1. Trang chủ
  2. » Thể loại khác

Luận văn đặc điểm và giá trị văn hóa của dân tộc tày tại định hóa thái nguyên hiện trạng và giải pháp

70 9 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Luận Văn Đặc Điểm Và Giá Trị Văn Hóa Của Dân Tộc Tày Tại Định Hóa Thái Nguyên Hiện Trạng Và Giải Pháp
Trường học Trường Đại Học Thái Nguyên
Chuyên ngành Văn Hóa
Thể loại luận văn
Thành phố Thái Nguyên
Định dạng
Số trang 70
Dung lượng 1,99 MB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (2)
  • 2. Mục đích nghiên cứu (3)
  • 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu (4)
  • 4. Phương pháp nghiên cứu (4)
  • 5. Kết cấu của đề tài (4)
  • CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẶC ĐIỂM VÀ CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC (5)
    • 1.1 Một số vấn đề lý luận (5)
    • 1.2. Khái quát về huyện Định Hóa (7)
  • CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC TÀY TẠI ĐỊNH HÓA –THÁI NGUYÊN (15)
    • 2.1. Lịch sử hình thành và phân bố của người Tày tại Định Hóa (15)
    • 2.2. Đặc điểm và giá trị đời sống của người Tày tại Định Hóa (15)
    • 2.3. Đặc điểm và giá trị văn hóa của dân tộc Tày tại Định Hóa (25)
    • 2.4. Hiện trạng khai thác các giá trị văn hóa dân tộc Tày Tại Định Hóa (41)
  • CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC TÀY TẠI HUYỆN ĐỊNH HÓA – THÁI NGUYÊN (47)
    • 3.1. Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tộc người (47)
    • 3.2. Đầu tƣ xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch (51)
    • 3.3. Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ du lịch (52)
    • 3.4. Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền quảng bá phát triển du lịch (54)
    • 3.5. Đẩy mạnh phát triển du lịch (55)
    • 3.6. Xây dựng các chương trình du lịch văn hóa (57)
    • 3.7. Đề xuất và kiến nghị (58)
  • KẾT LUẬN (60)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (62)
  • PHỤ LỤC (63)

Nội dung

Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài này là khám phá các đặc điểm và giá trị tinh thần, văn hóa truyền thống của dân tộc Tày tại Định Hóa Qua đó, đề xuất giải pháp bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc, đồng thời phát triển du lịch cộng đồng tại Định Hóa, góp phần thúc đẩy du lịch thành phố Thái Nguyên Những giải pháp này nhằm thu hút khách du lịch trong và ngoài nước đến tìm hiểu văn hóa các dân tộc, đặc biệt là văn hóa độc đáo của dân tộc Tày.

Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các đặc điểm về đời sống và văn hóa của dân tộc Tày, nhằm đưa ra các giải pháp phát triển du lịch cho địa phương và tỉnh Thái Nguyên.

Về không gian, địa điểm nghiên cứu : huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên

Về nội dung: các đặc điểm và giá trị văn hóa,đời sống của dân tộc tày.

Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp điều tra, trắc nghiệm

- Phương pháp phân tích, tổng hợp

Kết cấu của đề tài

Kết cấu của đề tài ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung chính của khóa luận tốt nghiệp bao gồm 3 chương:

Chương 1 Một số vấn đề lý luận cơ bản về đặc điểm và các giá trị văn hóa dân tộc

Chương 2 Đặc điểm và các giá trị văn hóa của dân tộc Tày tại Định Hóa- Thái Nguyên

Chương 3 Các giải pháp nhằm nâng cao các giá trị văn hóa của dân tộc Tày tại huyện Định Hóa – Thái Nguyên.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẶC ĐIỂM VÀ CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC

Một số vấn đề lý luận

* Khái niệm về dân tộc

Dân tộc, hay tộc người, là kết quả của quá trình phát triển lâu dài trong xã hội loài người Trước khi hình thành dân tộc, con người đã trải qua nhiều hình thức cộng đồng khác nhau, từ thị tộc đến bộ lạc và bộ tộc Hiện nay, khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều cách khác nhau, trong đó có hai nghĩa phổ biến nhất.

Dân tộc là một cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ, bền vững, với sinh hoạt kinh tế chung, ngôn ngữ riêng và những nét văn hóa đặc thù Dân tộc xuất hiện sau bộ lạc và bộ tộc, và trong nghĩa này, dân tộc được coi là bộ phận của quốc gia, nơi có nhiều dân tộc cùng tồn tại.

Dân tộc là cộng đồng người ổn định, hợp thành nhân dân một quốc gia, có lãnh thổ, quốc gia và nền kinh tế thống nhất Họ chia sẻ ngôn ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất quốc gia, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, cũng như truyền thống văn hóa và đấu tranh chung trong suốt lịch sử Như vậy, dân tộc chính là toàn bộ nhân dân của quốc gia đó, thể hiện mối liên kết sâu sắc giữa các thành viên trong xã hội.

Văn hóa có nhiều nghĩa khác nhau, từ việc chỉ trình độ học thức và lối sống đến việc phản ánh mức độ phát triển của xã hội qua các giai đoạn Theo cách hiểu rộng, văn hóa bao gồm tất cả các sản phẩm của con người, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại đến tín ngưỡng, phong tục và lối sống Văn hóa không chỉ bao gồm các khía cạnh phi vật chất như ngôn ngữ, tư tưởng và giá trị, mà còn cả các khía cạnh vật chất như nhà cửa, quần áo và phương tiện Cả hai khía cạnh này đều cần thiết để tạo ra sản phẩm và đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành văn hóa.

Văn hóa tộc người là tập hợp các giá trị vật chất và tinh thần được hình thành và tích lũy qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, phản ánh đời sống của các cư dân tộc người Dù điều kiện sống có thay đổi, văn hóa vẫn bao gồm di tích lịch sử, thắng cảnh, kiến trúc làng bản, nhà cổ và các hoạt động văn hóa, lễ hội, thu hút đông đảo khách du lịch đến tham quan và nghiên cứu.

Bản sắc văn hóa là đặc trưng cốt lõi của một cộng đồng, phản ánh lịch sử tồn tại và phát triển, giúp phân biệt các dân tộc Nó thể hiện qua nhiều lĩnh vực trong đời sống ý thức, bao gồm cội nguồn, tư duy, lối sống, xây dựng và bảo vệ đất nước, cũng như sự sáng tạo trong văn hóa và khoa học nghệ thuật.

Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam được hình thành từ những giá trị bền vững, kết tinh qua hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước Những nét đặc sắc này thể hiện sự gắn kết giữa cá nhân, gia đình và cộng đồng, cùng với lòng nhân ái và tinh thần bao dung Văn hóa Việt Nam còn phản ánh đạo lý, sự thực tế, cùng với sự cần cù và sáng tạo trong lao động, cũng như sự tế nhị trong ứng xử và giản dị trong lối sống.

*Sự cần thiết của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển và là linh hồn của mỗi quốc gia Trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, văn hóa Việt Nam không chỉ là một thực thể mà còn hình thành tâm hồn và bản lĩnh của người Việt Nhờ vào sự độc đáo và phong phú, nền văn hóa của chúng ta đã giữ vững bản sắc và không bị mai một hay đồng hóa.

Việt Nam có 54 dân tộc với những nét văn hóa đặc sắc, tạo nên bản sắc văn hóa phong phú cho từng vùng miền Tuy nhiên, xu hướng hội nhập hiện nay đang làm lai tạp các bản sắc văn hóa, đe dọa đến những giá trị truyền thống Do đó, cần thiết phải có các chính sách và phương hướng nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa qua nhiều hình thức khác nhau Bản sắc văn hóa các dân tộc không chỉ là tài nguyên du lịch phong phú mà còn giúp mọi người hiểu rõ hơn về nguồn gốc và giá trị văn hóa của mình, từ đó nâng cao ý thức bảo vệ và gìn giữ những nét đẹp truyền thống.

* Du lịch văn hóa dân tộc

Luật Du Lịch Việt Nam định nghĩa du lịch văn hóa là hình thức du lịch dựa trên bản sắc văn hóa dân tộc, trong đó có sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống.

Du lịch văn hóa gắn liền với bản sắc văn hóa dân tộc và truyền thống văn hóa, tạo nên đặc điểm nổi bật của loại hình du lịch này Những quốc gia và địa phương có truyền thống văn hóa phong phú thường sở hữu tiềm năng lớn về du lịch văn hóa Sự phát triển của du lịch văn hóa cần phải kết hợp với việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, đồng thời hài hòa giữa yếu tố truyền thống và hiện đại Việc tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới và ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ cũng là điều cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động du lịch.

Phát triển du lịch văn hóa cần gắn liền với lợi ích và sự tham gia của cộng đồng, nơi mà người dân là những người sáng tạo và gìn giữ giá trị di sản văn hóa Cộng đồng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra nguồn tài nguyên đa dạng cho du lịch văn hóa Do đó, sự hợp tác giữa cộng đồng, các cơ quan quản lý, tổ chức du lịch và du khách là cần thiết để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa truyền thống, đồng thời tạo ra giá trị văn hóa mới, góp phần làm phong phú thêm tài nguyên cho du lịch văn hóa.

Khái quát về huyện Định Hóa

1.2.1 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên Định Hoá là huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên, nằm trong khoảng toạ độ 105 o 29” đến 105 o 43” kinh độ đông, 21 o 45”đến 22 o 30” vĩ độ bắc; phía tây - tây bắc giáp tỉnh Tuyên Quang, bắc - đông bắc giáp tỉnh Bắc Cạn, nam - đông nam giáp huyện Đại Từ, Phú Lương; huyện lỵ là thị trấn Chợ Chu, cách thành phố Thái Nguyên 50 km về phía tây bắc Địa hình huyện Định Hoá khá phức tạp và tương đối hiểm trở, ở dạng núi thấp, đồi cao Xen giữa các dãy núi đá vôi và đồi, núi đất là những cánh đồng hẹp Hướng địa hình thấp dần từ tây bắc xuống đông nam, phân làm hai vùng Vùng núi bao gồm các xã ở phía bắc huyện Vùng này có các dãy núi cao từ 200 đến 400m so với mặt biển, thuộc phần cuối của dãy núi đá vôi cánh cung Sông Gâm, chạy theo Hướng tây bắc - đông nam, từ phía bắc qua trung tâm huyện đến xã Trung Hội, tạo nên bức tường thành ở phía đông thị trấn Chợ Chu và những thung lũng nhỏ hẹp Nhiều hang động trong các dãy núi đá này có những nhũ đá hình thù kỳ thú, đẹp mắt Vùng núi thấp bao gồm thị trấn Chợ Chu và các xã ở phía nam Đây là vùng núi đất, có độ cao từ 50 đến dưới 200m, độ thoải lớn, có nhiều rừng già và những cánh đồng tương đối rộng, phì nhiêu Định Hoá có 520.75km2 ha đất tự nhiên, trong đó: 99.29km2đất nông nghiệp, 221.7km2 ha đất lâm nghiệp, 8.46km2 đất chuyên dùng, 7.33km2 đất ở,183.98km2 đất chƣa sử dụng Thành phần của đất đƣợc chia ra làm 5 loại chính: Đất thuộc loại hình Mác mƣa chua, chủ yếu là Grnid, Đất Zera lid nâu đỏ phát triển trên đá gabvô, Đất dốc tụ và Đất phù sa suối phân bố tập trung hai bên các sông, suối trong huyện, tạo thành những cánh đồng vừa và nhỏ Định Hoá có khí hậu nhiệt đới, chia làm hai mùa Mùa nóng từ tháng 4 đến tháng 10 hàng năm Mùa lạnh từ tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau Là huyện có độ ẩm khá cao, trừ tháng 1, các tháng còn lại độ ẩm đều trên 80% Những tháng có độ ẩm cao nhất là tháng 3 tháng 4 và tháng 8 - những tháng có mưa phùn, mưa ngâu, độ ẩm thường từ 85% trở lên Trong đó có hai loại gió chính thổi theo mùa: gió mùa đông bắc, thời gian ảnh hưởng trùng với mùa lạnh Mỗi khi có những đợt gió mùa đông bắc tràn về nhiệt độ thường hạ xuống đột ngột, làm cho thời tiết rất lạnh, đôi khi xuất hiện sương muối, rất có hại cho sức khoẻ con người và sự phát triển của cây trồng Gió mùa đông nam, thời gian ảnh hưởng trùng với mùa nóng, mang theo hơi nước từ biển Đông vào gây ra mưa lớn Lƣợng mƣa trung bình hàng năm (trong 5 năm 1995-1999) của Định Hoá vào khoảng 1.655mm

Định Hoá có ba hệ thống dòng chảy chính: Sông Chợ Chu, Sông Công (thượng nguồn trên đất Định Hoá) và Sông Đu (phần chảy trên địa bàn huyện thuộc thượng nguồn) Những dòng sông này cung cấp nguồn nước quan trọng cho toàn huyện.

Thảm thực vật của Định Hoá rất phong phú với nhiều tiềm năng kinh tế, bao gồm các loại lâm sản quý như gỗ nghiến, lim, lát, sến, cùng với tre, nứa, vầu, trám Khu vực phía nam còn nổi bật với cây cọ, lá lợp nhà, cuộng làm mành, và thân cây bền chắc cho kèo, xà nhà Tuy nhiên, sự đa dạng động vật rừng đã giảm sút đáng kể do rừng bị thu hẹp nhanh chóng, dẫn đến cạn kiệt tài nguyên và sự biến mất của nhiều loài quý hiếm như hổ, báo, và gấu.

1.2.2 Đặc điểm kinh tế - xã hội Định Hóa là mảnh đất giàu tiềm năng phát triển kinh tế, xã hội và có vị trí chiến lƣợc về quân sự, nơi đây cũng là nơi tụ cƣ của nhiều dân tộc Cho đến nay, Định Hóa trở thành nơi sinh sống của các dân tộc: Tày, Nùng, Kinh, Dao, Cao Lan - Sán Chí, Hoa, Sán Dìu, Mông, Mường Các dân tộc này cư trú gần gũi với nhau, cùng nhau đoàn kết bảo vệ và xây dựng quê hương Định Hóa

Huyện Định Hóa có diện tích đất nông nghiệp 9.929 ha và đất lâm nghiệp 22.169 ha, xác định nông - lâm nghiệp, kinh tế đồi rừng và trạng trại là những thế mạnh chính Đất đồi rừng tại đây rất thích hợp cho việc trồng chè, mang lại năng suất và sản lượng lớn Việc tìm kiếm giống chè có giá trị kinh tế cao sẽ là hướng đi hiệu quả cho địa phương Với nguồn nguyên liệu phong phú cho ngành công nghiệp chế biến gỗ cùng lực lượng lao động dồi dào, Định Hóa là địa điểm lý tưởng để phát triển ngành công nghiệp này Huyện có 24 đơn vị hành chính cấp xã/phường, bao gồm 1 thị trấn và 23 xã.

1.2.3 Một số điểm du lịch tại định hóa Đến với Định Hóa là đến với vùng đất của lịch sử Khu di tích lịch sử ATK Định Hóa trong thời kỳ chống Pháp nơi ở và làm việc của chủ tịch Hồ Chí Minh, nơi ở và làm việc của đồng chí Trường Chinh, nơi thành lập Việt Nam Giải phóng quân, Nhà tù Chợ chu… đã đƣợc xếp hạng cấp Quốc gia, đƣợc phục hồi tôn tạo để hàng năm đón tiếp đông đảo du khách hành hương về nguồn cội Một số điểm du lịch lịch sử trên địa bàn huyện :

Thác Khuôn Tát, một thắng cảnh nổi tiếng của tỉnh Thái Nguyên, tọa lạc tại xóm Tỉn Keo, xã Phú Đình, huyện Định Hóa, cách trung tâm thành phố Thái Nguyên 70 km Nơi đây không chỉ là một danh thắng cấp quốc gia từ năm 2002 mà còn là khu vực di tích lịch sử ATK Định Hóa, gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo (1946-1954) Thác Khuôn Tát gồm 7 tầng nước, đổ xuống từ độ cao tạo thành những dòng suối trắng xóa, bao quanh là rừng cây cổ thụ hoang dã và yên tĩnh Theo truyền thuyết địa phương, nơi đây từng là điểm dừng chân của các loài động vật hoang dã và là nơi các Tiên nữ từ trời xuống tắm vào những ngày trời xanh, nước trong.

Từ đỉnh Đèo De, du khách có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp hùng vĩ của Thác Khuôn Tát với bảy tầng thác giống như bậc thang nhà sàn của người dân miền núi Thác cao hơn 20m, với tầng dưới cùng cao khoảng 12m và rộng 15m, các tầng trên chênh lệch nhau từ 2 đến 3m Mỗi tầng đều có bóng cây mát rượi và tạo thành những bồn tắm tự nhiên với nguồn nước trong vắt Ở chân thác, nước tạo thành bồn tắm tự nhiên sâu từ 2 đến 3m, sau đó chảy ra suối Khuôn Tát, nơi có bãi cát, sỏi và đá tự nhiên hình thù độc đáo Hai bên suối là bãi cỏ xanh tươi, lý tưởng cho việc cắm trại và nghỉ ngơi cho du khách.

Di tích lịch sử ATK Định Hoá được chọn làm an toàn khu (ATK), là trung tâm lãnh đạo cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược Chủ tịch Hồ Chí Minh và các lãnh đạo đã có nhiều hoạt động quan trọng tại đây, góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến.

Hồ Chí Minh và các lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã làm việc tại đây từ năm 1947, đóng vai trò quan trọng trong việc định hình lịch sử và phát triển đất nước.

Năm 1954, ATK (An toàn khu) được xem là đại bản doanh của cuộc kháng chiến chống Pháp tại Thủ Đô Hiện nay, gần 100 di tích lịch sử vẫn tồn tại trong khu vực núi rừng Định Hoá, trong đó nhiều di tích đã được nhà nước công nhận và bảo tồn cấp quốc gia Một số di tích tiêu biểu đã góp phần quan trọng vào việc gìn giữ di sản văn hóa lịch sử.

- Nhà trƣng bày Bảo tàng ATK Định Hoá: Nhà trƣng bày Bảo tàng ATK Định Hoá đƣợc xây dựng và khánh thành nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày Bác

Hồ Chí Minh đã về ở và làm việc tại ATK-Định Hoá từ ngày 20/05/1947 đến 20/05/1997, và sự kiện này đã được thủ tướng Võ Văn Kiệt cắt băng khánh thành Nhà trưng bày được thiết kế theo kiến trúc nhà sàn của đồng bào Tày-Nùng tại vùng chiến khu Việt Bắc.

- Di tích Khuôn Tát : Bao gồm Lán Khuôn Tát, Hầm Khuôn Tát và những địa điểm gần gũi thân thuộc với Bác Hồ trong những năm 1947-1954:

Lán Khuôn Tát, tọa lạc trên đồi Khuôn Tát thuộc xóm Khuôn Tát, xã Phú Đình, là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sinh sống và làm việc trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp Trong ba lần ở đây, Người đã viết nhiều tài liệu quan trọng nhằm củng cố chính quyền, hỗ trợ hậu phương và động viên quân dân quyết tâm kháng chiến Tại đây, Bác Hồ và Quốc Hội đã tổ chức lễ phong quân hàm cấp tướng cho 10 cán bộ cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam, trong đó có đồng chí Võ Nguyên Giáp được phong quân hàm Đại tướng.

Hầm Khuôn Tát là một căn hầm nhỏ nhưng chắc chắn và thoáng mát, phục vụ như nơi trú ẩn an toàn khỏi bom đạn và máy bay của địch Đường vào hầm dẫn qua bãi đất rộng dưới bóng cây đa Khuôn Tát, nơi Bác Hồ thường tập thể dục Dòng suối Khuôn Tát hiền hòa chảy qua, với những bãi đá đẹp, là nơi Bác thường câu cá và tắm giặt Hình bóng của Bác Hồ luôn hiện hữu trên mọi nẻo đường đi Việt Bắc.

Di tích Khau Tý, tọa lạc tại xóm Nà Tra, xã Điềm Mạc, huyện Định Hóa, cách trung tâm Thành phố Thái Nguyên khoảng 55km, là nơi Bác Hồ lần đầu tiên đặt chân đến mảnh đất ATK Định Hóa vào ngày 20/5/1947 để chỉ đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp Từ 20/5 đến 10/11/1947, Bác Hồ đã sống và làm việc tại đây, chọn địa điểm này vì sự thuận tiện của các con đường mòn đi đến các khu vực khác Tại di tích, Bác đã viết tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc" và bài thơ "Cảnh Khuya", góp phần vào việc tu dưỡng tư tưởng, đạo đức cho cán bộ đảng viên Hiện nay, Di tích Khau Tý thu hút nhiều du khách đến tham quan, trở thành điểm hành hương về nguồn cội lịch sử vinh quang.

ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC TÀY TẠI ĐỊNH HÓA –THÁI NGUYÊN

Lịch sử hình thành và phân bố của người Tày tại Định Hóa

Người Tày, một trong 54 dân tộc Việt Nam, có mặt từ sớm tại vùng núi thấp phía Bắc, thuộc nhóm ngôn ngữ Thái-Kadai Họ chủ yếu sinh sống ở huyện Định Hóa, nơi có khoảng 43.367 người Tày, chiếm 49,2% dân số huyện Người Tày chủ yếu làm ruộng lúa nước, cùng với các nghề thủ công như kéo sợi, dệt vải, và chăn nuôi gia súc, tạo nguồn thu nhập cho gia đình Qua thời gian, người Kinh đã hòa nhập với người Tày, hình thành một cộng đồng thống nhất, cùng nhau bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống Theo Đào Duy Anh, người Tày có nguồn gốc từ người Lão Man ở Trung Quốc, và một bộ phận người Tày hiện nay có nguồn gốc từ người Kinh di cư lên Định Hóa.

Đặc điểm và giá trị đời sống của người Tày tại Định Hóa

Hiện nay, người Tày ở huyện Định Hóa còn tồn tại 2 loại hình nhà ở:

Nhà sàn là kiểu nhà truyền thống phổ biến của người Tày, thường có cấu trúc 3 gian 2 chái Hệ thống cột của nhà được chôn thẳng xuống đất, hoặc sử dụng đá kê dưới chân cột, nhưng vẫn có ít nhất một cột chôn sâu Theo quan niệm của người Tày, các cột này giúp âm dương hòa hợp, làm cho ngôi nhà vững chắc và mang lại sức khỏe cho các thành viên trong gia đình.

Nhà sàn truyền thống của người Tày ở Định Hóa - Thái Nguyên được cấu tạo từ hai bộ phận chính và phụ Bộ phận chính bao gồm mái nhà, cột kèo, sàn nhà và phên vách, trong khi bộ phận phụ gồm máng nước rửa chân, cầu thang, cửa ra vào, sàn nước, gác mái, gác bếp và sân phơi.

Mái nhà sàn của đồng bào Tày ở Định Hóa được lợp bằng cỏ gianh, có khả năng che mưa, che nắng hiệu quả và nhẹ, giúp duy trì sự mát mẻ trong nhà trong vòng 5 - 10 năm nếu lợp dày Khung và sườn của ngôi nhà truyền thống quyết định sự vững chãi và hình dáng, ảnh hưởng đến tính thẩm mỹ Hoạt động sinh hoạt thường diễn ra tại sàn nhà, được xây cao từ 1,6 m đến 1,8 m so với mặt đất, với sàn làm từ thân tre bổ dọc hoặc gỗ ở những gia đình khá giả Phên và vách bao quanh diện tích sử dụng, trước đây chủ yếu bằng phên tre, nứa, nhưng nay một số gia đình đã chuyển sang dùng ván gỗ.

Trước khi vào nhà của người Tày, khách cần rửa chân tại máng nước rửa chân đặt bên cầu thang Cầu thang nhà sàn của người Tày thường được làm từ 7 hoặc 9 thanh gỗ, có chiều dài khoảng 120 - 150 cm và rộng 20 cm.

Cầu thang dài 25 cm được thiết kế với hai đầu đóng mộng vào hai khung thang vững chắc, nằm ở đầu ngoài của sàn nước Nó chiếm 1/3 chiều dài của sàn nước và hướng lên cửa, tạo thành một góc với mái và chái nhà Đây là một phần quan trọng trong cấu trúc ngôi nhà sàn của người dân.

Cầu thang không chỉ là vật dụng thiết yếu trong sinh hoạt hàng ngày mà còn mang nhiều yếu tố tâm linh đối với người Tày Nó được coi là cầu nối giữa đất và sàn nhà, giữa âm và dương Theo quan niệm của đồng bào, bậc thang thường được thiết kế với số lẻ, thường là 7 hoặc 9, tùy thuộc vào độ cao của mặt sàn Người Tày ở Định Hóa đặc biệt chú trọng đến việc sử dụng số 7 cho bậc cầu thang.

Số 9 và 7 được coi là biểu tượng của "cái vía" trong cầu thang, với 9 vía và 7 vía đại diện cho con người Người dân thường kiêng kỵ việc xây cầu thang có số bậc chẵn, vì họ tin rằng số chẵn tượng trưng cho thế giới bên kia.

 Sinh hoạt trên nhà sàn

Sinh hoạt hàng ngày trên nhà sàn của người Tày ở Định Hóa được tổ chức theo khu vực riêng biệt cho từng thành viên trong gia đình Gian thứ nhất dành cho nam giới và khách nam, gian giữa chia thành khu vực cho con trai chủ nhà và bếp sinh hoạt, trong khi gian thứ ba có buồng nhỏ cho con gái và giường của chủ nhà Bàn thờ tổ tiên nằm gần giường ngủ của chủ nhà Trong gia đình, người đàn ông giữ quyền quyết định và các thành viên khác thường nhường chỗ cho họ Phụ nữ thường ngồi ở khu vực bếp hoặc gần cửa sổ, trong khi các con cái vui chơi hoặc học tập ở phía trong Khi có khách, chủ và khách ngồi ở khu vực tiếp khách, còn phụ nữ ăn riêng ở bếp, thể hiện rõ sự phân chia vai trò trong sinh hoạt hàng ngày của người Tày.

 Một số kiêng kỵ liên quan đến nhà sàn của người Tày Định Hóa

Người Tày có nhiều kiêng kỵ trong việc làm nhà và sinh hoạt trên nhà sàn Họ kiêng sử dụng cây cụt ngọn và cây sâu gốc để xây dựng, vì tin rằng những loại cây này mang lại bệnh tật Khi dựng nhà, cần tránh quay ngọn cây xuống đất và hướng ngọn cây về phía mặt trời mọc Ngoài ra, khi đặt cột hay đào hố, không được để bóng người nấp ở đó, vì điều này có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của người sống trong nhà Sau khi hoàn thành xây dựng, tuyệt đối không được đào hố trên nền nhà để tránh làm hư hại đến mạch ngôi nhà Cuối cùng, không được chém vào bất kỳ bộ phận nào của ngôi nhà, đặc biệt là các cây cột, vì điều này có thể làm tổn hại đến phần hồn của ngôi nhà và mang lại sự trả thù cho con người.

Trong cuộc sống hàng ngày, việc phân chia khu vực sinh hoạt cho từng đối tượng là rất quan trọng, nhằm đảm bảo mọi người tuân thủ các quy định, đặc biệt là những quy định liên quan đến quyền lợi và sự an toàn của phụ nữ.

- Phụ nữ chủ nhà không đƣợc đến khu vực dành cho khách nam giới

- Phụ nữ không đƣợc ngồi cạnh chồng tiếp khách, không đƣợc ngồi cạnh ở trên bếp sinh hoạt vì đây là nơi ngồi của đàn ông

Phụ nữ không nên trèo lên gác nhà hoặc gác bếp để lấy đồ dùng hay cây trồng, vì hành động này được coi là thiếu tôn trọng nam giới và thể hiện sự thiếu vắng đàn ông trong gia đình, điều này được xem là không may mắn.

Phụ nữ không nên ngồi gần bàn thờ tổ tiên, không được bày mâm cúng và quét dọn bàn thờ vì quan niệm truyền thống cho rằng việc cúng bái là trách nhiệm của đàn ông và thân thể phụ nữ được xem là "không sạch sẽ".

Vào buổi tối, mọi người không được nói to hay huýt sáo trong nhà, vì điều này được coi là mời gọi ma quỷ vào nhà Nếu huýt sáo, có thể sẽ gây ra sự quấy rối và làm cho người trong nhà bị ốm đau.

Không nên nô đùa với bóng người in trên vách nhà, vì bóng đó chứa hồn của người Việc nô đùa có thể khiến hồn giật mình và dẫn đến việc hồn lìa khỏi xác.

Nhà sàn của người Tày không chỉ là nơi ở mà còn là biểu tượng văn hóa đặc sắc, phản ánh tình cảm và mối quan hệ trong đời sống hàng ngày Ngôi nhà này thể hiện tư duy logic và giá trị bền vững về kỹ thuật, nghệ thuật, kinh tế và xã hội của cộng đồng người Tày.

Đặc điểm và giá trị văn hóa của dân tộc Tày tại Định Hóa

Người Tày ở Định Hóa tổ chức nhiều lễ tết đặc sắc, thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc Các ngày lễ quan trọng bao gồm Tết Nguyên Đán, đánh dấu năm mới, và Tết Rằm tháng 7, để tưởng nhớ các vong hồn Ngoài ra, Tết gọi hồn trâu bò vào mùng 6 tháng 6 âm lịch và Tết cơm mới sau vụ thu hoạch cũng là những lễ hội đặc trưng của đồng bào Tày trồng lúa nước.

Tết Nguyên đán là mở đầu cho một năm mới và họ bắt đầu ăm tết từ ngày

Vào 28 tháng Chạp âm lịch, người Tày trong bản hối hả trang trí nhà cửa, dọn dẹp và sắp xếp đồ đạc để tạo không gian ấm cúng Ngày 29, họ bắt đầu làm thịt lợn và chế biến các món ăn truyền thống như giò, chả, thịt luộc, thịt nướng và lạp sườn, khiến không khí Tết thêm phần hấp dẫn Đến ngày 30, họ cất giữ dụng cụ lao động và tổ chức lễ cúng, thể hiện sự tôn trọng với những vật dụng đã đồng hành trong một năm làm việc vất vả Đêm giao thừa, gia đình quây quần bên nhau, thưởng thức các món ăn đặc biệt và chúc nhau những lời chúc tốt đẹp cho năm mới Dịp Tết cũng là cơ hội để trai gái trong bản cùng nhau đi chợ sắm sửa quần áo mới và tham gia các lễ hội như Tung còn, múa xòe, cùng nhau hát Sli, hát lượn trong không khí vui tươi.

Theo phong tục truyền thống của người Tày, hầu hết các cặp đôi kết hôn trong cùng dòng họ, sống theo chế độ gia đình hạt nhân và phụ hệ, với một vợ một chồng Thanh niên có quyền tự do tìm hiểu trước khi tiến tới hôn nhân, nhưng quyết định cuối cùng vẫn thuộc về hai gia đình Hôn lễ của người Tày diễn ra qua nhiều nghi thức như lễ dạm, lễ ăn hỏi, lễ sêu tết, lễ báo ngày cưới, lễ cưới và lễ đón dâu, tất cả đều thể hiện bản sắc văn hóa độc đáo của tộc người này.

Chế độ hôn nhân của người Tày chủ yếu là một vợ một chồng, nhưng do ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến trọng nam khinh nữ, nhiều người không có con trai thường phải lấy vợ lẽ Trong quan hệ hôn nhân, nguyên tắc cấm kết hôn giữa những người cùng họ, trừ một số trường hợp họ xa, nhưng những trường hợp này rất hiếm gặp.

Người Tày có hai hình thức lấy rể: rể tạm và rể đời Rể tạm thường xảy ra trong các gia đình nhà gái neo đơn, thiếu lao động, với cha mẹ già yếu và con trai còn nhỏ Chàng rể sẽ ở lại nhà vợ cho đến khi em trai vợ trưởng thành và có khả năng tự lập Sau đó, rể có thể đón vợ về nhà mình Trong khi đó, rể đời thường được lựa chọn bởi cha mẹ nhà gái, đặc biệt trong những gia đình hiếm con hoặc chỉ có con gái.

Lễ cưới của người Tày ở huyện Định Hóa bao gồm bốn bước chính: Lễ dạm hỏi (ướm hỏi), Lễ ăn hỏi, Lễ cưới và Lễ lại mặt Những thủ tục này phản ánh nét văn hóa đặc trưng của người Tày, thể hiện sự tôn trọng và nghiêm túc trong việc xây dựng gia đình.

Lễ dạm hỏi là bước đầu trong quy trình tiến tới hôn nhân, khi chàng trai và cô gái đã quen biết và yêu nhau Chàng trai sẽ xin phép cha mẹ để thực hiện các nghi lễ cần thiết Trước khi chọn ngày tốt để thăm nhà gái, nhà trai thường nhờ một người quen biết cả hai gia đình để ướm hỏi ý kiến Trong buổi lễ dạm hỏi, nhà trai chỉ mang theo một chai rượu và đôi gà để thể hiện tấm lòng.

Lễ ăn hỏi của người Tày diễn ra sau lễ dạm, khi gia đình nhà trai cử một người đàn ông uy tín đến bàn chuyện hôn nhân của đôi trẻ Đồ lễ bao gồm một đôi gà sống thiến, hai chai rượu ngon và bốn cân gạo nếp Thời gian từ lễ ăn hỏi đến lễ cưới thường kéo dài từ 2 đến 3 năm Trong thời gian này, vào các dịp lễ tết, nhà trai phải có sêu tết nhà gái, chủ yếu vào tháng giêng và tháng bảy, với đồ lễ gồm 2 con gà thiến, hai bánh chưng, 2 bánh khảo và 2 gói chè.

Lễ cưới của người Tày ở Định Hóa bắt đầu khi nhà trai xác định ngày cưới và cử đại diện đến bàn bạc với nhà gái về thời gian tổ chức cùng sính lễ Sính lễ bao gồm thịt lợn, rượu, gạo nếp, tiền thách cưới và 1.000.000đ tiền mặt gói trong giấy đỏ đặt lên bàn thờ tổ tiên Trước ngày cưới, nhà trai phải nộp đồ sính lễ theo thỏa thuận Cô dâu và chú rể cũng chuẩn bị quà cho hai bên gia đình Nếu cô dâu có chị chưa lập gia đình, chú rể cần chuẩn bị phong bao tiền hoặc vải “quá hồng” để xin phép cho em lập gia thất Đoàn đón dâu gồm chú rể, phù rể, quan làng, bà đón dâu và người gánh đồ lễ Đặc biệt, đoàn đón dâu của người Tày ở Định Hóa có sự khác biệt so với các vùng khác, với sự tham gia của quan làng và thiếu nữ mang lễ vật Lễ trình tổ tiên là một nghi lễ bắt buộc trong đám cưới của người Tày tại đây.

Lễ lại mặt của người Tày diễn ra ba ngày sau đám cưới, khi đôi vợ chồng trẻ mang lễ vật gồm đôi gà và hai lít rượu đến nhà gái Tại đây, chú rể tự tay nấu bữa cơm để cảm ơn gia đình vợ Sau khi hoàn tất lễ lại mặt, đôi vợ chồng trẻ trở về nhà trai và bắt đầu cuộc sống lứa đôi Đặc biệt, người vợ trẻ tự tay dệt, cắt, và khâu tặng chồng một bộ quần áo chàm, thể hiện sự khéo léo và tình yêu thương dành cho chồng.

Lễ cưới của người Tày ở Định Hóa được coi là sự kiện trọng đại trong đời, là ngày đáng nhớ không chỉ của cô dâu và chú rể mà còn của cả cộng đồng Trong ngày này, sự vui mừng được thể hiện qua những khúc hát quan làng, với quan làng đại diện cho hai bên gia đình gửi gắm lời ca, tiếng hát Những lời ca giản dị nhưng ẩn chứa ý nghĩa sâu sắc, mang tính giáo dục cao, giúp thanh niên nhận thức rõ về trách nhiệm với gia đình và khát vọng cải thiện cuộc sống Thông qua làn điệu quan làng, họ không chỉ thể hiện niềm vui mà còn thấm nhuần ý thức cộng đồng.

Theo quan niệm của đồng bào, linh hồn cha mẹ sau khi mất vẫn tiếp tục sinh hoạt và có nhu cầu như người sống Việc chăm sóc mồ mả cho cha mẹ không chỉ giúp linh hồn họ được yên nghỉ, mà còn ngăn chặn những rắc rối cho con cháu Nếu không lo chu đáo, linh hồn có thể quấy rối người sống hoặc gặp khó khăn ở thế giới bên kia, gây ra bệnh tật và tai ương Do đó, việc tổ chức tang lễ và chăm sóc mồ mả cho cha mẹ là một hình thức báo hiếu vô cùng quan trọng.

Đồng bào Tày ở Định Hóa tổ chức đám ma cho cha mẹ một cách chu đáo và phức tạp, với nhiều nghi lễ tang ma thể hiện sự tôn kính và lòng tri ân đối với người đã khuất.

Lễ rửa mặt cho người chết là một nghi thức quan trọng trong phong tục tang lễ, thể hiện lòng đau thương của gia đình Khi có người mất, con cháu phải nhịn ăn và không được khóc cho đến khi thầy Tào đến làm lễ khâm niệm, vì họ tin rằng tiếng khóc có thể giữ hồn người chết ở lại Người nhà thông báo cho họ hàng và tiến hành tắm rửa cho người chết, việc này thường do em trai, con trai hoặc cháu trai thực hiện bằng nước lá thơm như lá bưởi hay lá hương nhu Sau khi tắm, người chết được mặc quần áo mới, nam 7 áo và nữ 9 áo, và một hào bạc trắng được đặt vào miệng để linh hồn không gây tai họa cho con cháu Cuối cùng, người chết được đặt nằm ở gian thờ trên chiếc chiếu lật mặt trái, đầu quay về phía bàn thờ, và gia đình chuẩn bị đón thầy Tào về làm lễ phát tang và chuẩn bị nơi táng cho người mất.

Lễ khâm niệm là một nghi thức quan trọng trong phong tục tang lễ, trong đó giờ liệm cần tránh trùng với giờ sinh của con cháu để tránh rủi ro Thầy Tào sẽ đảm nhiệm việc liệm, người chết được quấn trong 1-2 tấm vải trắng tự dệt, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của gia đình Trong lễ khâm liệm, tro bếp sạch và lúa nếp được sử dụng để bảo vệ thi hài và tượng trưng cho lúa giống cho người chết Sau khi nhập quan, thầy Tào thực hiện phép thu hồn cho người chết và người sống, nhằm đảm bảo hồn người chết không luẩn quẩn trong nhà, giúp con cháu có cuộc sống bình yên Cuối cùng, con cháu sẽ nâng bốn góc chiếu đưa xác vào quan tài, và một tờ phan ghi rõ thông tin của người chết sẽ được đặt vào quan tài cùng với lời dặn không trở lại cõi trần.

Hiện trạng khai thác các giá trị văn hóa dân tộc Tày Tại Định Hóa

2.4.1 Hiện trạng các giá trị văn hóa của dân tộc Tày

Ngày nay, sự phát triển của nền kinh tế thị trường và bùng nổ thông tin đã mở rộng môi trường giao lưu văn hóa giữa các vùng miền, mang lại nhiều ảnh hưởng tích cực cho văn hóa truyền thống của người Tày ở Định Hóa Tuy nhiên, điều này cũng tạo ra những tác động tiêu cực, đặt nền văn hóa truyền thống của người Tày trước những thách thức và nguy cơ mai một nghiêm trọng.

Cấu trúc làng bản và nhà ở là biểu tượng văn hóa vật chất đặc trưng của các tộc người, nhưng đang trải qua nhiều biến đổi Tại những khu vực gần thị trấn và các trục đường giao thông, nhiều thôn xóm đã được quy hoạch theo kiểu làng phố, dẫn đến sự xuất hiện của các loại hình cư trú mới Những ngôi nhà sàn gỗ truyền thống, được làm từ tre và lợp tranh cọ, đang dần bị thay thế bởi các công trình xây dựng bằng gạch và ngói Nguyên nhân của sự thay đổi này bao gồm sự khan hiếm vật liệu xây dựng, sự thiếu hụt thợ lành nghề trong việc làm nhà sàn, và quỹ đất ngày càng hạn hẹp.

Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng và vật nuôi, cùng với các phương thức sản xuất mới của người Tày, đã dẫn đến sự thay đổi trong công cụ lao động truyền thống Những công cụ thô sơ đang dần được thay thế bằng các công cụ sản xuất cải tiến và hiện đại, như máy móc cơ giới.

Dưới tác động của kinh tế thị trường và sự lấn át của các phương tiện nghe nhìn hiện đại, các thể loại văn học dân gian đang dần bị thu hẹp Mặc dù nhà nước và chính quyền địa phương đã tạo điều kiện cho việc sưu tầm các vốn văn hóa tinh thần như truyện cổ, ca dao, dân ca và tục ngữ, nhưng vẫn gặp nhiều khó khăn và có nguy cơ mai một Hơn nữa, việc sử dụng ngôn ngữ và chữ viết của dân tộc cũng không còn được người dân chú trọng gìn giữ.

Trang phục truyền thống của người Tày đang dần bị thu hẹp, chủ yếu chỉ còn phổ biến ở các xã vùng sâu và được gìn giữ bởi những người già Giới trẻ hiện nay không còn thói quen mặc trang phục truyền thống, thay vào đó là trang phục hiện đại Những bộ trang phục truyền thống chỉ được sử dụng trong các dịp đặc biệt như đám cưới, lễ hội hay lễ Tết Tình trạng này đang trở thành một thực tế đáng báo động đối với văn hóa mặc của người Tày ở Định Hóa.

Lễ hội dân gian đang dần mất đi tính truyền thống và bị hiện đại hóa, với nhiều vùng không còn tổ chức các lễ hội dân gian như trước Hiện nay, lễ hội Lồng Tồng vẫn được duy trì nhưng phần lễ đã bị lược hóa, chỉ còn lại phần hội Trong phần hội, các trò chơi dân gian truyền thống như bắn nỏ, đánh quay, đánh bam đang thưa dần và nhường chỗ cho các hoạt động văn hóa hiện đại như thi đấu bóng đá, cầu lông và biểu diễn văn nghệ bằng tiếng phổ thông.

* Công tác bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc Tày tại Định Hóa

Hiện nay, Đảng và Nhà nước đang nỗ lực khôi phục và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc Lãnh đạo tỉnh và huyện Định Hóa cũng chú trọng đến việc bảo tồn những giá trị văn hóa độc đáo của các dân tộc địa phương.

Trong những năm qua, công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số đã được triển khai tích cực, với nhiều hoạt động nổi bật như phục dựng đám cưới người Tày ở Lam Vỹ, tổ chức Ngày hội văn hóa các dân tộc vùng Việt Bắc và Liên hoan tiếng hát then, đàn tính Các lễ hội như Lồng Tồng và các trò chơi dân gian của đồng bào Tày, Nùng, Dao đã thu hút hàng vạn người tham gia, thể hiện niềm tự hào về văn hóa dân tộc Những hình thức diễn xướng dân gian như hát trống quân, diễn xướng then, và múa rối cạn không chỉ bảo tồn văn hóa mà còn giúp đồng bào nâng cao giá trị văn hóa, sống đoàn kết và vươn lên thoát nghèo.

Năm 2010, ngành Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã phối hợp với UBND tỉnh tổ chức các hoạt động văn hoá, du lịch nhằm chào mừng Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam lần thứ I và tuần văn hoá, du lịch Thái Nguyên Đồng thời, đề tài “Điều tra di sản văn hoá phi vật thể vùng ATK tỉnh Thái Nguyên” đã được triển khai, tập trung vào trang phục, ẩm thực và văn hoá các dân tộc tại huyện Định Hoá Qua đó, nhiều di sản quý giá như Rối Thẩm Rộc, các làn điệu Then, đàn tính đã được thống kê, lưu giữ và bảo tồn, cùng với việc xây dựng Làng văn hoá Bản Quyên tại xã Điềm Mặc, huyện Định Hoá.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là các dân tộc thiểu số, đang đối mặt với nhiều thách thức Cần có những biện pháp hiệu quả để bảo tồn các tinh hoa văn hóa, tránh sự thất truyền và lai căng, đồng thời loại bỏ các tập quán và hủ tục lạc hậu Đây là vấn đề không chỉ được quan tâm bởi các cấp lãnh đạo, mà còn là mối trăn trở của chính người dân tộc thiểu số.

2.4.2 Hiện trạng hoạt động du lịch tại huyện Định Hóa

Hiện nay, huyện Định Hóa chưa có bộ phận chuyên trách về quản lý và khai thác du lịch văn hóa các dân tộc thiểu số, đặc biệt là dân tộc Tày Các công ty lữ hành chưa phát triển tuyến du lịch chuyên sâu về văn hóa tộc người, dẫn đến việc thiếu chương trình du lịch cụ thể cho các vùng dân tộc thiểu số Đội ngũ hướng dẫn viên chủ yếu tự phát, thiếu quy hoạch và quản lý từ các cơ quan chức năng, đặc biệt là trong việc hướng dẫn khách tham quan các bản người Tày Nhân viên nhà hàng, khách sạn chưa được đào tạo bài bản, dẫn đến thiếu kỹ năng phục vụ và tinh thần phục vụ khi khách sử dụng dịch vụ.

Các cơ sở lưu trú tại Định Hóa hiện đang ở quy mô nhỏ, với chất lượng phục vụ trung bình và phong cách chưa chuyên nghiệp Trang thiết bị trong phòng chưa đạt tiêu chuẩn, trong khi các dịch vụ bổ sung còn nghèo nàn và đơn điệu Tuy nhiên, Định Hóa đã xây dựng một số tuyến đường quan trọng, phục vụ cho đời sống và hoạt động du lịch, hầu hết các tuyến đường đã được rải nhựa, tạo thuận lợi cho việc đi lại Việc kết hợp xây dựng các tour du lịch đã thu hút khách du lịch, mặc dù vẫn còn gặp khó khăn về vốn đầu tư và một số tuyến đường vào các bản làng dân tộc vẫn khó đi do chủ yếu là đường đất đỏ.

Các phương tiện giao thông phục vụ du lịch chủ yếu là xe khách và xe buýt, rất thuận tiện cho việc di chuyển của người dân và du khách đến tham quan và tìm hiểu văn hóa địa phương Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số khó khăn, khi các tuyến xe khách và xe buýt chỉ dừng lại ở thị trấn mà chưa có dịch vụ đưa khách đến các điểm du lịch cụ thể, khiến du khách phải phụ thuộc vào xe của đoàn hoặc thuê xe ngoài.

Công tác quảng bá văn hóa truyền thống và tiềm năng du lịch của dân tộc Tày còn nhiều hạn chế, dẫn đến hình ảnh con người và cảnh quan nơi đây chưa được rõ nét Thông tin về văn hóa tộc người Tày trên các phương tiện truyền thông vẫn còn thiếu, cần được cải thiện để thu hút sự chú ý của du khách.

Người Tày ở Định Hóa sở hữu nền văn hóa đặc sắc và phong phú, nhưng hiện đang đối mặt với sự biến đổi, đặc biệt là sự suy giảm của ngôi nhà sàn truyền thống Để bảo tồn bản sắc văn hóa Tày, cần có các biện pháp thích hợp nhằm giữ gìn những giá trị văn hóa độc đáo của huyện Định Hóa Ngôi nhà sàn không chỉ là nơi sinh hoạt mà còn thể hiện phong tục, tập quán và nếp sống của người Tày qua cách bố trí không gian thờ cúng, tiếp khách và sinh hoạt gia đình Bên cạnh đó, kiến trúc của những ngôi nhà này phản ánh sự sáng tạo và khéo léo của người Tày, mang lại giá trị nghệ thuật bền vững Các giá trị tinh thần trong quan hệ cộng đồng cũng góp phần làm phong phú thêm đời sống của người dân, từ đó bảo tồn những giá trị văn hóa tốt đẹp Trang phục truyền thống của người Tày không chỉ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt mà còn thể hiện bản sắc văn hóa độc đáo Tuy nhiên, với sự phát triển kinh tế xã hội, trang phục đang dần thay đổi, đặc biệt là việc sử dụng vải công nghiệp và xu hướng mặc hiện đại, khiến bộ trang phục truyền thống chỉ còn phổ biến ở người già và những bản xa thị trấn.

CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC TÀY TẠI HUYỆN ĐỊNH HÓA – THÁI NGUYÊN

Ngày đăng: 05/08/2021, 21:16

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Văn hóa thông tin, HN Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đất nước Việt Nam qua các đời
Nhà XB: Nxb Văn hóa thông tin
2. Các dân tộc Tày - Nùng ở Việt Nam (1992), Viện KHXH và Viện Dân tộc học xuất bản, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các dân tộc Tày - Nùng ở Việt Nam (1992)
Tác giả: Các dân tộc Tày - Nùng ở Việt Nam
Năm: 1992
3. Nông Minh Châu (1973), Dân ca đám cưới Tày - Nùng, Nxb Việt Bắc Sách, tạp chí
Tiêu đề: Dân ca đám cưới Tày - Nùng
Tác giả: Nông Minh Châu
Nhà XB: Nxb Việt Bắc
Năm: 1973
4. Ma Ngọc Dung (2004), Nhà sàn truyền thống của người Tày ở Đông Bắc Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhà sàn truyền thống của người Tày ở Đông Bắc Việt Nam
Tác giả: Ma Ngọc Dung
Nhà XB: Nxb Khoa học xã hội
Năm: 2004
5. Đỗ Thị Hà, “Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của người Dao tại làng Nghẹt, Xã Phú Thịnh, Huyện Yên Sơn, Tỉnh Tuyên Quang”, Khóa luận tốt nghiệp Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của người Dao tại làng Nghẹt, Xã Phú Thịnh, Huyện Yên Sơn, Tỉnh Tuyên Quang”
6. Phạm Quang Hƣng, “Tìm hiểu nghi lễ vòng đời người của tộc người Tày tại thôn Tân Lập, xã Tân Trào, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang”, Khóa luận tốt nghiệp Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tìm hiểu nghi lễ vòng đời người của tộc người Tày tại thôn Tân Lập, xã Tân Trào, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang
8. Đinh THị Thanh Minh, “Nghiên cứu điều kiện khai thác du lịch văn hóa người Thái ở Con Cuông Nghệ An”, Khóa luận tốt nghiệp Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu điều kiện khai thác du lịch văn hóa người Thái ở Con Cuông Nghệ An”
9. Trần Đức Thanh, Nhập môn khoa học du lịch, NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhập môn khoa học du lịch
Nhà XB: NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội
10. Trần Ngọc Thêm(1983), Cơ sở văn hóa việt nam, Nxb Giáo Dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cơ sở văn hóa việt nam
Tác giả: Trần Ngọc Thêm
Nhà XB: Nxb Giáo Dục
Năm: 1983
11. Bùi Thị Hải Yến, Tuyến điểm du lịch Việt Nam, Nxb Giáo Dục Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tuyến điểm du lịch Việt Nam
Nhà XB: Nxb Giáo Dục Việt Nam
12. Bùi Thị Hải Yến (chủ biên), Tài Nguyên Du Lịch, Nxb Giáo Dục Việt Nam.Trang web tham khảo Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tài Nguyên Du Lịch
Nhà XB: Nxb Giáo Dục Việt Nam. Trang web tham khảo

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w