1. Trang chủ
  2. » Thể loại khác

Luận văn hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch tại khu dự trữ sinh quyển thế giới cát bà

117 14 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 117
Dung lượng 1,31 MB

Cấu trúc

  • 2. Mục đích nghiên cứu (3)
  • 3. Đối t-ợng và phạm vi nghiên cứu (3)
  • 4. Ph-ơng pháp nghiên cứu (3)
  • 5. Bố cục khoá luận (3)
    • 1.1.1. Khái niệm về khu dự trữ sinh quyển (4)
    • 1.1.2. Chức năng của khu dự trữ sinh quyển (4)
    • 1.1.3. Các phân khu của khu dự trữ sinh quyển (5)
    • 1.1.4. Vấn đề thành lập khu dự trữ sinh quyển (5)
    • 1.1.5. Tầm quan trọng của khu dự trữ sinh quyển (7)
    • 1.2. Danh sách các khu dự trữ sinh quyển tại Việt Nam (9)
      • 1.2.1. Khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ ,2000 (9)
      • 1.2.2. Khu dự trữ sinh quyển Cát Tiên,2001 (9)
      • 1.2.3. Khu dự trữ sinh quyển Châu thổ sông Hồng,2004 (10)
      • 1.2.4. Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà, 2004 (11)
      • 1.2.5. Khu dự trữ sinh quyển Kiên Giang, 2006 (11)
      • 1.2.6. Khu dự trữ sinh quyển miền tây Nghệ An, 2007 (11)
      • 1.2.7. Khu dự trữ sinh quyển Cù lao Chàm (12)
      • 1.2.8. Khu dự trữ sinh quyển Mũi Cà Mau (13)
    • 1.3. Quá trình công nhận khu dự trữ sinh quyển Cát Bà (0)
      • 2.1.1. Vị trí địa lý và phân vùng chức năng (17)
      • 2.1.2. Tài nguyên du lịch tự nhiên (20)
      • 2.1.3. Khu dự trữ sinh quyển thế giới Cát Bà - những giá trị có tầm quan trọng quèc tÕ (0)
      • 2.1.4. Các hoạt động du lịch có thể tổ chức tại khu dự trữ sinh quyển thế giới Cát Bà (0)
    • 2.2. Điều kiện kinh tế – xã hội và tài nguyên du lịch nhân văn tại khu dự trữ sinh quyển thế giới cát bà (34)
      • 2.2.1. Cơ sở hạ tầng (34)
      • 2.2.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật (39)
      • 2.2.3. Kinh tế Cát Bà (42)
      • 2.2.4. Chính sách kinh tế và lao động (43)
      • 2.2.5. Tài nguyên du lịch nhân văn (52)
    • 2.3. Thực trạng khai thác tài nguyên du lịch tại khu dự trữ (55)
      • 2.3.1. Thực trạng về sản phẩm du lịch (55)
      • 2.3.2. Thực trạng về khách (55)
      • 2.3.3. Thực trạng về doanh thu du lịch (58)
      • 2.3.4. Thực trạng về bảo vệ môi tr-ờng (58)
      • 2.3.4. Tác động của hoạt động du lịch đến khu dự trữ sinh quyển Cát Bà (0)
    • 3.1. Mục tiêu phát triển Cát Bà đến năm 2020 (63)
    • 3.2. Các giải pháp phát triển du lịch sinh thái ở khu dự trữ (76)
      • 3.2.1. Giải pháp về tổ chức quản lý (76)
      • 3.2.2. Giải pháp về tăng c-ờng hợp tác và kêu gọi vốn đầu t- (77)
      • 3.2.3. Giải pháp về môi tr-ờng (79)
      • 3.2.4. Giải pháp về quy hoạch và xây dựng (82)
      • 3.2.5. Giải pháp về giáo dục và đào tạo (84)
      • 3.2.6. Giải pháp thu hút cộng đồng vào hoạt động du lịch (88)
      • 3.2.7. Giải pháp về quảng bá du lịch (90)
      • 3.2.8. Giải pháp về loại hình du lịch (90)
    • 3.3. Một số kiến nghị (92)

Nội dung

Mục đích nghiên cứu

- Nghiên cứu quá trình Cát Bà đ-ợc công nhận là khu DTSQTG và nguồn tài nguyên du lịch của KDTSQ Cát Bà

Hoạt động du lịch tại khu DTSQTG Cát Bà đã thu hút nhiều du khách, góp phần phát triển kinh tế địa phương Tuy nhiên, sự gia tăng lượng khách du lịch cũng gây ra những tác động tiêu cực đến cảnh quan và tài nguyên môi trường xã hội, như ô nhiễm và suy giảm hệ sinh thái Do đó, việc quản lý bền vững các hoạt động du lịch là cần thiết để bảo tồn vẻ đẹp tự nhiên và văn hóa của khu vực này.

- Đ-a ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển hoạt động du lịch sinh thái tại KDTSQTG Cát Bà.

Đối t-ợng và phạm vi nghiên cứu

- Không gian lãnh thổ nghiên cứu: Khu vực quần đảo Cát Bà - Nơi đ-ợc công nhận là khu DTSQTG

- Thời gian nghiên cứu: Đề tài đ-ợc thực hiện và hoàn thành trong gian

03 tháng từ tháng 04 đến tháng 07 năm 2009.

Ph-ơng pháp nghiên cứu

‟ Ph-ơng pháp thu thập, tổng hợp và xử lý số liệu

Thông tin về các đối tượng nghiên cứu được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, được phân loại, so sánh và chọn lọc kỹ lưỡng, tạo thành một tập hợp dữ liệu hệ thống và đáng tin cậy.

‟ Ph-ơng pháp điều tra thực địa

Tác giả trực tiếp đến và khảo sát thực tế tại KDTSQ Cát Bà để cõ những nghiên cứu và đánh giá phục vụ đề tài

Phương pháp phân tích tổng hợp và so sánh là phương pháp chính được áp dụng để xử lý dữ liệu sau khi thu thập tài liệu và số liệu từ thực tế.

‟ Ph-ơng pháp bảng biểu

Trong khoá luận đã sử dụng một số các bảng biểu nghiên cứu.

Bố cục khoá luận

Khái niệm về khu dự trữ sinh quyển

Khái niệm Kinh doanh Tài nguyên Sinh quyển (KDTSQ) lần đầu tiên được MAB giới thiệu tại hội nghị khoa học “Sử dụng hợp lý và bảo tồn tài nguyên của Sinh quyển” diễn ra tại Paris vào tháng 9/1968 Hội nghị này thu hút 236 đại biểu từ 63 quốc gia cùng 88 đại diện của các tổ chức liên chính phủ và phi chính phủ, bao gồm nhiều lĩnh vực khoa học, cũng như các nhà quản lý và ngoại giao Sự kiện sau này được gọi là “Hội nghị Sinh quyển” do UNESCO tổ chức, nhận được sự hỗ trợ tích cực từ Tổ chức Lương thực, Tổ chức Y tế Thế giới, các tổ chức bảo tồn và chương trình sinh học quốc tế thuộc Hội đồng Khoa học Quốc tế (IBP/ICSU).

KDTSQ là các khu vực bảo tồn bao gồm hệ sinh thái trên cạn và ven biển, nhằm thúc đẩy bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên đa dạng sinh học Những khu vực này hoạt động như "phòng thí nghiệm cuộc sống", cho phép thử nghiệm và mô phỏng các phương pháp quản lý tài nguyên đất, nước và đa dạng sinh học một cách đồng bộ.

Các Khu Dự Trữ Sinh Quyển (KDTSQ) được Chính phủ các nước đề xuất và công nhận quốc tế bởi Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc (UNESCO) trong khuôn khổ Chương trình Con người và Sinh quyển (MAB).

Chức năng của khu dự trữ sinh quyển

Mỗi khu DTSQ có 3 chức năng chính hỗ trợ lẫn nhau:

+ Chức năng bảo tồn: Nhằm góp phần vào việc bảo vệ sinh cảnh, HST và tính đa dạng của các loài và các nguồn gen

Chức năng phát triển nhằm hỗ trợ các hoạt động kinh tế và nâng cao đời sống con người, đồng thời đảm bảo sự bền vững về văn hóa, xã hội và sinh thái.

Chức năng dịch vụ nhằm hỗ trợ nghiên cứu, giám sát, giáo dục và trao đổi thông tin về bảo tồn thiên nhiên và phát triển ở cấp địa phương, quốc gia và toàn cầu.

Các phân khu của khu dự trữ sinh quyển

Mỗi khu dự trữ sinh quyển (KDTSQ) được chia thành ba phân khu chức năng hỗ trợ lẫn nhau: vùng lõi, vùng đệm và vùng chuyển tiếp Vùng lõi là khu vực có hệ sinh thái nguyên sinh với đa dạng sinh học cao và được bảo vệ nghiêm ngặt Vùng đệm bao gồm các sinh cảnh tự nhiên đã bị khai thác, tiếp giáp với vùng lõi, nơi có thể có cư dân địa phương sinh sống và canh tác Vùng chuyển tiếp là nơi cư dân sinh sống, canh tác, sản xuất và phát triển du lịch Một số KDTSQ cũng bao gồm vườn quốc gia, như KDTSQ Cát Bà.

Vấn đề thành lập khu dự trữ sinh quyển

a Điều kiện thành lập KDTSQ Để đ-ợc công nhận là KDTSQTG địa điểm đó phải đảm bảo đ-ợc một số tiêu chí sau:

‟ Diện tích khu sinh quyển đủ lớn

Hệ sinh thái và nguồn gen tại khu vực này rất đa dạng, bao gồm cả những nguồn gen quý hiếm và các hệ sinh thái tiêu biểu Không gian phân bố các hệ sinh thái có ranh giới tự nhiên và hành chính rõ ràng, không có tranh chấp về quản lý địa chính với các hệ bên cạnh.

Vùng đệm và vùng chuyển tiếp cần được mở rộng để phát triển, đồng thời có khả năng điều hòa mâu thuẫn lợi ích giữa cộng đồng và các chủ thể quản lý.

‟ Vấn đề dân số và môi tr-ờng ở đó phải đ-ợc quản lý tốt, ch-a nảy sinh các bức xúc b Nguồn gốc của việc thành lập khu DTSQ

Năm 1968, tại Hội nghị Sinh quyển do UNESCO tổ chức, khái niệm phát triển bền vững được hình thành với đề xuất về các Khu Dự trữ Sinh quyển (KDTSQ) Đến năm 1970, UNESCO chính thức khởi xướng chương trình “Con người và Sinh quyển” (MAB) để xây dựng mạng lưới KDTSQ toàn cầu Tại hội nghị Liên Hợp Quốc về môi trường và phát triển năm 1992 ở Rio de Janeiro, các quốc gia đã nhất trí duy trì và phát triển chương trình MAB, đưa nó vào chương trình nghị sự 21 như một phần quan trọng trong việc thực hiện công ước đa dạng sinh học và công ước về biến đổi khí hậu.

Mục đích thành lập các KDTSQ là nhằm giải quyết một trong những thách thức lớn nhất mà thế giới hiện nay đang đối mặt.

Để bảo tồn tính đa dạng của thực vật, động vật và vi sinh vật, con người cần thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường, duy trì hệ sinh thái và khôi phục các khu vực bị tổn hại Việc giáo dục cộng đồng về tầm quan trọng của sự đa dạng sinh học và thúc đẩy các hoạt động bền vững cũng là những yếu tố quan trọng Thêm vào đó, việc áp dụng các chính sách bảo tồn, nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế sẽ góp phần bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá này.

Để duy trì các hệ sinh thái tự nhiên bền vững trong bối cảnh dân số ngày càng tăng, chúng ta cần phát triển các chiến lược quản lý tài nguyên hiệu quả, kết hợp giữa bảo vệ môi trường và đáp ứng nhu cầu vật chất của con người Việc áp dụng các công nghệ xanh và thực hành nông nghiệp bền vững sẽ giúp giảm thiểu tác động tiêu cực đến hệ sinh thái Đồng thời, nâng cao nhận thức cộng đồng về tầm quan trọng của bảo vệ môi trường cũng là yếu tố then chốt để hài hòa giữa phát triển kinh tế và bảo tồn thiên nhiên.

Để hài hòa giữa bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và sử dụng bền vững, cần có những chiến lược hiệu quả Mục đích của việc thành lập các khu dự trữ sinh quyển (KDTSQ) là nhằm bảo vệ và quản lý tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội Việc này không chỉ giúp bảo tồn đa dạng sinh học mà còn đảm bảo rằng các thế hệ tương lai có thể tiếp cận và sử dụng tài nguyên một cách hợp lý.

Việc xây dựng Kinh tế Địa phương Sinh thái (KDTSQ) nhằm giải quyết vấn đề quan trọng về cân bằng giữa bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển kinh tế - xã hội KDTSQ cung cấp cơ sở lý luận và công cụ cho chương trình nghiên cứu đa quốc gia về mối quan hệ giữa con người và sinh quyển Phương pháp luận của KDTSQ nhấn mạnh rằng "con người là một phần của sinh quyển" và khẳng định vai trò của "công dân sinh thái".

"Sinh quyển" đã trở thành một thuật ngữ phổ biến trong đời sống quốc tế, đặc biệt được nhắc đến tại hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường ở Stockholm, Thụy Điển năm 1972 Tại đây, cụm từ "Hội nghị Sinh quyển" được dùng để đánh giá các vấn đề môi trường một cách toàn diện Các nhà khoa học và nhà quản lý đồng thuận rằng việc sử dụng và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên cần đi đôi với phát triển kinh tế để nâng cao mức sống của người dân, thay vì mâu thuẫn Họ nhấn mạnh tầm quan trọng của việc khuyến khích các phương pháp nghiên cứu và quản lý nhằm đạt được mục tiêu này.

Vào năm 1969, Ban Tư vấn Khoa học của MAB đã đề xuất thành lập một mạng lưới hợp tác toàn cầu, bao gồm các VQG, KDTSQ và các hình thức bảo tồn khác, nhằm thúc đẩy công tác bảo tồn và nghiên cứu, giáo dục, đào tạo Mạng lưới này có ba chức năng chính: bảo tồn đa dạng di truyền, loài và hệ sinh thái; hỗ trợ nghiên cứu, giám sát, giáo dục và trao đổi thông tin về bảo tồn và phát triển bền vững; và kết hợp bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế để nâng cao mức sống cho người dân, từ đó đảm bảo sự thành công của công tác bảo tồn.

KDTSQ sẽ đóng vai trò là phòng thí nghiệm sống, phục vụ cho nghiên cứu, giáo dục, đào tạo và giám sát các hệ sinh thái Điều này mang lại lợi ích thiết thực cho cộng đồng cư dân địa phương, cũng như cho quốc gia và quốc tế.

Tầm quan trọng của khu dự trữ sinh quyển

Áp lực từ hoạt động kinh tế để đáp ứng nhu cầu phát triển đang gây ra những vấn đề môi trường nghiêm trọng, đặc biệt ảnh hưởng đến tài nguyên đất và nước, dẫn đến sự giảm sút đa dạng sinh học Điều này tác động tiêu cực đến cuộc sống hàng ngày của con người, gây ra tình trạng khan hiếm lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh và nguyên liệu cho công nghiệp Đa dạng sinh học đóng vai trò thiết yếu trong giáo dục và nghiên cứu khoa học Các khu dự trữ sinh quyển (KDTSQ) được coi là những phòng thí nghiệm sống về đa dạng sinh học, góp phần quan trọng vào sự cân bằng sinh thái, hạn chế xói lở, cải thiện độ màu mỡ của đất, điều hòa khí hậu, hoàn thiện chu trình dinh dưỡng và giảm ô nhiễm nước, không khí.

Mỗi KDTSQ là địa điểm lý tưởng cho nghiên cứu cấu trúc và động thái các hệ sinh thái tự nhiên, đặc biệt ở các vùng lõi Chúng cung cấp cơ sở để so sánh hệ sinh thái tự nhiên với những hệ sinh thái bị biến đổi do tác động của con người Các nghiên cứu này có thể được thực hiện qua các trạm giám sát trong thời gian dài, giúp các nhà khoa học quan sát những thay đổi theo thời gian và hiện tại cả trong nước lẫn quốc tế Từ đó, có thể đề xuất những giải pháp thích hợp để khắc phục tình trạng này.

Việc thành lập các khu dân cư sinh thái (KDTSQ) mang lại nhiều lợi ích cho con người, cho phép người dân duy trì các hoạt động truyền thống nhằm tạo ra nguồn thu nhập hàng ngày Những biện pháp kỹ thuật bền vững về môi trường và văn hóa không chỉ hỗ trợ đời sống kinh tế mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn các loài sinh vật bản địa Điều này giúp lưu giữ nguồn gen di truyền quý giá, phục vụ cho công tác chọn giống và bảo tồn di sản di truyền cho các thế hệ tương lai.

Các KDTSQ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy trao đổi kinh nghiệm và chia sẻ kiến thức về phát triển bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên Mục tiêu chính của các KDTSQ là nghiên cứu và phát triển các giải pháp sử dụng đất nhằm nâng cao mức sống cho người dân mà không gây hại cho môi trường Đây cũng là nơi kết nối chia sẻ kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm ở nhiều cấp độ khác nhau, từ quốc gia đến quốc tế Hơn nữa, các KDTSQ tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác trong quản lý tài nguyên thiên nhiên, trở thành điểm hẹn lý tưởng cho các nhà khoa học, cán bộ quản lý và cá nhân muốn trao đổi giải pháp trong một cơ chế điều hành thống nhất Các KDTSQ là mô hình cần được nhân rộng để phát huy hiệu quả.

Danh sách các khu dự trữ sinh quyển tại Việt Nam

1.2.1.Khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ ,2000

KDTSQ, hay Khu Dự trữ Sinh quyển rừng ngập mặn Cần Giờ, nằm trong thành phố Hồ Chí Minh, đã được UNESCO công nhận vào ngày 21 tháng 1 năm 2000 Khu vực này có tổng diện tích hơn 71.000 ha và dân số khoảng 57.000 người.

Rừng ngập mặn Quảng Xuyên - Cần Giờ, được đánh giá là đẹp nhất Đông Nam Á, đã được khôi phục sau khi bị tàn phá nặng nề bởi chất độc hóa học trong thời kỳ chiến tranh.

KDTSQ Cần Giờ nằm cách TP.HCM khoảng 30 - 40 km theo đường chim bay và được xem là "lá phổi xanh của thành phố" Nơi đây có vai trò quan trọng trong việc điều hòa không khí, giảm ô nhiễm và hấp thụ CO2 từ các hoạt động công nghiệp phát thải tại TP.HCM.

KDTSQ Cần Giờ có vùng lõi 4.721 ha, vùng đệm hơn 37 ngàn ha Còn lại là vùng chuyển tiếp có diện tích hơn 29 ngàn ha

1.2.2.Khu dự trữ sinh quyển Cát Tiên,2001

KDTSQ Cát Tiên, nằm ở các tỉnh Đồng Nai, Bình Phước, Lâm Đồng và Đắc Lắc, được UNESCO công nhận vào ngày 10/11/2001 với tổng diện tích gần 729.000 ha Đây là một trong những khu rừng mưa ẩm nhiệt đới cuối cùng ở miền Nam Việt Nam, nơi có nhiều loài động thực vật quý hiếm đang bị đe dọa tuyệt chủng, đặc biệt là loài tê giác một sừng (Rhinoceros sondaicus) Hệ sinh thái tại đây cung cấp nhiều dịch vụ sinh thái quan trọng, bao gồm chức năng điều tiết nước và kiểm soát ngập lụt trong mùa mưa cho khu vực Đông Nam Bộ, bao gồm cả TP Hồ Chí Minh.

Vùng lõi của Khu Dự trữ Sinh quyển Cát Tiên có diện tích gần 74.000 ha, thuộc Vườn quốc gia Cát Tiên, với vùng đệm rộng 251.000 ha và vùng chuyển tiếp 403.000 ha Đến nay, sự đa dạng sinh học của Cát Tiên vẫn chưa được xác định hoàn toàn, với công việc nghiên cứu vẫn đang tiếp tục Các nhà khoa học đã ghi nhận 77 loài thú, 318 loài chim, 58 loài bò sát, 28 loài lưỡng cư và 130 loài cá, trong đó nhiều loài đang có nguy cơ tuyệt chủng như voi châu Á, tê giác một sừng, heo rừng, bò tót, voọc vá chân đen và vượn đen má hung.

1.2.3.Khu dự trữ sinh quyển Châu thổ sông Hồng,2004

Khu dự trữ sinh quyển (DTSQ) đất ngập nước ven biển liên tỉnh châu thổ sông Hồng, bao gồm 5 huyện: Thái Thụy và Tiền Hải (Tỉnh Thái Bình); Giao Thủy và Nghĩa Hưng (Tỉnh Nam Định); Kim Sơn (Tỉnh Ninh Bình), đã được UNESCO công nhận vào ngày 2/12/2004 Với tổng diện tích vượt quá 105.000 ha, khu DTSQ này đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ hệ sinh thái và đa dạng sinh học của vùng châu thổ sông Hồng.

Khu Ramsar Xuân Thủy, với diện tích 14 ngàn ha và vùng đệm gần 37 ngàn ha, nằm trong khu vực có dân số trên 128 ngàn người Đây là khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước quan trọng của Việt Nam, bao gồm Vườn quốc gia Xuân Thủy và khu bảo tồn Tiền Hải Được công nhận vào năm 1989, Xuân Thủy là khu Ramsar đầu tiên và duy nhất ở Việt Nam, cũng như là khu Ramsar đầu tiên của Đông Nam Á và thứ 50 trên thế giới Công ước Ramsar, ký tại thành phố Ramsar, Iran, nhằm bảo vệ các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, đặc biệt là nơi cư trú của các loài chim nước.

KDTSQ hiện đang bảo tồn một hệ sinh thái đa dạng với nhiều loài quý hiếm có giá trị quốc tế Nghiên cứu cho thấy có khoảng 200 loài chim, trong đó gần 60 loài di cư và hơn 50 loài chim nước Nhiều loài, như cò thìa (Platalea minor) và cò trắng bắc (Egretta eulophotes), được ghi trong sách đỏ thế giới Khu vực này nổi bật với những cánh rừng ngập mặn rộng lớn, đầm lầy mặn, bãi bồi ven biển và cửa sông, tạo nên một sinh cảnh đặc sắc.

1.2.4.Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà, 2004

(Xem chi tiết ở ch-ơng II)

1.2.5.Khu dự trữ sinh quyển Kiên Giang, 2006

KDTSQ Kiên Giang bao gồm ba vùng lõi chính là VQG U Minh Thượng, VQG Phú Quốc và rừng phòng hộ ven biển Kiên Lương - Kiên Hải So với bốn KDTSQ đã được công nhận trước đó, Kiên Giang nổi bật với sự đa dạng về cảnh quan và hệ sinh thái Tổng diện tích của KDTSQ Kiên Giang lên tới 1.118.105 ha, hiện là khu dự trữ sinh quyển lớn nhất tại Việt Nam.

Cảnh quan nổi bật của khu vực U Minh Thượng bao gồm rừng tràm (Melaleuca) trên đất than bùn, cùng với đảo Phú Quốc có nhiều sông suối và bãi tắm trải dài ven biển Khu vực Kiên Lương - Kiên Hải chiếm hơn 30% diện tích là đồi núi và hải đảo, bên cạnh đó là rừng ngập mặn ven biển và rừng tràm ngập nước theo mùa tại vùng Tứ giác Long Xuyên.

KDTSQ Kiên Giang là khu vực đa dạng sinh học với nhiều hệ sinh thái rừng nhiệt đới phong phú, bao gồm rừng nguyên sinh, rừng thứ sinh, rừng trên núi đá, rừng ngập chua phèn, rừng ngập mặn và hệ sinh thái rạn san hô - cỏ biển.

1.2.6.Khu dự trữ sinh quyển miền tây Nghệ An, 2007 Đây là KDTSQ lớn nhất Việt Nam, có giá trị về khoa học, môi trường, tích 1.303.285ha, thuộc địa bàn 9 huyện: Kỳ Sơn, Tương Dương, Con Cuông, Thanh Chương, Quỳ Hợp, Quỳ Châu, Quế Phong, Tân Kỳ, Anh Sơn Trong đó VQG Pù Mát làm trung tâm Nơi đây đang lưu giữ nhiều nguồn gen quý về động, thực vật

VQG Pù Mát đại diện cho 4/5 lớp quần hệ với gần 2.500 loài thực vật bậc cao, trong đó gần 2.000 loài thuộc nhóm chồi trên mặt đất, chiếm 74% và là yếu tố chủ đạo trong hệ sinh thái rừng nhiệt đới và á nhiệt đới gió mùa Việt Nam Khu vực này cũng có 130 loài thú, 295 loài chim, 54 loài lưỡng cư và bò sát, 84 loài cá, cùng 39 loài dơi, trong đó nhiều loài chỉ có tại Việt Nam và Đông Bắc Thái Lan Đặc biệt, nơi đây còn mang đậm dấu ấn văn hóa của cộng đồng người Thái và giá trị cội nguồn của tộc người Ơ Đu, một trong những dân tộc ít người nhất trong 54 dân tộc anh em của Việt Nam.

1.2.7.Khu dự trữ sinh quyển Cù lao Chàm

Vào ngày 26 tháng 5 năm 2009, Uỷ ban điều phối quốc tế chương trình Con người và Sinh quyển thế giới đã chính thức công nhận Cù lao Chàm (thuộc Hội An, Quảng Nam) và mũi Cà Mau (tỉnh Cà Mau) là khu dự trữ sinh quyển thế giới.

Trong ngày thứ hai của kỳ họp thứ 21 của MAB tại Jeju, Hàn Quốc, Quyết định đã được đưa ra công nhận Cù lao Chàm và mũi Cà Mau với tính đặc hữu hiếm có.

Quá trình công nhận khu dự trữ sinh quyển Cát Bà

2.1.Điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch thiên nhiên của KDTSQTG Cát Bà

2.1.1.Vị trí địa lý và phân vùng chức năng

Ngày đ-ợc UNESCO công nhận: 2/12/2004

KDTSQTG Cát Bà nằm trong khoảng toạ độ:

KDTSQ Cát Bà tọa lạc tại tọa độ 20°47’42” vĩ độ bắc và 107°00’38” kinh độ đông, cách nội thành Hải Phòng 45km về phía đông và thành phố Hạ Long 25km về phía nam Khu vực này bao gồm phần lớn quần đảo Cát Bà với tổng diện tích 26.240ha, trong đó có 17.000ha là diện tích đảo và 92.000ha là mặt nước biển.

KDTSQTG Cát Bà được chia thành ba khu vực chính: vùng lõi, vùng đệm và vùng chuyển tiếp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý thống nhất Tọa lạc trên hòn đảo lớn nhất trong hệ thống đảo vùng biển Bắc bộ Việt Nam, khu vực này thuộc sự quản lý của UBND huyện Cát Hải Vùng lõi là khu vực không chịu tác động của con người, ngoại trừ các hoạt động nghiên cứu và giám sát, đồng thời cho phép duy trì một số hoạt động truyền thống của người dân địa phương.

Vùng lõi có nhiệm vụ quan trọng trong việc bảo tồn hệ sinh thái tự nhiên còn nguyên vẹn, bảo vệ các nguồn gen động thực vật quý hiếm và các loài đặc hữu như kim giao, vộc đầu vàng, tu hài, cá heo, và chim cao cát Đồng thời, vùng này cũng góp phần bảo vệ cảnh quan thiên nhiên cùng các di tích khảo cổ và văn hóa lịch sử.

KDTSQTG Cát Bà có 2 vùng lõi (Coze zone-C)

+ Vùng lõi 1: nằm ở phía đông nam có diện tích 6.900 ha, trong đó

Vùng lõi 1 của VQG Cát Bà là khu vực quan trọng nhất, bao gồm rừng nguyên sinh, rừng ngập nước trên núi, rừng kim giao, cùng với cây gỗ nhỏ, cây bụi và dây leo dày đặc trên núi đá vôi Nơi đây là môi trường sống của 40% cá thể Voọc và các hệ sinh thái tùng, áng, rạn san hô, không bao gồm khu hành chính VQG, thung lũng và làng Việt Hải.

Vùng lõi 1, được thành lập vào ngày 31 tháng 3 năm 1986 theo quyết định số 76/HĐ-BT của Chính Phủ Việt Nam, đóng vai trò là khu bảo tồn thiên nhiên quan trọng Trước khi được công nhận, khu vực này là rừng núi với hệ động thực vật phong phú, thể hiện sự đa dạng sinh học đặc trưng của rừng Việt Nam Nhiều cơ quan và tổ chức trong nước cũng như quốc tế đã tiến hành khảo sát và nghiên cứu tại đây Đến nay, vùng lõi 1 vẫn duy trì chức năng bảo tồn các quỹ gen quý hiếm và bảo vệ đa dạng sinh học.

+ Vùng lõi 2: Nằm ở phía Tây ‟ Bắc đảo Cát Bà với diện tích mặt đất

Khu vực thuộc xã Gia Luận có diện tích 1.200 ha và mặt nước 400 ha, tiếp giáp với xã Phù Long, bao gồm bán đảo Hang Cái cùng một số hòn đảo nhỏ lân cận Đây là khu vực núi cao với địa hình hiểm trở, đa dạng hệ sinh học và ít bị can thiệp bởi con người, tạo điều kiện thuận lợi cho việc bảo tồn và quản lý, đồng thời là nơi cư trú của 30% cá thể vọc Vùng đệm tiếp giáp với vùng lõi cho phép thực hiện các hoạt động kinh tế, nghiên cứu, giáo dục và giải trí mà không ảnh hưởng đến mục đích bảo tồn của vùng lõi.

KDTSQ Cát Bà có 2 vùng đệm (Buffer zone ‟ B)

+Vùng đệm khu trung tâm (Vùng đệm Việt Hải) có diện tích 141 ha, nằm trong vùng lõi 1, gồm thung lũng và làng Xính xã Việt Hải, toàn mặt đất (B2)

Vùng đệm tiếp giáp bao quanh hai vùng lõi với tổng diện tích 7.600 ha, trong đó 4.800 ha là phần đảo và 2.800 ha là phần biển Vùng này có chức năng phát triển kinh tế, tăng thu nhập cho người dân và hỗ trợ công tác bảo tồn vùng lõi Nhiệm vụ chính của vùng đệm bao gồm việc bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.

Phục hồi HST rừng tại những điểm đã bị tác động, phục hồi các loài động thực vật bản địa

Triển khai nghiên cứu khoa học cơ bản và áp dụng thực tế phục vụ yêu cầu bảo tồn

Cung cấp các dịch vụ nghiên cứu khoa học, tuyên truyền, giáo dục kết hợp với dịch vụ du lịch sinh thái

Phối hợp với chính quyền địa phương các tỉnh, đặc biệt là Quảng Ninh, để xây dựng kế hoạch tổng thể liên vùng nhằm quản lý vùng đệm cho du lịch sinh thái, góp phần vào phát triển kinh tế bền vững.

Vùng chuyển tiếp, hay còn gọi là vùng phát triển bền vững, là nơi hợp tác giữa các nhà khoa học, nhà quản lý và cộng đồng địa phương Khu vực này tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động phát triển kinh tế, du lịch và dịch vụ, đồng thời chú trọng vào việc tuyên truyền giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng.

KDTSQ Cát Bà có 2 vùng chuyển tiếp (Transition zone ‟ T):

Vùng chuyển tiếp 1 có diện tích 8.700 ha, trong đó bao gồm 4.500 ha đất liền và 4.200 ha diện tích mặt nước Khu vực này bao trùm các xã Phù Long, Hiền Hào, Xuân Đám, Trân Châu và vùng biển phía đông thị trấn.

Cát Bà (Bù Nâu, áng Thảm, Cát Dứa) (T1)

Vùng chuyển tiếp 2 nằm ở phía bắc xã Gia Luận, có tổng diện tích 1.300 ha, trong đó 1.100 ha là đất liền và 200 ha là mặt nước Khu vực này bao gồm vùng núi phía tây đỉnh Cao Vọng, thung lũng và làng chính của xã Gia Luận (T2).

Vùng chuyển tiếp là khu vực đông dân cư, nơi có chính sách khuyến khích phát triển kinh tế đa dạng, nhằm tăng cường nguồn thu nhập cho người dân Đặc biệt, các hoạt động như nuôi trồng thủy sản, phát triển dịch vụ du lịch, và đào tạo lao động có tay nghề cao được chú trọng để thúc đẩy nghề cá đánh bắt xa bờ và ngành du lịch.

2.1.2.Tài nguyên du lịch tự nhiên a.Địa hình

Cát Bà được thiên nhiên ưu ái với cảnh quan đẹp và đa dạng, bao gồm rừng, biển và các hang động tự nhiên Địa hình chủ yếu là các đảo núi đá vôi thấp, chiếm hơn 80% diện tích đảo, với độ cao trung bình từ 50 đến 200m; đỉnh Cao Vọng cao nhất đạt 322m, trong khi áng Tôm nằm dưới mực nước biển từ 10 đến 30m Độ dốc sườn núi trung bình khoảng 300m Theo nghiên cứu, các dãy núi đá vôi ở Cát Bà có lịch sử kiến tạo từ 250 đến 280 triệu năm, xen kẽ với các thung lũng, trong đó thung lũng Trung Trang rộng 300 ha là lớn nhất, cùng với các thung lũng Khe Sâu, Việt Hải, Hiền Hào và Xuân Đám.

Quá trình karst mạnh mẽ đã hình thành nên quần đảo Cát Bà với địa hình karst độc đáo, nổi bật với hệ thống hang động lớn nhỏ Nơi đây có nhiều nhũ đá và măng đá tuyệt đẹp, tạo nên tài nguyên tự nhiên quý giá, thu hút đông đảo du khách đến tham quan các hang động như Trung Trang, Thiên Long, đá hoa Gia Luận và hang Quân Y.

Vùng chân đảo phía tây và tây nam, thuộc xã Phù Long và xã Xuân Đám, chịu ảnh hưởng của sóng biển và chế độ thủy triều, tạo nên địa hình bãi triều cao với hệ sinh thái rừng ngập mặn Các bãi bùn tại Cái Viềng, Phù Long, được hình thành từ xác sinh vật trên các mảng san hô, mang lại vẻ đẹp sạch sẽ, như bãi Đ-ợng Gianh, rất thích hợp cho du lịch và là môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các loài hải sản quý như tu hài, ngọc trai, hải sâm, bào ngư, và tôm hùm.

Điều kiện kinh tế – xã hội và tài nguyên du lịch nhân văn tại khu dự trữ sinh quyển thế giới cát bà

2.2.1.Cơ sở hạ tầng a.Mạng l-ới giao thông

Cát Bà là một trong những điểm du lịch chính của miền Bắc và cả nước, nổi bật với hệ sinh thái rừng và biển, nằm trong quy hoạch phát triển du lịch của thành phố và kết nối với du lịch Hạ Long, Quảng Ninh Để ngành du lịch Cát Bà trở thành một trong những ngành kinh tế chủ yếu, thành phố và huyện đảo đã không ngừng cải thiện hạ tầng giao thông cả đường bộ và đường thủy, tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển giữa Cát Bà và thành phố Các phương tiện vận chuyển du lịch chủ yếu tại Cát Bà bao gồm ô tô và tàu thuyền.

*Hệ thống giao thông đ-ờng bộ

Tháng 5 ‟ 2002, tuyến đ-ờng xuyên đảo Hải Phòng ‟ Cát Hải ‟ Cát Bà đã hoàn thành và đ-a vào sử dụng Đây là tuyến đ-ờng chủ đạo tạo điều kiện thuận lợi cho sự đi lại của du khách bằng ph-ơng tiện ôtô, xe máy nhất là những ngày có thời tiết xấu, sóng to gió lớn

Từ năm 2005, nhiều tuyến đường du lịch quanh đảo Cát Bà đã được mở, mang lại sự thoải mái cho du khách Đường Cát Bà - Bến Bèo được nâng cấp với hai làn xe, lề đường và vỉa hè, phục vụ cho cả cư dân và khách du lịch đến các bãi tắm Cát Cò Các con đường uốn lượn dẫn đến bãi tắm không chỉ tạo vẻ hấp dẫn mà còn mang lại không khí mát mẻ Du khách có thể di chuyển dễ dàng từ bãi tắm Cát Cò I sang bãi tắm Cát Cò II qua cầu Cát Tiên 1 và từ Cát Cò I sang Cát Đá Bằng (Cát Cò III) qua cầu Cát Tiên 2.

Việc mở rộng đ-ờng và khuôn viên khu cảng cá (từ chợ Cát Bà - Chùa Đông) tạo ra khung cảnh thoáng mát, thoải mái cho khách du lịch

Một trong những hoạt động quan trọng trong việc nâng cao cơ sở hạ tầng là thông xe kỹ thuật đường Hiền Hào - VQG Cát Bà, với tổng chiều dài hơn 4km Đường có nền rộng 7,5m và mặt đường rộng 5,5m, được xây dựng bằng kết cấu nhựa thấm nhập 5,5kg/m3 Tổng giá trị đầu tư cho dự án này là 15,5 tỷ đồng.

Từ năm 2008, huyện Cát Hải đã quy định ba tuyến phố đi bộ tại khu trung tâm du lịch Cát Bà, bao gồm: Tuyến 1 trên đường Núi Ngọc từ khách sạn Sun & Sea đến giao cắt với đường 1-4; Tuyến 2 trên đường Núi Ngọc từ Nhà khách UBND huyện đến giao cắt với đường 1-4; và Tuyến 3 trên đường 1-4 từ cổng cảng cá Cát Bà đến Cát Cò 1 và Cát Cò 2 Các tuyến phố đi bộ này hoạt động từ 20 đến 23 giờ hàng ngày, nhằm đảm bảo an toàn giao thông cho du khách và tạo sự mới mẻ cho trải nghiệm du lịch tại Cát Bà, đặc biệt vào các buổi tối đông khách trong dịp hè và cuối tuần.

Vào năm 2009, nhằm chuẩn bị cho lễ hội kỷ niệm 50 năm ngày Bác Hồ thăm Làng Cá, phòng Công thương đã hợp tác với công ty quản lý công trình công cộng và dịch vụ đô thị để san lấp mặt bằng một số thửa đất, tạo bãi đỗ xe tạm thời, mở rộng nút giao thông ngã ba cảng cá Cát Bà và sửa chữa các đoạn vỉa hè, đường giao thông bị xuống cấp.

Vào mùa hè năm 2009, Công ty TNHH Thương mại Quốc Hưng đã tiến hành thử nghiệm tuyến xe buýt du lịch (xe điện) tại khu du lịch Cát Bà, dự kiến kéo dài đến tháng 9.

Công ty vừa đầu tư 10 chiếc xe mới với tổng giá trị trên 3 tỷ đồng, mỗi xe có sức chở tối đa 10 người Tuyến xe buýt hoạt động trong khu trung tâm du lịch với tần suất 5-10 phút mỗi chuyến, mang lại sự thuận tiện cho người dân và du khách trong việc di chuyển, tham quan, mua sắm và đến các bãi tắm Việc đưa vào hoạt động tuyến xe buýt không chỉ giúp giảm thiểu tai nạn giao thông bằng cách khuyến khích người dân hạn chế sử dụng phương tiện cá nhân như xe máy, mà còn tạo nên hình ảnh văn minh, hiện đại cho khu du lịch, đồng thời góp phần bảo vệ môi trường tại Khu Di Tích Quốc Gia Cát Bà.

*Hệ thống giao thông đ-ờng thuỷ

Giao thông đ-ờng thuỷ đ-ợc phát triển đồng bộ để phục vụ cho việc phát triển kinh tế đặc biệt là du lịch của huyện đảo cũng nh- KDTSQ

Tuyến đường xuyên đảo Hải Phòng - Cát Bà, được đưa vào sử dụng từ năm 2002, là tuyến đường xuyên đảo đầu tiên của Việt Nam Tuyến đường này kết nối qua hai phà Đình Vũ và Bến Gót, mang lại sự thuận tiện cho du khách Ngoài ra, du khách cũng có thể lựa chọn nhiều công ty vận tải khác nhau để đến với Cát Bà.

1, Xe kết hợp với tàu cao tốc

1.1.Công ty TNHH vận tải Hoàng Long Địa chỉ:số 4 Lê Thánh Tông, Hải Phòng;đ-ờng 1/4 thị trấn Cát Bà

1.2.Công ty TNHH vận tải du lịch Cát Bà Địa chỉ: đ-ờng 1/4, thị trấn Cát Bà

2.1 HTX vận tải Thống Nhất ( tàu Thống Nhất ) Địa chỉ: số 1C đ-ờng Bến Bính, Hải Phòng

2.2 Công ty cổ phần vận tải và du lịch Hải Phòng ( tàu Mekong Hoàng Yến và Hoàng Yến ‟ Tân Hải ) Địa chỉ: số 1 đ-ờng Bến Bính, Hải Phòng

2.3 Công ty công nghiệp tàu thuỷ và xây dựng Hồng Bàng tàu

Visdemco có địa chỉ tại số 6, đường Bến Bính, Hải Phòng và đường 1/4, thị trấn Cát Bà Vào ngày 31/3/2009, bến phà Gia Luận - Tuần Châu, Quảng Ninh đã chính thức được khánh thành và đưa vào sử dụng, phục vụ du lịch cho khu vực Để tạo điều kiện thuận lợi cho du khách đến Cát Bà, hệ thống giao thông đã được cải thiện đáng kể trong năm qua, bao gồm việc mở mới các điểm xuất phát và khai trương tuyến tàu cao tốc Đồ Sơn - Hòn Dáu - Cát Bà.

Năm 2009, công ty TNHH vận tải du lịch Cát Bà đã khai trương tuyến vận tải thủy mới, phục vụ khách du lịch từ Cát Bà - Gia Luận đến Hòn Gai, Quảng Ninh, nhằm khám phá vẻ đẹp của vịnh Hạ Long.

Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng với hàng trăm lượt khách tham gia, công ty thường xuyên tăng cường từ 3 đến 5 chuyến vận tải mới Cùng với các đơn vị vận tải thủy khác, tuyến từ nội thành Hải Phòng ra đảo Cát Bà bằng tàu thủy và tàu cao tốc của các hãng Hoàng Yến, Hoàng Long, Thống Nhất đã mở ra tuyến vận tải mới đi Hạ Long, góp phần phát triển hợp tác và liên kết hiệu quả cho tuyến du lịch trọng điểm Cát Bà - Hạ Long.

Hiện nay, đội tàu du lịch trên vịnh Cát Bà có 58 chiếc, trong đó 16 chiếc chuyên tuyến Hải Phòng - Cát Bà Sự nâng cấp tàu thuyền đã góp phần tăng lượng khách du lịch đến Cát Bà, với 2.598 lượt khách cập Bến Bèo và 1.569 lượt khách tại Gia Luận vào năm 2008 Đội xe ôtô du lịch gồm 35 chiếc cùng hàng trăm xe gắn máy cũng phục vụ nhu cầu của khách Ngành giao thông vận chuyển hành khách đã nỗ lực đầu tư và nâng cao chất lượng phục vụ, rút ngắn thời gian di chuyển cho du khách Đặc biệt, sân bay Cát Bi mở đường bay thẳng đến Hồng Kông (Ma Cao) từ năm 2006 đã thu hút lượng lớn khách du lịch đến Cát Bà mỗi mùa du lịch.

Theo kế hoạch, thành phố Hải Phòng sẽ xây dựng một cây cầu nối từ cảng Đình Vũ đến huyện Cát Hải, kết nối với đường cao tốc 5B (đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng) thứ hai từ cầu Thanh Trì.

Hà Nội Vì thế, thời gian đi từ Hà Nội đến Cát Bà sẽ đ-ợc rút ngắn lại, chỉ mất khoảng chừng ch-a tới 3h đồng hồ

Việc sắp xếp giờ tàu khởi hành tại các bến tàu Hải Phòng chưa phù hợp với thời gian nghỉ và trả phòng của khách, trong khi giá vé tàu không đồng nhất và phương tiện vận chuyển từ Hải Phòng đến Cát Bà đã cũ Phà Đình Vũ - Ninh Tiếp hoạt động không hiệu quả, thời gian chạy chậm và chưa đảm bảo an toàn giao thông, đặc biệt vào mùa hè khi thường chở quá số lượng khách cho phép Đội ngũ phục vụ còn thiếu nghiệp vụ du lịch và ngoại ngữ Về hạ tầng điện, từ năm 1998, đường dây điện 35 KV đã được hoàn thành, cung cấp điện cho đảo Cát Hải và thị trấn Cát Bà, và mạng lưới điện đã được mở rộng để đảm bảo cung cấp điện cho toàn khu vực.

Thực trạng khai thác tài nguyên du lịch tại khu dự trữ

Cát Bà hiện nay nổi bật với nhiều loại hình du lịch như du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, tham quan, thể thao mạo hiểm và cộng đồng Trong đó, du lịch sinh thái và tham quan đang phát triển mạnh mẽ nhờ vào Vườn Quốc gia và Khu Dự trữ Sinh quyển Quốc tế Điều này thu hút lượng lớn khách du lịch, cả trong nước lẫn quốc tế Tuy nhiên, du lịch Cát Bà vẫn chưa khai thác tối đa tiềm năng của nguồn tài nguyên tự nhiên, cần phát triển thêm nhiều loại hình du lịch hấp dẫn và đa dạng hơn.

Có nh- vậy mới thu hút đ-ợc nhiều khách đến với KDTSQ Cát Bà Loại hình du lịch thể thao mạo hiểm ch-a đ-ợc khai thác mạnh

Các tuyến du lịch hiện đang khai thác:

+ Tuyến trung tâm v-ờn - động Trung Trang

+ Tuyến trung tâm v-ờn ‟ rừng Kim Giao - đỉnh Ngự Lâm (2,5 giờ) + Tuyến trung tâm v-ờn ‟ tuyến đ-ờng giáo dục môi tr-ờng

+ Tuyến trung tâm v-ờn ‟ Ao ếch (6 km) ‟ Việt Hải (3km) ‟ vịnh Lan Hạ - thị trấn Cát Bà

+ Tuyến du lịch sinh thái biển thị trấn Cát Bà - vịnh Lan Hạ

+ Tuyến du lịch biển thị trấn Cát Bà - vịnh Lan Hạ - vịnh Hạ Long

Bảng 5 : Số l-ợng khách du lịch đến Cát Bà giai đoạn 2001 – 2005 và dự báo l-ợng khách giai đoạn 2006 - 2010 Đơn vị:l-ợt khách

Năm L-ợt khách du lịch Khách n-ớc ngoài

So với bảng kế hoạch, thực tế mà du lịch Cát Bà đạt đ-ợc t-ơng đ-ơng, thể hiện ở bảng sau:

Bảng 6 : L-ợng khách và doanh thu du lịch Cát Bà

STT Các chỉ tiêu Thực hiện n¨m

1.1 Khách quốc tế 66.500 118.000 122.000 171.000 224.000 232.000 1.2 Khách nội địa 154.000 210.000 313.000 329.000 505.000 518.000

2.1 Khách quốc tế 94.900 146.300 157.500 207.800 363.700 370.400 2.2 Khách nội địa 228.600 293.500 495.200 535.100 530.800 531.600

3 Tổng doanh thu từ du lịch(tỷ đồng)

(Nguồn : UBND Huyện Cát Hải)

Chủ tịch UBND huyện Cát Hải, Phạm Xuân Hoè, cho biết rằng năm 2008, Cát Bà đã thu hút gần 800.000 lượt khách du lịch, với doanh thu đạt gần 180 tỷ đồng, một con số đáng tự hào Ông nhấn mạnh rằng cách đây hơn mười năm, không ai nghĩ Cát Bà có thể phát triển mạnh mẽ như hiện nay.

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của huyện đảo Cát Bà giai đoạn 2000 - 2010 đã mang lại những kết quả khả quan cho ngành du lịch, biến đây thành ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp lớn vào ngân sách địa phương và tạo ra nhiều việc làm cho người dân Kể từ năm 2002, việc khánh thành đường bộ xuyên đảo đã thu hút đông đảo du khách từ Hà Nội, Hải Phòng và các khu vực lân cận, cùng với sự gia tăng lượng khách quốc tế Trong 9 tháng đầu năm 2008, Cát Bà đón 664.000 lượt khách, đạt 83% kế hoạch năm và tăng 6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách quốc tế chiếm 31%.

Năm 2009, Cát Bà đặt mục tiêu đón từ 850.000 đến 900.000 lượt khách Tuy nhiên, do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, trong quý 1 năm 2009, tổng số khách du lịch đến Cát Bà chỉ đạt 116.000 lượt, tương đương 14% kế hoạch năm.

Cát Bà thu hút nhiều khách du lịch trong nước, chủ yếu từ thành phố, thủ đô Hà Nội và các tỉnh khác Đối tượng khách chủ yếu là những người đến nghỉ mát vào cuối tuần, bao gồm thương nhân, cán bộ nhà nước, sinh viên và học sinh.

Mặc dù Cát Bà có tiềm năng du lịch, nhưng sự thiếu hụt sản phẩm du lịch đa dạng và hấp dẫn đã ảnh hưởng đến khả năng giữ chân khách lưu trú Nhiều đoàn khách nội địa chỉ tham quan trong ngày, dẫn đến việc giảm số ngày lưu trú trung bình của họ xuống chỉ còn 1,5 ngày.

KDTSQ Cát Bà, gần Quảng Ninh và có cửa khẩu quốc tế, thu hút lượng lớn du khách từ Trung Quốc Nằm trên tuyến đường biển quốc tế, Cát Bà đã chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ về số lượng khách quốc tế trong những năm qua, với số ngày lưu trú của du khách cũng ngày càng gia tăng.

Khách Trung Quốc chiếm 37% tổng số khách quốc tế đến Cát Bà, trong khi khách từ các nước khác chủ yếu là Tây ba lô châu Âu với khả năng chi trả thấp và thời gian lưu trú trung bình chỉ 1,27 ngày Trước đây, khách du lịch chủ yếu là từ Mỹ, Anh, Đức và Canada Hiện nay, Cát Bà đang tăng cường quảng bá để khai thác thị trường khách ASEAN và các thị trường có nhu cầu thanh toán cao như Nhật Bản, Trung Quốc và Tây Âu.

2.3.3.Thực trạng về doanh thu du lịch

Theo thống kê của UBND huyện Cát Hải, doanh thu từ du lịch Cát Bà đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ, từ 43 tỷ đồng năm 2004 lên 54 tỷ đồng năm 2006 và 181 tỷ đồng năm 2007 Sự gia tăng này chủ yếu đến từ lượng khách quốc tế có khả năng chi trả cao Hoạt động du lịch không chỉ tạo ra hàng nghìn việc làm cho người dân trên đảo mà còn thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế khác như xây dựng, thủy sản, giao thông vận tải, thương mại và dịch vụ bưu chính viễn thông.

2.3.4.Thực trạng về bảo vệ môi tr-ờng

KDTSQ Cát Bà đã trở thành một điểm du lịch quan trọng tại Hải Phòng trong nhiều năm qua Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ của ngành du lịch và dịch vụ đã gây áp lực đáng kể lên môi trường tự nhiên của Cát Bà.

Cuối năm 2008, Ban quản lý VQG Cát Bà đã khảo sát trên 300 lượt khách về tác động đến môi trường tự nhiên trong và ngoài VQG, trong đó 70% ý kiến cho rằng nguyên nhân chính là hoạt động du lịch và cộng đồng địa phương Các nguồn gây ô nhiễm bao gồm rác thải và nước thải, mặc dù chưa nghiêm trọng nhưng đã có dấu hiệu ảnh hưởng đến động, thực vật biển Hệ thống khách sạn, nhà nghỉ, và hàng nghìn lồng nuôi hải sản không theo quy hoạch đã làm xấu mỹ quan và gây ô nhiễm môi trường biển Đánh giá của du khách cho thấy hệ thống thu gom rác thải và nước thải chưa hiệu quả, với số lượng thùng rác hạn chế và thiếu khu vệ sinh công cộng Hoạt động của hàng ngàn tàu đánh cá và tàu chở khách cũng gây ô nhiễm nghiêm trọng, làm nước biển biến màu và ảnh hưởng đến du lịch cũng như sự sống của các rạn san hô.

2.3.4.Tác động của hoạt động du lịch đến KDTSQ Cát Bà a.Tác động tích cực

Ngành du lịch đã đóng góp đáng kể vào việc cải thiện kinh tế xã hội của khu vực, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế khác như xây dựng Để đáp ứng nhu cầu đi lại của du khách, cả trong và ngoài thành phố, ngành du lịch cần không ngừng phát triển và cải thiện dịch vụ.

Năm 2002, tuyến đường xuyên đảo được khánh thành, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao thương giữa đất liền và đảo Nhiều tuyến đường liên xã, trục đường trung tâm, bến cảng và bến thuyền cũng đã được nâng cấp cải tạo Bên cạnh đó, các cơ sở lưu trú và trung tâm vui chơi giải trí mới được xây dựng, góp phần làm thay đổi diện mạo thị trấn từng ngày.

Khách du lịch đến Cát Bà không chỉ tìm kiếm trải nghiệm tham quan và nghỉ dưỡng mà còn mong muốn thưởng thức các món ăn hải sản đặc trưng, từ đó thúc đẩy sự phát triển của ngành nuôi trồng thủy sản Ngành du lịch cũng góp phần quan trọng trong việc xuất khẩu hải sản tại chỗ.

Thêm vào đó, du lịch còn có khả năng kích cầu, tăng tiêu thụ sản phẩm tại KDTSQ Cát Bà

Du lịch đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra nguồn thu nhập cho huyện đảo, thông qua việc thu thuế từ các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch và lệ phí tham quan.

Du lịch cũng là nguyên tố chính thu hút các nguồn vốn đầu t- trong và ngoài n-ớc tới huyện đảo

Mục tiêu phát triển Cát Bà đến năm 2020

* Dựa trên chiến l-ợc cơ bản về định h-ớng quy hoạch kinh tế ‟ xã hội toàn huyện Cát Hải đó là:

Khai thác tối đa tiềm năng kinh tế biển, du lịch và dịch vụ để phát triển huyện đảo Cát Hải, hướng tới một nền kinh tế vững mạnh, đảm bảo quốc phòng và an ninh, đồng thời bảo vệ môi trường trong sạch Mục tiêu là nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, mang lại sự ấm no, hạnh phúc và văn minh cho cộng đồng.

‟ Đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đô thị hoá, kết hợp sự phát triển nông thôn, hỗ trợ các xã khó khăn cùng phát triển

‟ Phát triển kinh tế xã hội phải kết hợp với bảo vệ môi tr-ờng sinh thái

‟ Kết hợp kinh tế với quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội kể cả trên đảo cũng nh- ngoài khơi

Mục tiêu chủ yếu của huyện đảo Cát Hải nói chung:

Mục tiêu tổng quát là phát triển kinh tế xã hội với hiệu quả cao, đồng thời đảm bảo sự phát triển bền vững, nhằm giảm thiểu sự chênh lệch về GDP/người giữa Cát Hải và Hải Phòng.

Đến năm 2010, GDP bình quân đầu người đã tăng khoảng 4,5 lần so với năm 2000, giúp giảm thiểu sự chênh lệch về mức GDP/người giữa Cát Hải và Hải Phòng xuống còn khoảng 90-95%.

Thực hiện hiệu quả các chương trình quốc gia và thành phố nhằm thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ trong các lĩnh vực văn hóa, y tế, giáo dục và các vấn đề xã hội khác.

Bảng 7: Dự báo cơ cấu và nhịp độ tăng GDP giai đoạn 2001 – 2010 trong các ngành kinh tế

STT Ngành Cơ cấu Nhịp độ tăng b×nh qu©n/n¨m

(Nguồn: Viện nghiên cứu phát triển du lịch)

Cơ cấu kinh tế của huyện sẽ chuyển dịch và phát triển theo ba lĩnh vực chính: du lịch và dịch vụ, công nghiệp thủy sản, và cơ sở hạ tầng Định hướng phát triển sẽ tập trung vào việc lựa chọn các khâu đột phá trong ba lĩnh vực này.

* Định h-ớng phát triển các ngành kinh tế biển:

Kinh tế biển đóng vai trò then chốt trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Cát Bà và Hải Phòng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa.

Phát triển kinh tế biển cần khai thác và sử dụng hiệu quả các giá trị tự nhiên, với cách tiếp cận liên ngành nhằm phát triển tổng hợp Mục tiêu là làm giàu nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường và duy trì cân bằng sinh thái, từ đó hướng tới sự phát triển bền vững.

Phát triển kinh tế biển cần tập trung vào việc cơ cấu lại sản xuất sao cho phù hợp với giá trị tài nguyên, từ đó đẩy mạnh đầu tư chiều sâu vào các ngành kinh tế biển.

Mục tiêu phát triển của Hải Phòng, đặc biệt là huyện Cát Hải với trung tâm là quần đảo Cát Bà, là trở thành một trong ba trung tâm kinh tế biển hàng đầu của cả nước Đây sẽ là cửa ngõ quan trọng cho vùng duyên hải và đồng bằng Bắc Bộ.

H-ớng phát triển kinh tế biển:

Khai thác nguồn tài nguyên đa dạng và phát triển du lịch là mục tiêu quan trọng để tạo ra một quần thể du lịch biển cạnh tranh ở cấp quốc gia và khu vực Đông Nam Á Đặc biệt, cần phát triển du lịch sinh thái kết hợp giữa rừng và biển tại đảo Cát Bà, biển và đồng bằng ở Phù Long, cùng với du lịch thuần biển tại Bạch Long Vĩ.

‟ Phát triển đánh bắt, nuôi trồng đặc sản biển

Chính phủ đã phê duyệt 5 chương trình khuyến ng- nhằm phổ cập kiến thức về phòng chống dịch bệnh, bảo vệ môi trường và tài nguyên sinh vật Đồng thời, cần phát triển nhanh chóng các cơ sở hậu cần phục vụ cho nghề cá vịnh Bắc Bộ.

Khai thác hải sản ngoài khơi đang được chú trọng nhằm tăng tỷ trọng và hiệu quả Để đạt được điều này, cần cơ cấu lại nghề nghiệp theo hướng áp dụng công nghệ mới.

Nuôi trồng đặc sản tại Cát Bà đang được triển khai mạnh mẽ với sự liên kết chặt chẽ với Bộ Hải sản Áp dụng công nghệ cao từ khâu sản xuất giống đến nuôi trồng, khu vực 5.400ha mặt nước mặn sẽ được khai thác để nuôi ngọc trai, cá song và tôm biển Đồng thời, việc bảo vệ và khai thác hợp lý nguồn lợi từ tu hài, bào ngư, hải sâm cũng được chú trọng nhằm đảm bảo sự bền vững cho ngành thủy sản.

Mở rộng quy mô đầu tư cho cụm hậu cần nghề cá Cát Bà nhằm tổ chức lại và hiện đại hóa trang thiết bị mạng thông tin liên lạc Điều này không chỉ đảm bảo sự phát triển bền vững của nghề cá mà còn góp phần bảo vệ an ninh và chủ quyền trên biển.

‟ Phát triển tổng hợp các ngành kinh tế dịch vụ biển bao gồm:

+ Dịch vụ cho thuỷ thủ

+ Cung ứng vật t-, l-ơng thực, n-ớc ngọt cho tàu biển, tàu cá

Dịch vụ an toàn hàng hải bao gồm việc đảm bảo luồng lạch, hiện đại hóa hệ thống phao tiêu và trang thiết bị cứu hộ trên biển Ngoài ra, dịch vụ này còn cung cấp bảo hiểm cho các hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế biển, nhằm tăng cường an toàn và hiệu quả trong việc khai thác tài nguyên biển.

+ Thông tin liên lạc ven biển, phục vụ hàng hải và cho nghề cá

+ Dịch vụ sửa chữa tàu cá

‟ Bảo vệ, xây dựng các khu bảo tồn tự nhiên trên biển bao gồm:

+ Hệ thống rừng m-a trên núi đá vôi trên đảo Cát Bà, bảo vệ và phát triển hệ động thực vật quý trong VQG

Các giải pháp phát triển du lịch sinh thái ở khu dự trữ

3.2.1.Giải pháp về tổ chức quản lý

KDTSQTG Cát Bà, được UNESCO công nhận, bao gồm nhiều phân khu khác nhau, yêu cầu khai thác và phát triển bền vững để bảo vệ cân bằng sinh thái Mỗi vùng trong khu dự trữ cần có hệ thống quản lý riêng biệt và phân chia rõ trách nhiệm về du lịch cho các cơ quan quản lý khu bảo vệ.

Vùng lõi của khu vực bảo tồn cần được quản lý và bảo vệ nghiêm ngặt, với sự hạn chế tối đa tác động của con người, ngoại trừ các hoạt động nghiên cứu và giám sát Do đó, việc áp dụng các chính sách quản lý và quy định chặt chẽ đối với vùng lõi của Vườn Quốc Gia là vô cùng cần thiết.

Vùng đệm là khu vực có vai trò quan trọng trong việc phát triển bền vững, bảo vệ môi trường và bảo tồn các khu vực cần thiết Tại Khu Dự trữ Sinh quyển Cát Bà, vùng đệm thường nằm ở những địa điểm xa xôi với những bãi biển tuyệt đẹp, chiếm phần lớn diện tích của quần đảo Để quản lý hiệu quả khu vực này, cần áp dụng các kế hoạch quản lý phù hợp nhằm đảm bảo sự phát triển hài hòa với việc bảo vệ thiên nhiên.

„ Giao cho tư nhân đầu tư quản lý theo sự hướng dẫn của Ban quản lý KDTSQ

Thực hiện các phương án giao đất và giao rừng, hỗ trợ nông dân phát triển kinh tế, đồng thời khuyến khích họ tham gia vào các hoạt động du lịch sinh thái một cách hợp lý.

Tất cả các hoạt động của du khách trong vùng đệm đều yêu cầu có giấy phép hoặc visa nhập cảnh, trong đó cần nêu rõ thời gian lưu trú, địa điểm đến, cũng như các khu vực cắm trại và nơi nghỉ ngơi, bao gồm cả trong rừng hoặc tại nhà dân.

Thành lập hiệp hội du lịch tại các xã nhằm thống nhất phát triển và bảo tồn tài nguyên du lịch, đồng thời điều phối các dịch vụ như bán hàng lưu niệm, cho thuê phòng trọ và hướng dẫn du lịch Điều này không chỉ đảm bảo vệ sinh môi trường mà còn hướng tới sự phát triển bền vững trong ngành du lịch.

Vùng chuyển tiếp cho phép duy trì hoạt động kinh tế, tạo cơ hội cho cộng đồng địa phương và các tổ chức tham gia khai thác giá trị để phát triển kinh tế và du lịch Quản lý khu vực này cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên nhằm đảm bảo phát triển bền vững Cấp quản lý nhà nước, thành phố và địa phương cần ban hành cơ chế chính sách rõ ràng, quy định trách nhiệm của các tổ chức và giới hạn phát triển cho từng khu vực, nhằm phát triển kinh tế đồng thời bảo tồn giá trị tự nhiên theo quy định quốc tế Các bộ phận quản lý khu vực có trách nhiệm đề xuất chiến lược và xây dựng quy định về cơ chế quản lý, bao gồm hình thức thưởng, phạt cụ thể cho việc bảo vệ và phát triển khu dự trữ Chính sách cũng phải xử lý các hành vi gây hại đến môi trường, nâng cao trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân trong việc bảo vệ tính toàn vẹn của Khu Dự trữ Sinh quyển Cát Bà.

Các chính sách và cơ chế đào tạo cho cán bộ công nhân viên trong ngành bao gồm nâng cao trình độ nghiệp vụ về quản lý, nghiên cứu khoa học, bồi dưỡng ngoại ngữ và khuyến khích tính sáng tạo Điều này giúp họ có khả năng đề xuất và giải quyết các vấn đề chiến lược hiệu quả.

3.2.2.Giải pháp về tăng c-ờng hợp tác và kêu gọi vốn đầu t-

Ngành du lịch mang tính chất liên ngành, do đó, việc phối hợp giữa các lĩnh vực liên quan là rất quan trọng để đảm bảo sự bền vững Cần tăng cường liên kết và hợp tác quốc tế, đặc biệt khi Khu du lịch sinh thái Cát Bà đã được phát triển.

Cát Bà đã tích lũy được nhiều bài học kinh nghiệm quý giá và nhận được nguồn vốn đầu tư hỗ trợ cho sự phát triển du lịch bền vững, đồng thời bảo vệ môi trường, mang lại lợi ích lâu dài cho cộng đồng.

Tại hội thảo hợp tác phát triển du lịch Hải Phòng 2008, các đại biểu đã đánh giá tiềm năng du lịch của thành phố Đại diện từ Bộ Văn hóa, Thông tin và Du lịch cùng các tỉnh thành đã đóng góp ý kiến nhằm phát triển ngành du lịch Ban quản lý KDTSQTG Cát Bà nên tổ chức các hội thảo tương tự để thu thập ý kiến từ các địa phương khác, đồng thời tạo cơ hội quảng bá du lịch khu vực.

Tạo môi trường đầu tư thuận lợi nhằm thu hút vốn từ cả doanh nghiệp trong nước và tổ chức nước ngoài là rất quan trọng Cần có các chính sách ưu đãi như vay vốn ưu đãi và miễn giảm thuế trong những năm đầu cho các dự án phát triển du lịch sinh thái.

Để thu hút nhân tài và các chuyên gia cho dự án phát triển du lịch sinh thái tại KDTSQ, cần xây dựng và ban hành nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi và khuyến khích Đồng thời, cần ưu tiên tuyển dụng người dân địa phương trong khu vực dự trữ, nhằm tạo việc làm và nâng cao chất lượng cuộc sống cho họ Hành động này sẽ giúp hạn chế các tác động tiêu cực của người dân đối với môi trường sinh thái tự nhiên.

Du khách đến Cát Bà có thể tham gia nhiều tour như đi bộ, đi thuyền và leo núi, tạo điều kiện tuyệt vời để ngắm cảnh thiên nhiên và chinh phục đỉnh cao Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng và vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn là một trở ngại lớn cho hoạt động du lịch Với thực trạng đầu tư hiện nay, phát triển du lịch sinh thái tại VQG Cát Bà gặp nhiều khó khăn Để phát huy tiềm năng du lịch sinh thái, cần chú trọng vào việc thu hút đầu tư, huy động mọi thành phần kinh tế và nguồn lực từ dân, phối hợp với ngân sách nhà nước Đồng thời, cần có kế hoạch kêu gọi viện trợ đầu tư từ nước ngoài và các tổ chức quốc tế.

3.2.3.Giải pháp về môi tr-ờng Để quản lý và bảo vệ tốt môi tr-ờng tự nhiên của KDTSQTG Cát Bà, phát triển các loại hình du lịch sinh thái một cách hiệu quả, các cơ quan chức năng cùng với các tổ chức, cá nhân phải tuân thủ và áp dụng theo đúng các nguyên tắc chỉ đạo về du lịch sinh thái Nguyên tắc này bao gồm nhiều đối t-ợng có tham gia vào hoạt động du lịch sinh thái nh-: khách du lịch, các nhà điều hành, h-ớng dẫn viên du lịch, các cơ sở kinh doanh l-u trú và ăn uống, các nhà quản lý

Một số kiến nghị

 Kiến nghị với Tổng cục

Tổng cục Du lịch đã hỗ trợ Cát Bà trong việc quảng bá du lịch thông qua chương trình hành động quốc gia, đặc biệt khi Cát Bà được công nhận là Khu Di sản Thiên nhiên Thế giới.

Cát Bà đang được phát triển thành một trung tâm du lịch quan trọng, với mục tiêu thu hút nguồn vốn đầu tư để nâng cao cơ sở hạ tầng và đào tạo nguồn nhân lực, đồng thời tăng cường hoạt động quảng bá cho du lịch tại khu vực này.

Giúp thành phố Hải Phòng xây dựng quy hoạch chi tiết cho Cát Bà để tránh sự phát triển thiếu quy hoạch nh- thời gian qua

 Kiến nghị với thành phố

Thành phố và Sở du lịch đang tích cực hỗ trợ phát triển các sản phẩm du lịch và xây dựng thương hiệu cho hàng hóa phục vụ khách du lịch, bao gồm thịt dê và một số loại hải sản như tu hài, cá mực, cá thu Các sản phẩm thủy hải sản chế biến mang thương hiệu Cát Bà được giới thiệu đến du khách Đặc biệt, "Mật ong Cát Bà" đã được Bộ Khoa học và Công nghệ công nhận thương hiệu, được sản xuất từ giống ong "nội", một trong ba loài ong quý hiếm nhất thế giới chỉ có tại VQG Cát Bà.

Ví dụ: có chính sách cho ng-ời dân vay vốn để đầu t- cho du lịch nh- đóng tàu du lịch thăm vịnh…

Thành phố cần xây dựng mức thu lệ phí du lịch hợp lý để có kinh phí bảo tồn và phát triển du lịch Cát Bà Đề nghị UBND thành phố chỉ đạo các ngành liên quan thực hiện thủ tục theo quy định của luật Du lịch hiện hành để trình Chính phủ thành lập khu du lịch quốc gia Cát Bà, nhằm quản lý và khai thác tài nguyên bền vững Cần sớm ban hành quy chế quản lý khai thác tài nguyên du lịch trên quần đảo Cát Bà, đồng thời quy hoạch lại việc nuôi cá lồng bè trên Vịnh để đảm bảo phát triển đa ngành và an toàn cho du khách UBND thành phố cũng nên đầu tư tạo cảnh quan môi trường tại các khu vực như Cửa VQG Cát Bà, cảng du lịch Bến Bèo, và xây dựng hệ thống xử lý nước thải, rác thải, cùng cầu tàu để bảo vệ đa dạng sinh học Cuối cùng, cần hỗ trợ huyện Cát Hải xây dựng các công trình cấp thoát nước và xử lý chất thải.

 Kiến nghị với chính quyền huyện, xã

Cát Bà cần nhận thức rõ tiềm năng tài nguyên du lịch để khai thác và sử dụng hợp lý, nhằm phát triển kinh tế huyện đảo và nâng cao đời sống người dân Đồng thời, việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và bản sắc văn hóa cũng rất quan trọng Cần tuyên truyền và giáo dục cộng đồng về trách nhiệm trong việc khai thác và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.

Sở Du lịch và huyện đang đề xuất với Ủy ban nhân dân thành phố xây dựng và phát triển Cát Bà thành trung tâm du lịch quốc tế, khẳng định vị thế của đảo Ngọc trong lòng thành phố.

Tăng c-ờng tiềm lực cho hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm soát môi tr-êng

Xây dựng quy chế bảo vệ môi trường cho khu du lịch và toàn huyện là cần thiết Đồng thời, phát triển tuyến đường Phù Long qua Gia Luận sẽ tạo ra vành đai mở rộng cho du lịch phía bắc đảo.

Nâng cấp tuyến phà Đình Vũ ‟ Ninh Tiếp để giảm bớt thời gian chờ đợi của khách khi ra Cát Bà

Phát triển bền vững không chỉ tập trung vào tăng trưởng kinh tế mà còn phải bảo đảm tính bền vững về sinh thái, xã hội và kinh tế để đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai Trong ngành du lịch, phát triển bền vững được hiểu là du lịch có tính khả thi về kinh tế mà không làm tổn hại đến tài nguyên, đặc biệt là môi trường tự nhiên và cấu trúc xã hội của cộng đồng địa phương.

Sự phát triển bền vững của du lịch phụ thuộc vào chất lượng môi trường và giá trị nguyên vẹn của tài nguyên thiên nhiên, văn hóa Các yếu tố như bản sắc văn hóa độc đáo và môi trường tự nhiên là điểm thu hút chính đối với du khách Tuy nhiên, môi trường và vẻ đẹp thiên nhiên đang bị đe dọa bởi những hành động thiếu hiểu biết về bảo vệ môi trường Ngày nay, du khách ngày càng nhạy cảm với tình trạng ô nhiễm và thoái hóa môi trường tại các điểm du lịch Nhiều nơi trên thế giới đang chứng kiến sự suy giảm du lịch do khai thác tài nguyên không hợp lý và ô nhiễm, từ chất thải sinh hoạt đến ô nhiễm không khí Suy giảm du lịch không chỉ là hệ quả của ngành này mà còn là trách nhiệm chung của toàn xã hội trong việc bảo vệ môi trường.

Kể từ khi Cát Bà được công nhận là Khu Dự trữ Sinh quyển Thế giới, lãnh đạo huyện Cát Hải, Hải Phòng đã triển khai mô hình liên kết phát triển du lịch sinh thái biển - đảo, góp phần thúc đẩy mô hình kinh tế chất lượng đang hoạt động hiệu quả tại đây.

Mô hình kinh tế biển đảo đang trở thành xu thế phát triển tại Cát Bà, thu hút hơn 200 nghìn lượt khách nội địa và 102 nghìn lượt du khách quốc tế Với sự liên kết giữa du lịch sinh thái biển đảo và ba mô hình kinh tế chất lượng, Cát Bà hứa hẹn sẽ trở thành điểm đến hấp dẫn, tạo nên những dấu ấn riêng cho du khách trong thời gian tới.

Trong những năm qua, du lịch sinh thái Cát Bà vẫn còn ở giai đoạn đầu phát triển, với khái niệm và hoạt động du lịch sinh thái chưa được phổ biến rộng rãi, dẫn đến hiệu quả chưa cao Tiềm năng phong phú của Cát Bà chưa được khai thác đầy đủ để thúc đẩy và mở rộng mô hình du lịch này Sự phát triển du lịch tự phát đã gây ra nhiều tác động tiêu cực, ảnh hưởng xấu đến môi trường của hòn đảo.

Với sự nỗ lực của chính quyền và nhân dân huyện đảo cùng sự hỗ trợ từ các tổ chức trong và ngoài nước, Cát Bà hứa hẹn sẽ trở thành điểm đến hấp dẫn cho các tour du lịch sinh thái, khẳng định vị trí hàng đầu trong các khu du lịch sinh thái tại Việt Nam trong tương lai.

Khu Dự Trữ Sinh Quyển Cát Bà được thiên nhiên ưu ái với cảnh sắc tuyệt đẹp và nguồn tài nguyên phong phú Du khách đến Cát Bà hôm nay không chỉ được thưởng thức vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên, mà còn tham gia vào các hoạt động du lịch sinh thái, cộng đồng và mạo hiểm hấp dẫn Việc được công nhận là Khu Dự Trữ Sinh Quyển Thế Giới là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử du lịch Cát Bà và Hải Phòng, khẳng định giá trị đa dạng sinh học của quần đảo này và mở ra cơ hội phát triển bền vững Sự công nhận này đánh dấu bước khởi đầu quan trọng cho chính quyền và người dân Hải Phòng trong việc bảo tồn và phát triển kinh tế xã hội một cách bền vững.

Cát Bà, với vẻ đẹp tự nhiên độc đáo và được UNESCO công nhận, đang thu hút ngày càng nhiều du khách đến tham quan và nghỉ dưỡng Sự phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái, đã tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế, dịch vụ và giáo dục tại địa phương Tuy nhiên, cần chú ý đến tác động môi trường trong quá trình phát triển du lịch Đa dạng sinh học, vẻ đẹp tự nhiên và giá trị văn hóa là tài sản quý giá của Cát Bà mà chúng ta cần bảo tồn cho các thế hệ tương lai Thành phố Hải Phòng và chính quyền huyện Cát Hải cam kết đưa Cát Bà trở thành một mô hình du lịch thân thiện với môi trường.

Ngày đăng: 05/08/2021, 21:47

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w