn còn rõ nét Nhiều tài liệu lịch sử như “Đại Việt sử ký toàn thư” của Ngô Sĩ Liên và “Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII” của Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm đã ghi chép về sự kiện này Mặc dù có nhiều nghiên cứu về các di tích thờ tướng quân nhà Trần ở các vùng khác như Quảng Ninh, Nam Định, nhưng hiện tại chưa có tài liệu nào công bố riêng về các di tích thờ tướng quân nhà Trần tại Thủy Nguyên.
Vấn đề mà tác giả lựa chọn để nghiên cứu là một chủ đề hoàn toàn mới, không trùng lặp với bất kỳ tài liệu nào đã được công bố trước đó.
Đóng góp của khóa luận
- Đóng góp cho bản thân: Là một b-ớc rèn luyện, tập làm khoa học, nghiên cứu tìm hiểu một vấn đề khoa học
Nội dung được thu thập và nghiên cứu sẽ trở thành tài liệu tham khảo hữu ích cho các hướng dẫn viên, những người làm công tác văn hóa, cũng như các nhà kinh doanh du lịch tại Hải Phòng, đặc biệt là khu vực Thủy Nguyên.
Khi vấn đề nghiên cứu được hoàn thiện và chỉnh sửa, nó sẽ trở thành tài liệu giới thiệu quý giá cho các di tích, giúp du khách có cái nhìn sâu sắc hơn khi tham quan và khám phá những điểm di tích này.
Bố cục của khoá luận
Khái niệm về du lịch
Tổ chức Du lịch Thế giới (WTO) định nghĩa du lịch là tổng thể các hiện tượng và mối quan hệ giữa du khách, các nhà kinh doanh, chính quyền địa phương và cộng đồng dân cư trong quá trình thu hút và tiếp đón khách.
Theo PTS Trần Nhạn, du lịch là hoạt động của con người rời khỏi quê hương để khám phá những giá trị vật chất và tinh thần độc đáo, khác lạ Mục đích chính của du lịch không phải là kiếm lợi nhuận mà là trải nghiệm và thẩm nhận những điều mới mẻ.
Pháp luật du lịch Việt Nam định nghĩa rằng du lịch là hoạt động của con người diễn ra ngoài nơi cư trú thường xuyên, nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan, giải trí và nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.
Tài nguyên du lịch
Theo luật du lịch Việt Nam năm 2006, tài nguyên du lịch bao gồm cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử - văn hóa, công trình lao động sáng tạo và các giá trị nhân văn khác Những tài nguyên này có thể được sử dụng để đáp ứng nhu cầu du lịch, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch và đô thị du lịch.
Du lịch là ngành có sự định hướng rõ rệt về tài nguyên, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành vùng du lịch Tài nguyên du lịch, bao gồm số lượng và chất lượng, cùng với mức độ kết hợp các loại tài nguyên, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển du lịch của một khu vực hay quốc gia Những lãnh thổ sở hữu nhiều tài nguyên du lịch đa dạng và chất lượng cao sẽ có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với du khách, từ đó gia tăng khả năng thu hút khách du lịch.
Tài nguyên có ảnh hưởng trực tiếp đến tổ chức lãnh thổ ngành du lịch, góp phần hình thành và chuyên môn hóa các vùng du lịch, đồng thời nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động dịch vụ Bên cạnh đó, tài nguyên du lịch cũng bị chi phối gián tiếp bởi các yếu tố kinh tế - xã hội như phương thức sản xuất, tính chất quan hệ sản xuất, trình độ phát triển kinh tế - xã hội và cấu trúc nhu cầu du lịch.
Tài nguyên du lịch bao gồm các yếu tố tự nhiên và văn hóa - lịch sử đã được biến đổi ở nhiều mức độ khác nhau, chịu ảnh hưởng từ nhu cầu xã hội và khả năng khai thác cho mục đích du lịch.
Tài nguyên du lịch bao gồm tổng thể tự nhiên và văn hóa - lịch sử, đóng vai trò quan trọng trong việc phục hồi và phát triển thể lực, trí lực, khả năng lao động và sức khỏe của con người Khái niệm này là một phạm trù lịch sử, vì nhu cầu và cấu trúc thay đổi liên tục, thu hút các thành phần tự nhiên và văn hóa - lịch sử mới vào hoạt động du lịch Tài nguyên du lịch cũng là một khái niệm động, thay đổi theo sự tiến bộ kỹ thuật và nhu cầu kinh tế Khi đánh giá và xác định hướng khai thác tài nguyên du lịch, cần xem xét những thay đổi trong tương lai về nhu cầu, khả năng kinh tế - kỹ thuật và tính hợp lý trong việc khai thác các loại tài nguyên mới.
Đặc điểm
Khối lượng và diện tích phân bổ của các nguồn tài nguyên là yếu tố quan trọng để xác định khả năng khai thác cũng như tiềm năng của hệ thống lãnh thổ du lịch và nghỉ ngơi.
- Thời gian có thể khai thác các định tính mùa vụ của du lịch, nhịp điệu dòng du lịch
Đa số các loại tài nguyên có tính bất biến về mặt lãnh thổ, tạo ra sức hút cho cơ sở hạ tầng và thu hút dòng du lịch đến những khu vực tập trung các tài nguyên này.
Vốn đầu tư thấp và chi phí sản xuất hạn chế làm cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng diễn ra chậm, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế - xã hội Bên cạnh đó, khả năng sử dụng độc lập từng loại tài nguyên cũng gặp nhiều khó khăn.
Để đảm bảo khả năng sử dụng lâu dài các tài nguyên du lịch, cần tuân thủ các quy định về sử dụng tự nhiên hợp lý và thực hiện các biện pháp bảo vệ cần thiết.
Tài nguyên du lịch nhân văn
Tài nguyên du lịch nhân văn bao gồm các sáng tạo của con người như di tích lịch sử, văn hóa, lễ hội, phong tục tập quán và các công trình hiện đại Những tài nguyên này không chỉ thu hút du khách mà còn mang lại giá trị giải trí và ý nghĩa thiết thực Chúng được khai thác để phục vụ cho sự phát triển của ngành du lịch.
- Là tài nguyên du lịch nhân văn tập trung tại các điểm quần c- ở cả nông thôn và đô thị, cả miền núi và đồng bằng, ven biển, hải đảo
Tham quan và tìm hiểu tài nguyên du lịch nhân văn không chỉ giúp nâng cao nhận thức mà còn mang lại những trải nghiệm giải trí độc đáo và có ý nghĩa sâu sắc.
- Việc tìm hiểu các đối t-ợng nhân tạo đ-ợc diễn ra trong thời gian ngắn
Nó th-ờng kéo dài một vài giờ, cũng có thể một vài phút, thích hợp với loại hình du lịch nhận thức theo lộ trình
- Số ng-ời quan tâm tới tài nguyên du lịch nhân văn th-ờng có trình độ văn hoá cao, thu nhập và yêu cầu th-ởng thức cao
Tài nguyên du lịch nhân văn có ưu thế lớn vì chủ yếu không bị ảnh hưởng bởi mùa vụ, ít phụ thuộc vào điều kiện thời tiết và các yếu tố tự nhiên khác.
- Sở thích của những ng-ời tìm hiểu đến tài nguyên du lịch nhân văn rất phức tạp và rất khác nhau
Tài nguyên du lịch nhân văn tác động theo từng giai đoạn:
Giai đoạn thông tin là thời điểm mà du khách tiếp nhận những kiến thức cơ bản nhất về điểm đến, thông qua các nguồn thông tin như lời kể từ người khác hoặc các phương tiện truyền thông đại chúng Do đó, sự hiểu biết của họ về đối tượng vẫn còn chưa đầy đủ và rõ ràng.
Giai đoạn tiếp xúc là thời điểm mà khách du lịch thường xuyên quan sát bằng mắt các đối tượng xung quanh, mặc dù chỉ là những cái nhìn lướt qua, nhưng vẫn mang tính chất quan sát thực sự.
Trong giai đoạn nhận thức, khách du lịch bắt đầu làm quen một cách cơ bản với đối tượng mà họ quan tâm, đồng thời đi sâu vào nội dung và đặc điểm của nó Thời gian tiếp xúc trong giai đoạn này thường kéo dài hơn, giúp họ hiểu rõ hơn về những gì mình đang khám phá.
Trong giai đoạn đánh giá nhận xét, khách du lịch sử dụng kinh nghiệm sống và nhận thức của bản thân để so sánh đối tượng này với những đối tượng tương tự.
Việc làm quen với tài nguyên du lịch nhân văn thường chỉ dừng lại ở hai giai đoạn đầu Giai đoạn nhận thức và đánh giá nhận xét chủ yếu dành cho du khách có trình độ văn hóa chung và chuyên môn cao.
1.2.3 Phân loại a Tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể
Sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học được bảo tồn qua trí nhớ, chữ viết và truyền miệng, bao gồm tiếng nói, tác phẩm văn học, nghệ thuật, diễn xướng dân gian, lối sống, lễ hội, bí quyết nghề thủ công truyền thống, tri thức y dược cổ truyền, văn hóa ẩm thực, trang phục dân tộc và các tri thức dân gian khác Tài nguyên du lịch nhân văn vật thể cũng đóng vai trò quan trọng trong việc gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa này.
Sản phẩm vật chất mang giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học bao gồm các di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật và bảo vật quốc gia Những sản phẩm này không chỉ là gương mặt của lịch sử mà còn là nhân chứng sống cho các thời đại.
Tài nguyên du lịch nhân văn vật thể ở Việt Nam rất phong phú và đa dạng, mang đậm giá trị lịch sử và văn hóa, gắn liền với sự hình thành và phát triển của đất nước Các di tích bao gồm di tích khảo cổ, di tích kiến trúc nghệ thuật, di tích lịch sử và các công trình hiện đại Trong số đó, các di tích kiến trúc nghệ thuật như chùa, đình, đền, nhà thờ, miếu, nhà cổ, lăng tẩm và cung điện chiếm số lượng lớn, giữ nhiều giá trị lịch sử và văn hóa, đồng thời là những điểm tham quan hấp dẫn cho du khách và nhà nghiên cứu.
Đình làng đóng vai trò quan trọng trong văn hóa làng Việt, được coi là ngôi nhà chung của cộng đồng và biểu tượng cho bản sắc văn hóa Việt Nam Khi nhắc đến làng, người ta thường nghĩ đến cây đa, giếng nước và sân đình Đình đã tồn tại từ lâu, ban đầu chỉ là các quán, miếu ven đường, nhưng đến thế kỷ XVI, đình bắt đầu phát triển mạnh mẽ Thế kỷ XVII đánh dấu thời kỳ đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc đình, thể hiện sự phát triển vượt bậc trong kiến trúc và nghệ thuật dân gian.
Nơi dựng đình th-ờng ở giữa làng, trên một khu đất cao, thế đất đẹp, có long mạch
Về cấu trúc của đình th-ờng có một kiểu kết cấu phổ biến nh- sau:
Kết cấu chữ "Nhất" là kiểu kiến trúc của một toà đình với 5 hoặc 7 gian và 2 chái, thường gặp ở các ngôi đình thờ nhà Mạc Đến thế kỷ XVII, người ta đã đưa Thành Hoàng vào thờ tại đình, từ đó xuất hiện tục thờ hậu thần.
- Cấu trúc chữ “Nhị” gồm có phần đại đình cộng với phần hậu cung
- Cấu trúc chữ “Đinh” hay còn gọi là hình chuôi vồ, bao gồm phần đại đình và phần hậu cung
- Cấu trúc chữ “Công” gồm phần đại đình, hậu cung và toà ống muống nối giữa 2 phần này
Sân đình cách mặt đất 0,6m -0,8m, th-ờng có thứ bậc (Tiền tế, Ph-ơng đình), để quy định thứ bậc ngồi trong đình
Kiến trúc đình không chỉ thể hiện giá trị nghệ thuật điêu khắc vượt trội so với các loại hình kiến trúc khác, mà còn là nguồn tư liệu quý giá cho việc nghiên cứu lịch sử mỹ thuật Việt Nam Nó phản ánh đời sống hàng ngày và tâm hồn của người nông dân Việt Nam.
Điêu khắc ở đình làng qua các triều đại Lê, Trịnh và Nguyễn thể hiện sự đa dạng trong kiến trúc và nghệ thuật Mỗi thời kỳ có những môtíp trang trí đặc trưng, nổi bật nhất là hình con rồng và vị trí của các hoạt cảnh dân gian, phản ánh văn hóa và tín ngưỡng địa phương.
Về chức năng của đình làng gồm có ba chức năng:
- Chức năng tín ng-ỡng: Thờ những ng-ời có công với làng đó là những Thành Hoàng làng bao gồm:
+ Thiên thần: Sau khi hoàn thành nhiệm vụ chống giặc ngoại xâm thì hoá bay về trời nh-: Thánh Tản Viên ( chùa Tây Đằng )
+ Nhân thần: Đ-ợc thờ nhiều nhất trong các đình làng, gồm:
Ng-ời có công khai canh lập làng và những ng-ời có công dạy cho dân làng một nghề nào đó gọi là tổ nghề
Du lịch văn hoá
Văn hóa là hoạt động tự do của con người, chuyển đổi thế giới tự nhiên thành một thế giới thứ hai với cấu trúc cao hơn và dấu ấn của con người Qua quá trình này, con người hình thành nên thiên nhiên bên trong của chính mình, đồng thời thể hiện thái độ và ứng xử với cả thiên nhiên thứ nhất và thứ hai, cũng như với bản thân mình.
Văn hoá là một hình thái xã hội toàn diện gồm ba hình thái: Chuẩn mực, giá trị và biểu t-ợng
Du lịch văn hoá là hình thức du lịch cho phép du khách trải nghiệm và thưởng thức các sản phẩm văn hoá đặc sắc của nhân loại, cũng như của một quốc gia hay một vùng dân cư cụ thể.
Du lịch văn hóa nhằm mục đích nâng cao hiểu biết văn hóa cho cá nhân, thỏa mãn sự tò mò và niềm đam mê khám phá Qua những chuyến đi đến các địa điểm mới, du khách có cơ hội tìm hiểu về lịch sử, cấu trúc kinh tế, thể chế xã hội, phong tục tập quán và tín ngưỡng của cộng đồng địa phương.
Ngày nay, du lịch văn hóa đang trở thành một xu hướng toàn cầu mạnh mẽ, với văn hóa đóng vai trò là động lực cho sự phát triển du lịch bền vững Giá trị văn hóa mang đến sự độc đáo cho sản phẩm du lịch, biến nó thành tài nguyên hấp dẫn Trong khi tài nguyên du lịch tự nhiên thu hút du khách bởi vẻ đẹp hoang sơ và hiếm có, thì tài nguyên du lịch nhân văn lại lôi cuốn nhờ sự phong phú, đa dạng và tính truyền thống Các yếu tố văn hóa và tài nguyên du lịch nhân văn là nền tảng để phát triển các loại hình du lịch văn hóa đa dạng, tạo nên sự khác biệt giữa các địa phương, quốc gia và dân tộc, đồng thời kích thích động cơ và sự hứng thú của du khách trong quá trình lữ hành.
Du lịch văn hoá là hoạt động khám phá những giá trị nhân văn tại các điểm đến, tập trung vào việc khai thác tài nguyên văn hoá trong môi trường du lịch.
1.3.2 Nội dung của sản phẩm du lịch văn hoá
Du lịch văn hóa bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể, và chỉ thực sự mang ý nghĩa khi liên kết với kiến trúc lịch sử và xã hội của các điểm đến Những di tích lịch sử, di chỉ khảo cổ, lễ hội truyền thống, trò chơi dân gian và nghệ thuật ẩm thực địa phương giúp du khách hiểu rõ hơn về cuộc sống đa dạng của từng cộng đồng Đây là tài sản quý giá của mỗi địa phương, dân tộc và quốc gia, đồng thời là bằng chứng xác thực về đặc điểm văn hóa, chứa đựng truyền thống tốt đẹp, trí tuệ, tài năng và giá trị văn hóa nghệ thuật của nhân loại.
Di tích lịch sử văn hóa đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển trí tuệ và tài năng của con người, đồng thời thúc đẩy khoa học nhân văn và lịch sử Chúng là biểu tượng của quá khứ mỗi dân tộc và vùng đất, được hình thành từ những hoạt động sáng tạo của con người Văn hóa trong bối cảnh này bao gồm văn hóa vật chất, xã hội và tinh thần Tại Việt Nam, theo pháp lệnh bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh ban hành ngày 4/4/1984, di tích lịch sử - văn hóa được định nghĩa rõ ràng.
Di tích lịch sử – văn hoá bao gồm các công trình, địa điểm, đồ vật, tài liệu và tác phẩm có giá trị lịch sử, khoa học, nghệ thuật, cũng như các giá trị văn hoá khác Những di tích này thường liên quan đến các sự kiện lịch sử và quá trình phát triển của văn hoá - xã hội.
“ Danh lam thắng cảnh là những khu vực thiên nhiên có cảnh đẹp, hoặc có công trình xây dựng nổi tiếng”
Từ đây có thể rút ra những quy định chung một cách khoa học và hệ thống về di tích lịch sử văn hóa:
+ Di tích lịch sử - văn hoá là những nơi ẩn dấu một bộ phận giá trị văn hoá khảo cổ
+ Những địa điểm khung cảnh, ghi dấu về dân tộc học
+ Những nơi diễn ra những sự kiện chính trị quan trọng có ý nghĩa thúc đẩy lịch sử đất n-ớc, lịch sử địa ph-ơng phát triển
+ Những địa điểm ghi dấu chiến công chống giặc xâm l-ợc, áp bức
+ Những nơi ghi dấu giá trị l-u niệm về nhân vật lịch sử, anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá, khoa học
Các công trình kiến trúc và nghệ thuật có giá trị quốc gia và khu vực, cùng với những danh lam thắng cảnh được thiên nhiên sắp đặt và con người tạo dựng, đều được phân loại là di tích lịch sử - văn hóa.
Di tích lịch sử văn hóa được định nghĩa là những không gian vật chất cụ thể, nơi lưu giữ các giá trị lịch sử đặc trưng, được tạo ra bởi tập thể hoặc cá nhân trong quá trình phát triển của nhân loại.
Mỗi di tích lịch sử - văn hoá chứa đựng nhiều nội dung lịch sử khác nhau Có thể chia thành các loại di tích nh- sau:
Di tích văn hoá khảo cổ, hay còn gọi là di chỉ khảo cổ, là những địa điểm chứa đựng giá trị văn hoá từ thời kỳ lịch sử chưa có văn tự, phản ánh xã hội loài người trong quá khứ Một ví dụ tiêu biểu là di chỉ khảo cổ Tràng Kênh tại Thủy Nguyên, Hải Phòng Phần lớn các di tích này nằm dưới lòng đất, nhưng cũng có những trường hợp tồn tại trên mặt đất như các bức chạm khắc trên vách đá Các di tích văn hoá khảo cổ được chia thành hai loại chính: di chỉ cư trú và di chỉ mộ táng.
Di tích lịch sử văn hóa thường gắn liền với các kiến trúc có giá trị, phản ánh đời sống và sinh hoạt của các dân tộc Chúng ghi dấu các chiến công chống xâm lược, những nơi tưởng niệm nhân vật lịch sử, anh hùng dân tộc và danh nhân văn hóa khoa học Ngoài ra, di tích cũng phản ánh sự vinh quang trong lao động và ghi nhận tội ác của các thế lực đế quốc và phong kiến.
Di tích văn hoá nghệ thuật là những công trình kiến trúc tiêu biểu, mang giá trị nghệ thuật đặc sắc và chứa đựng các giá trị văn hoá xã hội, văn hoá tinh thần Một số ví dụ tiêu biểu bao gồm Văn Miếu Quốc Tử Giám, nhà thờ Phát Diệm, toà thánh Tây Ninh và đình Hàng Kênh - Hải Phòng.
Di tích cách mạng là những dấu ấn lịch sử ghi lại các sự kiện quan trọng trong quá trình phát triển phong trào cách mạng tại địa phương, khu vực hoặc quốc gia, có ảnh hưởng sâu sắc đến sự tiến bộ của lịch sử cách mạng.
Các loại danh lam thắng cảnh được hình thành từ sự sắp đặt của thiên nhiên kết hợp với bàn tay sáng tạo của con người, và chúng được công nhận là một trong những loại hình di tích lịch sử quan trọng.
Một số di tích thờ t-ớng quân nhà Trần ở Thủy Nguyên
Trong lịch sử Việt Nam thời trung đại, vương triều nhà Trần nổi bật với khả năng lãnh đạo xuất sắc, khi chỉ trong 30 năm (1258 - 1288) đã dẫn dắt dân tộc nhỏ bé với dân số chưa đầy 5 triệu người và quân đội khoảng 200.000 quân, liên tiếp đánh bại ba cuộc xâm lược của đế chế Nguyên - Mông hùng mạnh nhất thế giới thời bấy giờ.
Vào thế kỷ XIII, quân Nguyên Mông đã gây ra thảm họa khắp châu Á và châu Âu, nhưng cả ba lần xâm lược Đại Việt đều bị đánh bại Trong những cuộc kháng chiến ác liệt này, sự đoàn kết và tinh thần yêu nước của dân tộc đã được phát huy, cùng với đường lối chiến tranh nhân dân đúng đắn và nghệ thuật quân sự tài giỏi của nhà Trần Vai trò của các vua Trần là rất quan trọng trong việc giành chiến thắng, tạo nên những chiến công hiển hách được ghi danh trong lịch sử.
Các vua Trần đóng vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị và phát động cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, chịu trách nhiệm chính trước toàn thể dân tộc Họ là những người có tiếng nói quyết định trong việc khởi xướng cuộc kháng chiến này.
Trên đất Thuỷ Nguyên, nơi lưu giữ nhiều dấu ấn của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, hiện nay tồn tại nhiều công trình kiến trúc và di tích lịch sử văn hóa thờ các tướng quân nhà Trần.
2.2.1 Di tích t-ởng nhớ t-ớng quân Trần H-ng Đạo
Trần Hưng Đạo là một vị anh hùng dân tộc vĩ đại, nổi bật với vai trò là nhà chính trị và quân sự xuất sắc, có công lớn trong việc chuẩn bị và thực hiện ba cuộc kháng chiến chống lại sự xâm lược của đế chế Nguyên Mông, bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc Đền Trần Hưng Đạo tọa lạc tại cửa sông Bạch Đằng, thuộc Tràng Kênh, thị trấn Minh Đức, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng, nằm bên một nhánh sông Thải và được bao quanh bởi một ngọn núi đá hùng vĩ.
Theo lời kể của người thủ từ ngôi đền, khu vực này không có người sinh sống, chỉ có một miếu nhỏ được xây dựng bởi những người đi thuyền chài trên dòng sông với hy vọng làm ăn thuận lợi và gặp nhiều may mắn Tuy nhiên, họ cũng không rõ thờ cúng ai, chỉ biết rằng đây là một nơi vô cùng linh thiêng.
Kể từ khi nhà máy xi măng Hải Phòng được xây dựng, miếu thờ đã nhiều lần được nâng cấp và tu sửa, trở nên khang trang và sạch đẹp hơn Ông Lê Văn Thành, giám đốc nhà máy, đã tìm hiểu về miếu và thông qua bà Phan Thị Bích Hằng, một nhà ngoại cảm, biết được rằng nơi đây thờ vua Trần Hưng Đạo, người đã từng đánh giặc Nguyên Mông tại đỉnh núi này Vì ý nghĩa lịch sử và linh thiêng của nơi đây, ông đã xin phép xây dựng đền thờ để tưởng niệm vua Trần Hưng Đạo, và sau đó, Ngài đã hiện lên báo mộng cho ông Để thực hiện tâm nguyện này, ông Lê Văn Thành đã đi khảo sát nhiều đền thờ như đền Kiếp Bạc, đền Bảo Lộc và nhà Trần ở Nam Định, ghi lại hình ảnh và mẫu kiến trúc từ mỗi nơi.
Sau khi trở về, ông đã mời bà Phan Thị Bích Hằng đến để thảo luận với Trần Hưng Đạo về việc xây dựng đền tại đây Ngài đã chọn địa điểm này và mọi yếu tố như cấu trúc, hoa văn, bố cục và thiết kế đều được thực hiện theo ý muốn của Trần Hưng Đạo.
Vào ngày 9/9/2008, giám đốc nhà máy xi măng Hải Phòng, ông Lê Văn Thành, đã phát động xây dựng một ngôi đền với sự đóng góp từ toàn thể cán bộ công nhân viên trong nhà máy.
Quá trình xây dựng ngôi đền diễn ra suôn sẻ mà không gặp phải bất kỳ khó khăn nào, có thể là nhờ sự che chở linh thiêng của Ngài Trước đây, khi chỉ là một miếu nhỏ với diện tích 200m², nhưng trong quá trình xây dựng lại, việc bắn mìn phá núi và tân đất lấn sông đã giúp mở rộng diện tích ngôi đền lên tới 4000m².
Nhờ nỗ lực của các nghệ nhân và quá trình xây dựng thuận lợi, ngôi đền “Linh từ Tràng Kênh” đã được khánh thành chỉ sau 99 ngày với chất lượng đảm bảo Dù có kích thước nhỏ, ngôi đền chứa đựng tâm huyết và lòng thành kính của cán bộ công nhân nhà máy xi măng Hải Phòng cũng như nhân dân cả nước.
Ngôi đền có cấu trúc hình chữ Đinh, bao gồm ba gian tiền đường và hai gian hậu cung, nơi thờ tượng Trần Hưng Đạo Tượng nặng 1,2 tấn, được đúc từ đồng nguyên chất và được thiếp bạc, thiếp vàng bên ngoài.
Xung quanh đền đ-ợc bao bọc bởi t-ờng đá đ-ợc chuyển ra từ Ninh Bình và do các nghệ nhân đến từ Ninh Bình thi công
Cổng đền làm theo kiến trúc tam quan, ba tầng toàn bằng đá khối
Toàn bộ gỗ trong đền, các cột đều làm từ gỗ lim do những ng-ời thợ cao tay đến từ Vĩnh Bảo thi công
Toàn bộ án thờ, lọng thờ đều do nghệ nhân đến từ Hà Tây đảm nhận Tất cả đồ chầu, hạc là do thợ Nam Định đúc
Ngôi đền này có một điểm đặc biệt là quá trình xây dựng không dựa vào hạch toán hay dự toán nào, mà chỉ bổ sung thêm khi thiếu Do đó, không rõ tổng kinh phí xây dựng ngôi đền là bao nhiêu Các cán bộ công nhân viên nhà máy đã đóng góp, trong khi ông Lê Văn Thành là người đứng ra tài trợ cho những phần thiếu hụt trong quá trình xây dựng.
* Hàng năm có ba kì lễ hội lớn tại đền Trần H-ng Đạo :
+ Đầu năm : 14 tháng giêng cấp ấn tín
Từ 14-16 tổ chức cúng tế, các khách thập ph-ơng xa gần, công nhân trong công ty tổ chức làm lễ cúng tế
+ Ngày 20/8 là ngày giỗ của Đức Thánh Trần-Trần H-ng Đạo
Vào ngày 14 tháng Chạp, ngôi đền Trần Hưng Đạo sẽ được khánh thành, đánh dấu sự kiện quan trọng trong lễ hội diễn ra từ ngày 14 đến 16 Tại đây, du khách có thể tham gia vào hoạt động xin ấn tín, diễn ra vào ngày mồng một và 15 hàng tháng Ấn tín được đúc từ đền Bảo Lộc ở Nam Định, sau khi được Ngài đồng ý, sẽ được chuyển đến đền Trần Hưng Đạo để phục vụ nhu cầu của người dân.
2.2.2 Di tích T-ởng nhớ T-ớng quân Trần Quốc Bảo
* Vài nét về lịch sử
T-ớng Trần Quốc Bảo thuộc dòng dõi quý tộc triều Trần, cháu gọi vua Trần Nhân Tông bằng ông Trong trận đại chiến Bạch Đằng năm 1288 của quân dân nhà Trần chống giặc Nguyên Mông xâm l-ợc, ông là một trong những vị t-ớng tài giỏi, góp phần quan trọng vào chiến thắng vang dội này Ông đã chiến đấu và anh dũng hi sinh tại vùng đất núi Tràng Kênh - thị trấn Minh Đức - Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Một số lễ hội tiêu biểu t-ởng nhớ t-ớng quân nhà Trần ở Thủy Nguyên
2.3.1 Lễ hội đền Thụ Khê xã Liên Khê
Trúc Động, một vùng quê nằm giữa những ngọn núi hiểm trở và dải đồng bằng, là nơi lưu giữ nhiều giá trị văn hóa phong phú và bản sắc dân gian đặc sắc Khu vực này còn nổi bật với hai địa điểm khảo cổ học nổi tiếng, Tràng Kênh và Việt Khê, có niên đại lịch sử trên 2500 năm, khẳng định vị trí quan trọng của nơi đây trong bức tranh văn hóa và lịch sử.
Lịch trình lễ hội đ-ợc chia làm kì vụ: Xuân-Thu nhị kì, dàn trải đều trong cả tổng xã, hội làng đ-ợc tổ chức khoảng sau tết
Vào ngày 9/1, hội vật truyền thống được tổ chức tại miếu vật thôn Mai Động, thu hút sự tham gia đông đảo của người dân địa phương Bên cạnh các trận vật hấp dẫn, nhiều hoạt động vui chơi mang đậm bản sắc văn hóa thượng võ cũng diễn ra, như chơi đu, chọi gà, đua thuyền và bơi chải trên sông Giá.
Vào ngày 15/3, khu vực Thiểm Khê tổ chức lễ kỷ niệm ba anh em họ Tr-ơng, những người đã giúp Hai Bà Tr-ng trong cuộc kháng chiến chống giặc Trước đây, phần mộ của Ninh V-ơng Mạc Phúc T- và hai thân v-ơng khác được an táng tại cánh đồng Thiểm Khê, nơi dân làng đã lập nghè thờ ba vị anh hùng Sau đó, hài cốt của họ được chuyển về Đồng áng ph-ờng Câu Tử, huyện Thủy Đ-ờng Do đó, vào ngày 8/4, sẽ diễn ra lễ tiễn thuyền tại tả Ba V-ơng.
- Ngày hội 20/8 âm lịch có lễ r-ớc đức thánh Trần từ đền Thụ Khê ra miếu Đức Thánh ở khu vực bến Sỏi
Dân làng Thụ Khê tổ chức thi bơi chải trên sông vào ngày 15/2 hàng năm, nhân dịp lễ giao hiếu với làng Phú Xá (An Hải), nơi cùng thờ Trần Hưng Đạo Hai làng đã duy trì mối quan hệ gắn bó, thường xuyên thăm hỏi và hỗ trợ nhau trong cuộc sống hàng ngày.
Ngoài môn võ vật, hội đua thuyền và đánh đu cũng là những môn thể thao được ưa chuộng, mang tính quần chúng, góp phần làm phong phú nội dung của lễ hội tại địa phương.
Lễ hội đền Thụ Khê diễn ra vào ngày 20/8 âm lịch, nổi bật với việc dâng cỗ trước ban thờ đức Hưng Đạo Đại Vương Mâm cỗ bao gồm rượu và một ít đĩa cá, thể hiện sự mời gọi mọi người tham gia ăn uống, nhằm tái hiện lễ đón chào Trần Quốc Tuấn cùng đoàn quân chiến thắng trở về.
Liên Khê hiện nay là khu di tích và lễ hội quan trọng, lưu giữ nhiều giá trị lịch sử liên quan đến Trần Hưng Đạo và chiến thắng Bạch Đằng năm.
Để nâng cao giá trị văn hóa, bên cạnh việc bảo tồn và phục hồi các di tích, cần chú trọng củng cố các lễ hội truyền thống Nội dung và hành động trong lễ hội cần được nhấn mạnh nhằm tạo ấn tượng sâu sắc với cộng đồng địa phương và du khách từ khắp nơi.
2.3.2 Lễ hội đình Chung Mỹ xã Trung Hà huyện Thuỷ nguyên Đình Chung Mỹ nơi diễn ra nhiều lễ hội cổ truyền đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc tiêu biểu nh- sau:
- Ngày mồng 1 tháng Chạp âm lịch: Lễ tất niên
- Ngày mồng 9 tháng Giêng: ngày thánh hoá
- Ngày 20/8: lễ cơm mới, đồng thời là ngày giỗ thánh phụ - đức Trần H-ng Đạo
Hội làng đ-ợc tổ chức kéo dài từ ngày mồng 9 đến hết ngày 12 tháng Giêng âm lịch hàng năm
Làng có lệ chọn bầu tế đám tr-ởng cho ngày hội mở, và khác với nhiều làng khác, tế đám tr-ởng của đình Chung Mỹ là một chàng trai khoẻ mạnh, đẹp người đẹp nết, 18 tuổi, đến từ một gia đình đa đình Bố mẹ của tế đám tr-ởng phải là những người song toàn, có chức sắc, địa vị và uy tín trong làng Điều kiện bắt buộc là tế đám tr-ởng chưa xây dựng gia đình và không có tang trở.
Hàng năm, vào ngày mồng 1 tháng Chạp, làng tổ chức bầu người tế đảm trưởng mới Sau đó, vào ngày mồng 4 tháng Giêng, người tế đảm trưởng mới sẽ nhận đồ tế tự từ người tế đảm trưởng cũ và thực hiện lễ rước về nhà mình.
Vào ngày hội mồng 8 tháng Giêng, dân làng tổ chức lễ rước trưởng, đưa đồ tế khí từ nhà tế đám trưởng gia đình đến nơi yên vị, sau khi thực hiện lễ tắm mục dục cho thần vi Thành Hoàng.
Vào sáng mồng 9, lễ rước thần vi thánh được tổ chức tại miếu Chung Mỹ ở đầu làng, hiện nay là trường học phổ thông của xã, với nghi lễ tế yên Sự kiện này luôn thu hút đông đảo người dân địa phương và du khách từ khắp nơi đến tham gia.
Miếu Chung Mỹ là một kiến trúc lớn, nổi bật không kém gì đình làng, với nhiều tòa nhà ngang dọc Trước cổng miếu có bia “Hạ Mã”, thể hiện sự linh thiêng của nơi đây Trong những năm hạn hán kéo dài, miếu thường tổ chức các buổi cầu đảo, được truyền tụng là rất linh ứng.
Trong các ngày mồng 9, 10, 11, 12, lễ tế thánh được tổ chức một lần Đồ cúng thường bao gồm lợn ông bồ, bánh lòng, bánh giày, gà, và rượu, do các giáp đóng góp hoặc từ lễ dâng của các gia đình.
Giá trị của các di tích và lễ hội
Thuỷ Nguyên, huyện có truyền thống lịch sử văn hoá phong phú nhất Hải Phòng, là nơi ghi dấu những chiến công lẫy lừng của dân tộc như Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán năm 938, Lê Đại Hành chiến thắng quân Tống năm 981 và Trần Hưng Đạo đánh bại quân Nguyên Mông năm 1288 Là cửa ngõ ra vào vùng biển Đông Bắc, Thuỷ Nguyên cũng chứng kiến nhiều cuộc khởi nghĩa chống triều đình và nội chiến thời phong kiến Lịch sử nơi đây không chỉ là quá trình khai hoang lấn biển mà còn là cuộc chiến đấu kiên cường để gìn giữ và xây dựng mảnh đất thiêng liêng này.
Tham quan các di tích và lễ hội tại Thủy Nguyên giúp du khách hiểu rõ quá trình cư dân khai phá, mở rộng đất đai và giữ gìn bờ cõi đất nước Đây là một hành trình dài, đòi hỏi sự đoàn kết của các thế hệ cư dân để vượt qua những khó khăn do thời tiết khắc nghiệt và các cuộc xâm lấn từ giặc biển, phong kiến phương Bắc Từ đó, những xóm làng đông đúc, trù phú đã hình thành trên vùng đất tiền tiêu của tổ quốc Thủy Nguyên, với nền kinh tế biển phát triển, đã tạo nên hệ thống di tích phục vụ cho sinh hoạt cộng đồng, tâm linh và tổ chức lễ hội, đặc biệt là những ngày kỷ niệm chiến công của các vị tướng Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Bảo và các bậc tiền nhân.
Trong suốt lịch sử, người dân Thủy Nguyên đã có những đóng góp quan trọng trong việc bảo vệ vùng đất Đông Bắc của Tổ quốc trước kẻ thù xâm lăng Họ đã thể hiện ý chí kiên cường và lòng dũng cảm, tạo nên những chiến thắng vang dội trong lịch sử dân tộc Chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 của vua tôi nhà Trần là một minh chứng tiêu biểu, để lại bài học lịch sử quý giá, góp phần giáo dục lòng yêu quê hương đất nước cho các thế hệ người Việt Nam, đặc biệt là người dân Thủy Nguyên.
Qua các di tích vật thể còn lại, vùng đất Thủy Nguyên hiện lên như một chứng tích của nền kinh tế phát triển và sự trù phú Những dấu tích lịch sử cho thấy thời kỳ đất nước bình yên, nơi người dân đã xây dựng và tu bổ đình chùa, từ đường, miếu mạo để hội họp và tưởng nhớ các anh hùng dân tộc cùng những vị khai canh, khai cơ đã góp phần hình thành vùng đất này.
Lịch sử Thuỷ Nguyên cho thấy vùng đất này đã có hoạt động cộng đồng từ rất sớm Trước những điều kiện khí hậu khắc nghiệt, cư dân nơi đây cần có sự đoàn kết cao để chống lại thiên nhiên và giặc ngoại xâm Tính cộng đồng được thể hiện rõ qua các di tích và lễ hội, những biểu tượng cho khát vọng chung về một cuộc sống ổn định và trù phú.
Người dân nơi đây coi di tích là biểu tượng thiêng liêng nhất của cộng đồng, cho thấy tầm quan trọng của việc xây dựng và bảo tồn chúng Việc xây dựng các di tích cần có sự đóng góp lớn về sức người và tài nguyên Nếu không có ý thức cộng đồng, việc tạo ra và duy trì các di tích sẽ trở nên khó khăn hơn rất nhiều Do đó, việc bảo quản, tu bổ và giữ gìn di tích đòi hỏi sự chung sức và cam kết từ tất cả mọi người trong cộng đồng.
Các di tích lễ hội trong cộng đồng làng xã không chỉ là môi trường văn hóa mà còn là nơi giáo dục các thế hệ, truyền lại giá trị văn hóa từ xa xưa Hoạt động lễ hội gắn kết các thành viên trong cộng đồng, tạo sự thống nhất văn hóa giữa các thế hệ Thuỷ Nguyên có lợi thế đặc biệt về con người, khi mỗi người dân từ nhỏ đã được “tắm mình” trong các lễ hội của dòng họ và làng xã, khiến họ tham gia lễ hội một cách tự nhiên và tự nguyện Các nghi thức tế lễ được thực hiện thuần thục, do đó, việc huy động lực lượng tham gia lễ hội không phải là vấn đề đối với ban tổ chức, thể hiện tinh thần cộng đồng cao của người dân Thuỷ Nguyên.
Lễ hội truyền thống mang đậm tính cộng đồng, thể hiện sự gắn kết mạnh mẽ giữa các thành viên trong làng Trong những ngày lễ, mọi người cùng nhau chuẩn bị và tham gia, tạo nên không khí đoàn kết và sự hòa nhập Đây chính là minh chứng rõ nét cho ý thức cộng đồng trong văn hóa dân gian.
Lễ hội mang lại sự bình đẳng cho mọi người, không phân biệt đẳng cấp hay địa vị Từ vua quan đến người dân, tất cả đều tham gia và hưởng thụ như nhau, thể hiện sự công bằng trong cộng đồng và trước thần linh.
Lễ hội đóng vai trò quan trọng trong việc gắn kết con người, tạo nên một cộng đồng vững mạnh và đầy sức sống Có thể coi lễ hội như một cuộc sống thứ hai bên cạnh cuộc sống thực tại.
Cùng với sự phát triển kinh tế, yếu tố tâm linh trong đời sống con người ngày càng được coi trọng Tại Thuỷ Nguyên, đời sống tâm linh chủ yếu dựa vào tín ngưỡng Phật giáo, Nho giáo và đặc biệt là tín ngưỡng thờ thành hoàng làng Là những người nông dân, cư dân nơi đây mang đậm dấu ấn của tín ngưỡng đa thần, thể hiện nhu cầu tìm kiếm sự che chở từ các vị thần trước điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt Sự phong phú của các vị thần phản ánh sự giao thoa văn hóa của người dân Thuỷ Nguyên trong quá trình phát triển, từ các thần bản địa đến tôn giáo ngoại lai, từ các vị khai hoang cho đến những anh hùng dân tộc, tất cả đều được tôn kính.
Di tích lễ hội, đặc biệt là các di tích thờ tướng quân nhà Trần ở Thủy Nguyên, được gìn giữ qua nhiều thế hệ, là minh chứng cho sức sống mãnh liệt của dân tộc trong đời sống hàng ngày của người dân địa phương Điều này thể hiện sự giáo dục ý thức cộng đồng sâu sắc của các thế hệ cư dân Thủy Nguyên Người dân nơi đây, từ khi sinh ra cho đến lúc qua đời, luôn mang trong mình lòng quý trọng thần linh và tôn thờ các vị anh hùng dân tộc, tạo nên nét đẹp văn hóa tâm linh đặc sắc của cộng đồng.
Di tích lễ hội là sản phẩm lịch sử, phản ánh sinh động các sự kiện hào hùng qua nhiều thế hệ Dù cuộc sống con người thay đổi, những di tích lễ hội vẫn giữ nguyên giá trị tâm linh và văn hoá Giá trị của chúng được coi là lý tưởng cuộc sống mà các thế hệ hướng tới, và qua thời gian, chúng trở thành phong tục truyền thống, thể hiện bản sắc văn hoá của cộng đồng Đây là cầu nối giao lưu văn hoá giữa các vùng miền và dân tộc trong cả nước.
Thực trạng hoạt động du lịch tại các di tích
2.5.1 Thực trạng hoạt động du lịch
Du khách tham quan các di tích thờ tướng quân nhà Trần không chỉ cảm nhận giá trị kiến trúc lịch sử mà còn hiểu được các giá trị tinh thần qua lễ hội và trò chơi dân gian Hàng năm, từ mồng 6 tháng 1 đến mồng 9 tháng 3 âm lịch, các di tích tổ chức lễ hội với quy mô khác nhau, trong đó lễ hội đền Trần Quốc Bảo ở Tràng Kênh Minh Đức là một trong những lễ hội lớn nhất.
Lễ hội Trần Quốc Bảo diễn ra tại đền Trần Quốc Bảo, đền Trần Hưng Đạo và mở rộng đến các đình Chung Mỹ, miếu Phả Lễ, đền Vũ Nguyên Kể từ năm 2009, lễ hội đã có nhiều đổi mới với quy mô lớn hơn và các nghi lễ rước tượng, lễ khai mạc ngày càng trang trọng, nhằm tái hiện không khí "Sát thát" vang dậy núi sông, khiến kẻ thù khiếp sợ Ngoài ra, lễ hội còn tổ chức nhiều hoạt động thể thao và văn hóa như biểu diễn nghệ thuật, triển lãm tranh, kéo co, chơi đu, và chọi gà, nhằm ôn lại chiến công của tổ tiên trong trận Bạch Đằng thế kỷ XIII Hàng năm, lễ hội thu hút đông đảo du khách tham gia và cổ vũ.
Ngành du lịch huyện Thuỷ Nguyên có nhiều tiềm năng nhưng vẫn chưa được khai thác triệt để, thiếu nghiên cứu chi tiết Hoạt động du lịch mang lại nguồn thu nhập cho người dân, góp phần cải thiện đời sống Tuy nhiên, mặt trái của du lịch cũng xuất hiện, bao gồm tình trạng giá cả tăng cao, buôn bán cổ vật và các tệ nạn xã hội.
Để phát triển du lịch bền vững, các cấp chính quyền và ngành du lịch cần có định hướng rõ ràng, tìm ra phương pháp ổn định và hiệu quả Đồng thời, cần thiết phải có biện pháp kịp thời để ngăn chặn các tệ nạn xã hội, nhằm bảo tồn bản sắc văn hóa địa phương.
2.5.2 Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch
Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật trong kinh doanh du lịch, bao gồm cơ sở lưu trú, ăn uống, phương tiện vận chuyển và các hoạt động giải trí, đóng vai trò quan trọng trong hoạt động du lịch Việc đánh giá khả năng cung ứng sản phẩm du lịch tại các khu lưu trú, nhà hàng và khách sạn là cần thiết để xác định xem chất lượng sản phẩm du lịch có đáp ứng nhu cầu của khách du lịch hay không.
Các phòng nghỉ tại Thuỷ Nguyên hiện nay đều được trang bị đồng bộ, với khả năng phục vụ ăn uống tại chỗ cho du khách Khu vực này có hơn 20 nhà hàng tập trung ở Thị trấn Núi Đèo, Thị trấn Minh Đức và một số khu vực khác Huyện đang đầu tư xây dựng trung tâm thương mại, siêu thị và khách sạn tại Thị trấn Núi Đèo.
Huyện hiện nay đã cung cấp một số lượng đáng kể xe ô tô từ 4 đến 45 chỗ ngồi phục vụ cho việc vận chuyển khách du lịch, trong đó nhiều xe có chất lượng cao.
Cơ sở hạ tầng du lịch tại Thủy Nguyên là yếu tố quyết định cho sự phát triển của các doanh nghiệp trong lĩnh vực này Tuy nhiên, hệ thống giao thông đến nhiều điểm du lịch vẫn gặp khó khăn, và cơ sở lưu trú cùng nhà hàng phục vụ ăn uống hiện chỉ đáp ứng được nhu cầu cơ bản của du khách.
2.5.3 Công tác quản lí và tổ chức khai thác
Huyện Thủy Nguyên sở hữu tài nguyên du lịch phong phú và đặc sắc, nhưng nhận thức của chính quyền và người dân địa phương về việc khai thác giá trị du lịch vẫn còn hạn chế Việc chưa có quy hoạch tổng thể đã dẫn đến tình trạng khai thác tùy tiện, thiếu định hướng hợp lý và hiệu quả cho các di tích.
Tại các di tích, người dân địa phương tự huy động kinh phí để sửa chữa và tu bổ, nhưng không tuân thủ đúng các văn bản hướng dẫn, dẫn đến việc tu bổ mang tính tự phát và thiếu sự giám sát của cơ quan quản lý chuyên ngành Sự tự giác này đã làm phá vỡ nguyên gốc của di tích Hơn nữa, việc tu bổ các di tích lịch sử văn hóa thường do một số nhà thầu chủ trì, mời cá nhân đứng ra tu tạo, dẫn đến nhiều quyết định mang tính chủ quan và làm hỏng một số kiến trúc có giá trị vì họ không hiểu hết giá trị đích thực của chúng.
Việc khai thác di tích lịch sử văn hóa cho du lịch tại huyện Thủy Nguyên hiện còn mang tính tự phát, quy mô nhỏ và hiệu quả chưa cao, dẫn đến lãng phí tài nguyên Các doanh nghiệp trong tỉnh chưa tích cực đưa di tích lịch sử vào tour tham quan, và sự kết nối với các hoạt động khác còn yếu Huyện Thủy Nguyên chưa có trung tâm lữ hành, khiến cho các chương trình du lịch chủ yếu tập trung vào việc khai thác tiềm năng du lịch địa phương, từ đó tăng lượng khách đến các di tích văn hóa.
Mặc dù Thuỷ Nguyên sở hữu nhiều tiềm năng phát triển du lịch, công tác quản lý và bảo vệ các di tích lịch sử văn hóa chưa được chú trọng, dẫn đến tình trạng xuống cấp và bỏ hoang của nhiều điểm du lịch Quản lý nhà nước về du lịch tại huyện còn hạn chế, với nhiều vấn đề bất cập, thiếu cán bộ chuyên ngành có kiến thức sâu sắc về lĩnh vực này.
Các lễ hội ở Thủy Nguyên phản ánh nét đẹp văn hóa dân gian truyền thống của vùng quê Bắc Bộ, với cả phần nghi lễ và phần hội đều thể hiện bản sắc văn hóa sâu sắc Tuy nhiên, sự phát triển của nền kinh tế thị trường và giao lưu văn hóa với nước ngoài trong những năm gần đây đã dẫn đến sự biến dạng và lai căng của nhiều lễ hội, khiến một số nghi thức trong phần hội bị mai một, làm giảm giá trị nhân văn vốn có của chúng.
2.5.4 Môi tr-ờng tự nhiên và môi tr-ờng xã hội của các điểm di tích
Các di tích thờ tướng quân nhà Trần đang bị xuống cấp do tác động của môi trường và thiên nhiên Hoạt động du lịch vào mùa cao điểm diễn ra ồ ạt, gây suy thoái môi trường Tại các lễ hội, lượng khách đông đúc dẫn đến hiện tượng xả rác bừa bãi, gây ô nhiễm và làm mất đi cảnh quan thoáng mát, trong lành Hơn nữa, một số du khách còn viết vẽ lên tường di tích, làm giảm giá trị thẩm mỹ của những nơi này.
Mặc dù chính quyền và người dân địa phương đã nâng cao nhận thức về vai trò của du lịch trong phát triển kinh tế - xã hội, nhưng thực tế cho thấy nhận thức này vẫn còn hạn chế Người dân tại các vùng trọng điểm du lịch chưa thực sự chú trọng đến việc bảo vệ tài nguyên, dẫn đến việc chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển du lịch tương xứng với giá trị vốn có của nó.
Giải pháp tăng c-ờng công tác quảng bá, xúc tiến về du lịch
Quảng cáo đóng vai trò quan trọng trong phát triển du lịch, là công cụ marketing hiệu quả giúp khách du lịch biết đến sản phẩm du lịch của địa phương, từ đó thu hút khách và nâng cao khả năng cạnh tranh Việc cung cấp thông tin về các chương trình và tour du lịch mới cho khách nội thành là cần thiết để kích thích nhu cầu du lịch Tuy nhiên, lượng thông tin về Thủy Nguyên hiện nay còn hạn chế, nhiều người dân chưa biết đến khu vực này Do đó, công tác tuyên truyền và quảng bá du lịch cần được ưu tiên hàng đầu để nâng cao hình ảnh du lịch của Thủy Nguyên Cần áp dụng đa dạng hình thức tiếp thị như quảng cáo trên các phương tiện truyền thông, phóng sự, phim tài liệu và trang web của thành phố để tạo ấn tượng mạnh mẽ Đồng thời, biên soạn và phát hành ấn phẩm chất lượng về du lịch cũng rất quan trọng, giúp cung cấp thông tin chính xác về con người, cảnh quan, tài nguyên du lịch, địa điểm lưu trú và các dịch vụ ăn uống, vui chơi giải trí Hình thức này không chỉ đơn giản mà còn hiệu quả, giúp truyền tải thông tin đến đúng đối tượng khách hàng mà du lịch muốn tiếp cận.
Để thu hút du khách, huyện Thuỷ Nguyên cần xây dựng một slogan hấp dẫn cho sản phẩm du lịch của mình, nhằm thể hiện sự độc đáo của địa phương Huyện có thể áp dụng chiến lược quảng cáo như Đồ Sơn, bằng cách gắn slogan trên xe buýt và treo áp phích dọc các tuyến đường Việc tăng cường tuyên truyền và quảng bá du lịch cần sự hỗ trợ từ chính phủ và địa phương về cơ chế chính sách và ngân sách để thành lập các văn phòng xúc tiến du lịch Sau đó, các tour và chương trình du lịch sẽ được đưa đến các đại lý lữ hành và kênh phân phối để giới thiệu và chào bán, giúp tiết kiệm chi phí quảng cáo và thu hút lượng khách lớn.
Cần tận dụng cơ hội để tổ chức và tham gia các sự kiện văn hóa, thể thao, hội chợ ẩm thực, hội chợ hàng thủ công mỹ nghệ, triển lãm, biểu diễn nghệ thuật và các lễ kỷ niệm trọng đại Đồng thời, cũng nên tham gia các hội nghị, hội thảo và diễn đàn về du lịch nhằm quảng bá hình ảnh du lịch của huyện.
Lập website và phát hành các ấn phẩm văn hóa như đĩa CD để giới thiệu danh lam thắng cảnh, con người và các khu du lịch của huyện tới du khách Khuyến khích các tổ chức và cá nhân thành lập công ty, đại lý lữ hành tại địa phương nhằm nghiên cứu thị trường du lịch, tìm kiếm nguồn khách và thiết lập các tour du lịch độc đáo dựa trên tài nguyên sẵn có của huyện.
Giải pháp duy trì và tổ chức các lễ hội truyền thống
Lễ hội nh- là cuộc sống thứ hai của con người, kết hợp yếu tố tâm linh và sinh hoạt cộng đồng, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc Việc tổ chức lễ hội cần bảo tồn và phát huy những giá trị tích cực, đặc biệt là lễ hội truyền thống, vì chúng là phần quan trọng của di sản văn hóa.
Cần phải duy trì các lễ hội truyền thống hàng năm của địa ph-ơng nh-:
Lễ hội Hang L-ơng, lễ hội đình Chung Mỹ và lễ hội Trần Quốc Bảo được tổ chức vào ngày 6 và 7 tháng Giêng âm lịch hàng năm, nhằm tưởng nhớ công lao của anh hùng dân tộc Trần Quốc Bảo trong cuộc chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông thế kỷ 13 Đây là một lễ hội độc đáo, thu hút sự tham gia đông đảo của quần chúng nhân dân.
Tổ chức lễ hội cần xác định rõ mục đích, yêu cầu, nội dung và diễn trình, bao gồm các nghi thức truyền thống kết hợp với các cuộc thi và trò chơi để du khách dễ dàng tham gia Nên sưu tầm và nghiên cứu những nét độc đáo của các lễ hội khác nhằm tạo ra sự mới mẻ, đồng thời vẫn giữ được bản sắc truyền thống, từ đó thu hút khách tham quan.
Để duy trì lễ hội phục vụ du lịch hiệu quả, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành và các nhà nghiên cứu Việc này giúp tránh tình trạng hỗn loạn và pha tạp, đồng thời tạo ra định hướng rõ ràng và khả năng kiểm soát tốt hơn.
Lễ hội Thuỷ Nguyên là một biểu tượng văn hóa độc đáo, nếu được tổ chức quy mô lớn và quảng bá rộng rãi, chắc chắn sẽ thu hút nhiều du khách.
Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực
Hiện nay, nguồn lao động trong lĩnh vực du lịch ở Thuỷ Nguyên chủ yếu là lao động phổ thông, với tỉ lệ lao động qua đào tạo còn thấp và nghiệp vụ du lịch yếu Để phát triển nguồn nhân lực du lịch trong những năm tới, huyện cần thường xuyên điều tra, đánh giá và phân loại trình độ nghiệp vụ của toàn bộ cán bộ nhân viên trong ngành Dựa trên kết quả điều tra, cần xây dựng kế hoạch đào tạo cụ thể cho các cấp độ và chuyên ngành khác nhau để phù hợp với nhu cầu phát triển.
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong ngành du lịch, cần tổ chức đào tạo và đào tạo lại cán bộ công nhân viên qua nhiều hình thức như tại chỗ, gửi đến các trường dạy nghề, và tổ chức các khóa học ngắn hạn, dài hạn Đồng thời, các hội thảo và cuộc thi chuyên môn cũng cần được tổ chức để trao đổi kinh nghiệm và nâng cao chuyên môn Kế hoạch đào tạo cần xác định rõ yêu cầu về kỹ năng giao tiếp, phục vụ, trình độ ngoại ngữ, và thái độ làm việc thân thiện, cởi mở, cùng với việc bảo vệ môi trường và trân trọng giá trị truyền thống Huyện cần thực hiện chính sách tuyển dụng nghiêm túc, trẻ hóa đội ngũ lao động, ưu tiên sử dụng người đã qua đào tạo và có chế độ đãi ngộ khen thưởng cho những nhân viên hoàn thành tốt công việc.
Để phát triển du lịch bền vững, cần thu hút cộng đồng địa phương tham gia vào các hoạt động như kinh doanh ăn uống, lưu trú và bán hàng lưu niệm Việc áp dụng các cơ chế chính sách ưu tiên, cùng với tuyển mộ và đào tạo lao động địa phương cho ngành du lịch, là nguyên tắc quan trọng trong chiến lược phát triển này.
3.5 Bảo vệ tài nguyên môi tr-ờng tự nhiên, bảo tồn tôn tạo các di tích lịch sử văn hoá, lễ hội
Bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên văn hóa xã hội là yếu tố then chốt để phát triển du lịch lâu dài Để đạt được mục tiêu này, du lịch Thủy Nguyên cần triển khai các biện pháp cụ thể trong thời gian tới.
Phát triển du lịch thân thiện với môi trường, bao gồm du lịch sinh thái, tham quan và tour du lịch đồng quê, là rất quan trọng Các điểm du lịch cần tích cực tham gia vào việc nâng cao nhận thức của du khách về vai trò và trách nhiệm bảo vệ môi trường thông qua việc cung cấp tờ rơi, đặt thùng rác và nhắc nhở từ hướng dẫn viên Chính quyền địa phương cần quản lý chặt chẽ các dự án du lịch, yêu cầu cam kết đánh giá tác động môi trường và thực hiện các biện pháp bảo vệ Thường xuyên điều tra tài nguyên môi trường và đánh giá tác động của các hoạt động du lịch là cần thiết để xử lý kịp thời các sự cố Đồng thời, cần áp dụng nghiêm ngặt luật môi trường và sử dụng các công cụ tài chính như phí môi trường và thưởng phạt để tái đầu tư cho bảo vệ môi trường, bao gồm trồng cây xanh giảm bụi và tiếng ồn ở các khu vực đông đúc.
Việc khai thác bừa bãi hệ thống núi đá vôi ở Tràng Kênh, Lại Xuân là hành vi bị nghiêm cấm, vì nó không chỉ ảnh hưởng đến các điểm thắng cảnh và hang động mà còn gây ô nhiễm môi trường không khí do bụi và tiếng ồn.
Khuyến khích sự tham gia của cộng đồng địa phương trong hoạt động du lịch, như kinh doanh khách sạn, hướng dẫn khách du lịch và quản lý dịch vụ du lịch, không chỉ giúp người dân tăng thu nhập mà còn cải thiện đời sống Họ sẽ sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ làm đồ lưu niệm, từ đó nâng cao trách nhiệm bảo vệ tài nguyên và môi trường du lịch Sự tham gia của người dân địa phương là yếu tố quan trọng trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, góp phần vào sự phát triển bền vững của ngành du lịch.
Để bảo đảm sự đa dạng sinh học và bảo vệ tài nguyên rừng, cần phủ xanh đất trống đồi trọc, tạo không gian cho du lịch cắm trại và dã ngoại, đồng thời giữ gìn nét tự nhiên của các danh thắng Tuy nhiên, việc quản lý và khai thác các di tích lịch sử văn hóa tại Thủy Nguyên còn thiếu hợp lý, do phần lớn các điểm di tích được giao cho xã, thôn quản lý mà không có đủ kinh phí tu bổ Nhiều di tích bị xuống cấp, trong khi những điểm được trùng tu lại thiếu bảo tồn giá trị kiến trúc truyền thống, dẫn đến việc mất đi tính thẩm mỹ và sự hấp dẫn đối với du khách Do đó, địa phương cần xây dựng kế hoạch quản lý và đầu tư hợp lý, thành lập các ban quản lý tại các di tích, đồng thời tham khảo ý kiến chuyên gia trong kiến trúc và lịch sử để hạn chế bê tông hóa, giữ nguyên nền cũ và sử dụng vật liệu truyền thống như gạch Bát Tràng, đá ong và cột gỗ.
Cần thực hiện biện pháp khai thác hợp lý các khu di tích, đảm bảo việc khai thác gắn liền với bảo tồn Cần nghiêm cấm các hành vi xâm hại đến di tích và danh thắng, hạn chế việc thắp hương, và cấm sờ tay vào hiện vật cũng như viết vẽ lên di tích.
Việc bảo vệ các tài nguyên nhân văn phi vật thể như lễ hội và bản sắc dân tộc là rất quan trọng, cần loại bỏ các hoạt động mê tín dị đoan như bói toán và yểm bùa Bảo tồn và gìn giữ các sinh hoạt văn hóa, trò chơi trong phần hội là cần thiết, vì chúng là linh hồn của lễ hội truyền thống; nếu mất đi, lễ hội sẽ trở nên đơn điệu và kém hấp dẫn Phòng văn hóa huyện cần phối hợp với các ban ngành liên quan để khôi phục hội mở mặt ở Phục Lễ thông qua việc tái hiện các lễ hội dân gian trong vùng Đối với các hình thức nghệ thuật dân gian như hát đúm và ca trù, cần có biện pháp bảo tồn bằng cách truyền dạy cho thế hệ trẻ thông qua các câu lạc bộ Ngoài ra, để khai thác tốt hơn cho hoạt động du lịch, có thể sân khấu hóa các chương trình biểu diễn phục vụ du khách tại các điểm du lịch.
Các làng nghề truyền thống ở Thủy Nguyên đang đối mặt với nguy cơ thất truyền, do đó cần khôi phục và phát triển các làng nghề theo hướng phù hợp với thị trường nhưng vẫn giữ gìn nét đặc sắc của địa phương Việc sản xuất hàng loạt cần tránh làm mất đi tinh túy và giá trị truyền thống của sản phẩm Để thực hiện điều này, chính quyền địa phương cần quan tâm hỗ trợ vốn, nghiên cứu tài liệu về làng nghề và đề ra các hướng khôi phục nghề cho người dân Cần tổ chức các cuộc thi tay nghề cho nghệ nhân và lớp dạy nghề để truyền đạt kinh nghiệm Đồng thời, giúp người dân giới thiệu và bán sản phẩm du lịch thông qua các hội chợ thủ công mỹ nghệ và gian trưng bày tại các điểm du lịch.
3.6 Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch
Hiện nay, các cơ sở lưu trú tại huyện chủ yếu là khách sạn và nhà nghỉ, tập trung tại khu vực thị trấn trung tâm, trong khi các điểm thắng cảnh và khu du lịch vẫn còn thiếu hụt Để đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách, cần thiết phải đa dạng hóa các loại hình lưu trú như làng du lịch, biệt thự du lịch, bungalow, nhà vườn, phòng trọ và lều trại.
Khi xây dựng các cơ sở lưu trú, cần chú trọng kết hợp yếu tố truyền thống và hiện đại để bảo tồn bản sắc văn hóa nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ Việc này không chỉ giúp tạo ra những không gian nghỉ dưỡng độc đáo mà còn giữ gìn phần hồn văn hóa địa phương, mang đến trải nghiệm chân thực cho du khách.
Khuyến khích sử dụng vật liệu truyền thống như gỗ, tre và mái lá trong xây dựng, đồng thời đảm bảo sự hài hòa với nội thất bên trong Điều này sẽ tạo nên sự khác biệt so với các khách sạn hiện đại trong thành phố, giúp du khách trải nghiệm nét độc đáo của du lịch Thuỷ Nguyên.
Có thể xây dựng những biệt thự nhỏ tiện nghi giữa cây xanh và vườn cây trái ven sông, đáp ứng nhu cầu của du khách cao cấp Thuỷ Nguyên sở hữu diện tích đồi lớn và bề mặt tương đối bằng phẳng, tạo điều kiện lý tưởng cho hình thức lưu trú cắm trại Khách có thể thuê trang thiết bị cần thiết để dựng trại qua đêm, trong khi các cơ sở lưu trú chỉ cần chuẩn bị mặt bằng giữa thiên nhiên tươi đẹp Hình thức kinh doanh này đơn giản, vốn đầu tư thấp và thân thiện với môi trường, không làm phá vỡ cảnh quan.
Giải pháp về phát triển cơ sở hạ tầng
Hiện nay, hệ thống giao thông đường bộ và đường thủy tại huyện Thủy Nguyên đã tương đối hợp lý, nhưng để phát triển du lịch hiệu quả hơn trong những năm tới, cần nâng cấp và mở rộng một số tuyến đường tỉnh lộ, huyện lộ và đường liên xã Cụ thể, cần nâng cấp tuyến đường 352 và 351 đạt tiêu chuẩn đường cấp III với bề rộng trên 12 mét, mở rộng các tuyến đường cấp huyện đạt tiêu chuẩn bề mặt từ 6-9 mét, và cải thiện tuyến đường Lại Xuân – Lưu Kiếm, Minh Đức – Gia Minh hiện đang xuống cấp.
Nhanh chóng triển khai và hoàn thiện các dự án giao thông nhằm phát triển mạng lưới giao thông huyện, bao gồm xây dựng cầu Dinh tại Kinh Môn (Hải Dương), đường bao phía Bắc sông Cấm, tuyến đường từ cảng cá Mắt Rồng đến đường 10 cũ vào khu công nghiệp Minh Đức, và xây dựng cầu thay thế phà Đụn hiện tại.
Việc mở rộng bến xe tại các khu vực như thị trấn Minh Đức, Núi Đèo, Kênh Giang, Bến Bính, Phà Rừng và Quảng Thanh sẽ tạo ra những đầu mối trung chuyển hành khách quan trọng, giúp giải quyết tình trạng bến đỗ cho các phương tiện vận chuyển.
Lập các dự án xây dựng tuyến đường bờ Bắc sông và bờ Nam hồ sông Giá, cùng với tuyến đường lên núi Sơn Đào, là những điểm nhấn quan trọng của huyện Để phát triển giao thông, Thuỷ Nguyên cần chú trọng hơn đến giao thông đường thủy bằng cách nạo vét các luồng lạch, đảm bảo tàu thuyền di chuyển thuận lợi Hiện tại, các bến bãi và cầu cảng phục vụ cả nguyên vật liệu và khách du lịch đang ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ du lịch Do đó, việc xây dựng mới các bến tàu thuyền và cảng chuyên phục vụ khách du lịch tham gia các tour du lịch đường sông là rất cần thiết.
Trong tương lai, khi tuyến đường sắt Hải Phòng - Minh Đức - Bến Rừng hoàn thành, khách du lịch nội thành sẽ có cơ hội tiếp cận Thủy Nguyên bằng phương tiện vận chuyển mới, nâng cao trải nghiệm du lịch.
Để nâng cao chất lượng hạ tầng giao thông, huyện cần chú trọng cải thiện số lượng và chất lượng các phương tiện vận chuyển.
Ngành du lịch đường sông của Thuỷ Nguyên đang gặp hạn chế do số lượng phương tiện giao thông thuỷ phục vụ du lịch còn ít, chất lượng dịch vụ và độ an toàn chưa cao, mặc dù tiềm năng phát triển rất lớn Để khắc phục tình trạng này, cần đầu tư đóng mới các phương tiện chuyên chở khách du lịch, trang bị đầy đủ thiết bị tiện nghi và đảm bảo các điều kiện an toàn cho du khách như phao cứu hộ và kiểm soát trọng tải của tàu.
* Mạng l-ới cung cấp điện, n-ớc
Mạng lưới cung cấp điện nước của huyện đã phát triển, nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu lớn của khách du lịch và các khu vui chơi giải trí, đặc biệt vào mùa hè Tình trạng thiếu điện và nước sạch vào mùa hè ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ du lịch Do đó, huyện cần xây dựng quy hoạch tổng thể cho mạng lưới cung cấp điện nước theo quy hoạch chung Cần phát triển hệ thống lưới điện hạ thế và có kế hoạch đầu tư, nâng cấp, cải tạo các đường dây hạ thế cùng với các trạm biến áp, dự kiến đến năm 2020 sẽ có khoảng 60 trạm biến áp trên toàn huyện Đồng thời, nâng cấp trạm 110 KV tại Ngũ Lão và trạm trung chuyển cũng là một yêu cầu cấp thiết.
Mỹ Đồng – Kiền Bái để tăng thêm nguồn điện cho huyện Đồng thời cần nhanh chóng xây dựng nhà máy nhiệt điện 600 MV tại Tam H-ng
Hệ thống cấp nước sạch tại Thủy Nguyên cần được đánh giá hiện trạng nguồn nước mặt và nước ngầm Việc đầu tư xây dựng hệ thống cấp nước sạch tại các điểm du lịch là cần thiết để đảm bảo cung ứng đủ nước sạch cho du khách và các hoạt động vui chơi giải trí Tại các khu vực du lịch và cảnh quan sinh thái, có thể xây dựng các nhà máy nước vừa và nhỏ, trạm xử lý nước sạch hoặc giếng khoan lấy nước sạch tại chỗ Ngoài ra, cần sớm hoàn thành nhà máy nước 60.000m³ tại thị trấn Minh Đức để phục vụ khu đô thị Bắc sông Cấm và các khu vực lân cận.
Để đáp ứng nhu cầu liên lạc và trao đổi thông tin của khách du lịch, Thủy Nguyên cần nâng cao năng lực cho bưu điện trung tâm và các bưu cục khu vực, đồng thời phát triển mạnh mạng lưới bưu cục, ki-ốt điện thoại, điểm bán sim thẻ, và các điểm truy cập Internet Việc xây dựng quy hoạch hạ tầng viễn thông và truyền hình cần chú trọng đầu tư vào mạng lưới viễn thông hiện đại, đồng bộ và rộng khắp, nhằm cung cấp các dịch vụ đa dạng và chất lượng cao.
* Xây dựng tour du lịch văn hoá ở Thuỷ Nguyên ( 4 ngày 3 đêm)
_Ngày 1: Núi Đèo – Minh Đức
Vào lúc 7 giờ sáng, du khách sẽ được đón tại thị trấn Núi Đèo để bắt đầu hành trình tham quan chùa Hàm Long, đền Phò Mã và đình Th-ợng.
+ Tr-a: Ăn tr-a, nghỉ ngơi tại thị trấn Núi Đèo
+ Chiều: Thăm đình Chung Mỹ xã Trung Hà nơi thờ t-ớng Trần H-ng Trí, sau đó du khách đến thăm miếu Phả Lễ nơi thờ Trần Hộ, Trần Độ
+ Tối: Ăn tối và nghỉ ngơi tại khách sạn My Sơn ở trị trấn Minh Đức
_ Ngày 2: Minh Đức- Tam H-ng- Minh Đức
+ Sáng: Ăn sáng tại Minh Đức, sau đó du khách tới thăm đền Vũ Nguyên xã Tam H-ng, thăm bến đò Phà Rừng và bãi cọc Bạch Đằng năm x-a
+ Tr-a: ăn tr-a tại thị trấn Minh Đức
+ Chiều: thăm cụm di tích đền thờ Trần Quốc Bảo, lăng mộ Trần Quốc Bảo, đền Trần H-ng Đạo
+ Tối: nghe hát Đúm, ăn và nghỉ tại khách sạn Minh Đức
_ Ngày 3: Minh Đức - Cầu Giá
Buổi sáng, du khách có thể thưởng thức bữa sáng tại Minh Đức trước khi di chuyển theo con đường mới qua xã Gia Đức để tham quan chùa và động Hang Lương Tại đây, du khách có cơ hội tham gia leo núi, khám phá bên trong hang động và chiêm ngưỡng các di vật còn sót lại từ trận chiến Bạch Đằng năm 1288.
+ Tr-a: ăn tr-a tại chân cầu Đá Bạc
Chiều, du khách có thể khám phá đền Thụ Khê và chùa Mai Động ở Liên Khê, nơi có những vườn đồi và vườn cây ăn quả, mang đến cơ hội thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên.
Vào buổi tối, du khách sẽ thưởng thức bữa tối và nghỉ ngơi tại nhà nghỉ Cầu Giá Ngoài ra, du khách có thể thuê thuyền để khám phá sông Giá và nghe giới thiệu về lịch sử thú vị của khu vực Thuỷ Nguyên.
_Ngày 4: Cầu Giá - Núi Đèo
Vào buổi sáng, du khách sẽ thưởng thức bữa sáng tại Cầu Giá, sau đó tham quan một số làng nghề truyền thống như làng mây tre đan ở Chính Mỹ, nghề đúc đồng tại Mỹ Đồng, và khám phá miệt vườn cau ở Cao Nhân.
+ Tr-a: ăn tr-a tại thị trấn Núi Đèo
+ Chiều: vào thăm quan trung tâm th-ơng mại huyện Thuỷ Nguyên và mua quà l-u niệm Sau đó lên xe về Hải Phòng