1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Đo lường chỉ số mức độ nhạy cảm của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

104 17 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Đo Lường Chỉ Số Mức Độ Nhạy Cảm Của Nhà Đầu Tư Trên Thị Trường Chứng Khoán Việt Nam
Tác giả Trần Nhật Vy
Người hướng dẫn TS. Lê Trung Thành
Trường học Trường Đại Học Ngoại Thương
Chuyên ngành Quản Trị Kinh Doanh
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2020
Thành phố Thành Phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 104
Dung lượng 3,71 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI (12)
    • 1.1. Sự cần thiết của đề tài (12)
    • 1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu (13)
    • 1.3. Mục tiêu nghiên cứu (16)
    • 1.4. Đối tượng nghiên cứu (17)
    • 1.5. Phạm vi nghiên cứu (17)
    • 1.6. Phương pháp nghiên cứu (17)
    • 1.7. Đóng góp và tính mới của đề tài (18)
    • 1.8. Kết cấu của đề tài (19)
  • CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỨC ĐỘ NHẠY CẢM CỦA NHÀ ĐẦU TƯ (20)
    • 2.1. Tài chính học hành vi (22)
      • 2.1.1. Khái niệm hành vi nhà đầu tư và tài chính hành vi (23)
      • 2.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển tài chính học hành vi (25)
      • 2.1.3. Điều kiện tồn tại của tài chính học hành vi (28)
      • 2.1.4. Một số lý thuyết nền tảng của Tài chính hành vi (31)
      • 2.1.5. Một số sai lầm trong tâm lý nhà đầu tư (36)
      • 2.1.6. Các giai đoạn tâm lý trong đầu tư chứng khoán (38)
      • 2.1.7. Ứng dụng của Tài chính hành vi (42)
    • 2.2. Mức độ nhạy cảm của nhà đầu tư (42)
      • 2.2.1. Khái niệm (43)
      • 2.2.2. Tác động của mức độ nhạy cảm của nhà đầu tư (44)
      • 2.2.3. Các đại lượng đo lường mức độ nhạy cảm của nhà đầu tư (47)
  • CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (20)
    • 3.1. Hướng nghiên cứu (51)
    • 3.2. Xây dựng mô hình nghiên cứu (55)
    • 3.3. Giải thích các đại lượng sử dụng (55)
      • 3.3.1. Chênh lệch biến động giao dịch cổ phiếu (Volatility Premium - VP) (55)
      • 3.3.2. Số lượng đợt phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (NIPO) (56)
      • 3.3.3. Lợi suất trung bình ngày IPO đầu tiên (RIPO) (57)
      • 3.3.4. Chỉ số giao dịch thị trường (TRIN) (57)
      • 3.3.5. Tỷ lệ số lượng cổ phiếu giao dịch trên thị trường (TURN) (58)
    • 3.4. Dữ liệu nghiên cứu (60)
      • 3.4.1. Nguồn dữ liệu và cách thức thu thập dữ liệu (60)
      • 3.4.2. Các thức xử lý dữ liệu (60)
      • 3.3.3. Phương pháp phân tích dữ liệu (61)
  • CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (63)
    • 4.1. Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam và Sở Giao dịch Chứng khoán Hồ Chí Minh (63)
    • 4.2. Đặc điểm của tâm lý nhà đầu tư trên thị trường tài chính Việt Nam (67)
      • 4.2.1. Tâm lý tự tin thái quá (68)
      • 4.2.2. Tâm lý hối tiếc (69)
      • 4.2.3. Tâm lý bầy đàn (70)
      • 4.2.4. Tâm lý bảo toàn - không muốn mất mát (70)
      • 4.2.5. Tâm lý dựa vào kinh nghiệm (71)
    • 4.3. Các nhân tố chi phối tâm lý nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam 57 (71)
      • 4.3.1. Năng lực của nhà đầu tư (71)
      • 4.3.2. Độ tuổi của nhà đầu tư (72)
      • 4.3.3. Giới tính của nhà đầu tư (72)
      • 4.3.4. Tâm lý (73)
    • 4.4. Kết quả nghiên cứu (73)
      • 4.4.1. Mô tả dữ liệu (73)
      • 4.4.2. Giải thích kết quả (76)
  • CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ GỢI Ý CHO NHÀ ĐẦU TƯ, DOANH NGHIỆP VÀ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CÁC CƠ QUAN CHỨC NĂNG (21)
    • 5.1. Kết luận vấn đề nghiên cứu (82)
    • 5.2. Mội số gợi ý đối với nhà đầu tư (83)
      • 5.2.1. Giải pháp đối với tâm lý quá tự tin (83)
      • 5.2.2. Giải pháp đối với tâm lý bầy đàn (84)
      • 5.2.3. Giải pháp đối với tâm lý sợ thua lỗ (85)
    • 5.3. Một số giải pháp dành cho doanh nghiệp (85)
      • 5.3.1. Lập kế hoạch công bố thông tin chính xác, đầy đủ và kịp thời (85)
      • 5.3.2. Xây dựng kênh thông tin riêng (86)
      • 5.3.3. Chủ động cung cấp thông tin (86)
    • 5.4. Một số kiến nghị đối với cơ quan chức năng (87)
      • 5.4.1. Hoàn thiện hệ thống pháp lý về lĩnh vực tài chính (87)
      • 5.4.2. Hoàn thiẹ ̂ n bọ ̂ máy quản lý Nhà nướ c đối vớ i thị trường chứng khoán (88)
      • 5.4.3. Tiếp tục tăng cường các thông điệp chính sách (89)
      • 5.4.4. Tăng cường công tác giám sát thị trường nhằm nhận diện các xu hướng tâm lý sai lệch trên thị trường tài chính (91)
    • 5.5. Hướng phát triển nghiên cứu (92)
  • PHỤ LỤC (98)

Nội dung

Đo lường chỉ số mức độ nhạy cảm của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam.Đo lường chỉ số mức độ nhạy cảm của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam.Đo lường chỉ số mức độ nhạy cảm của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam.Đo lường chỉ số mức độ nhạy cảm của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam.Đo lường chỉ số mức độ nhạy cảm của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI

Sự cần thiết của đề tài

Tài chính hành vi là một lĩnh vực mới nhưng đang phát triển nhanh chóng trong tài chính học hiện đại, với số lượng nghiên cứu gia tăng đáng kể Sự kết hợp giữa lý thuyết tâm lý học và thực tiễn tài chính giúp giải thích những vấn đề phức tạp mà các lý thuyết kinh tế cổ điển không thể làm rõ Nhiều nghiên cứu tài chính hành vi đã được áp dụng vào thực tiễn, hỗ trợ chính phủ, doanh nghiệp và nhà đầu tư hiểu rõ hơn về hành vi của mình, từ đó đưa ra các quy định pháp luật và chính sách phù hợp nhằm tối ưu hóa lợi ích.

Giả thuyết thị trường hiệu quả cho rằng giá chứng khoán phản ánh đầy đủ thông tin trên thị trường, với nhà đầu tư định giá tài sản một cách lý tính Tuy nhiên, nghiên cứu tài chính hành vi gần đây chỉ ra rằng mức độ nhạy cảm của nhà đầu tư có ảnh hưởng đáng kể đến việc định giá tài sản Lý thuyết của De Long và cộng sự (1990) cho thấy giao dịch quá mức dựa trên thông tin “nhiễu” có thể làm giá cổ phiếu lệch khỏi giá trị nội tại Shleifer và Vishny (1997) chỉ ra rằng các nhà đầu cơ “lý tính” phải đối mặt với rủi ro khi giao dịch, làm cho việc điều chỉnh giá về giá trị nội tại trở nên khó khăn Nghiên cứu của Baker và Wurgler (2007) chứng minh rằng tâm lý nhà đầu tư càng nhạy cảm thì giá chứng khoán càng biến động mạnh, dẫn đến sự lệch lạc so với giá trị cơ bản.

Mức độ nhạy cảm của nhà đầu tư không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả kinh doanh cá nhân mà còn tác động đến toàn bộ thị trường chứng khoán Việc đo lường mức độ nhạy cảm là điều cần thiết để nghiên cứu và phân tích ảnh hưởng của nó đến giá trị chứng khoán Tuy nhiên, hiện tại, việc đánh giá mức độ nhạy cảm của nhà đầu tư tại thị trường chứng khoán Việt Nam chưa được quan tâm đúng mức và chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề này Do đó, tác giả quyết định thực hiện đề tài “Đo lường chỉ số mức độ nhạy cảm của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam” nhằm phát triển phương pháp đo lường và đánh giá khách quan mức độ nhạy cảm chung của nhà đầu tư.

Tổng quan tình hình nghiên cứu

Trong những năm gần đây, việc đo lường mức độ nhạy cảm của nhà đầu tư đã thu hút sự chú ý lớn từ các nhà nghiên cứu và trở thành chủ đề chính trong nhiều bài báo về tài chính hành vi Nhiều phương pháp khác nhau đã được áp dụng để định lượng mức độ nhạy cảm trong tâm lý nhà đầu tư Hiện tại, có ba hướng tiếp cận chính đối với vấn đề này, bao gồm dữ liệu từ khảo sát hoặc phỏng vấn nhà đầu tư, dữ liệu thị trường và dữ liệu dựa trên thống kê công cụ tìm kiếm.

Phương pháp khảo sát nhà đầu tư nhằm đánh giá trực tiếp mức độ nhạy cảm thông qua bảng hỏi hoặc phỏng vấn về thái độ với rủi ro và khía cạnh tâm lý cá nhân Lợi ích của phương pháp này là dữ liệu thu thập được đo lường trực tiếp, không qua trung gian Tuy nhiên, hạn chế về cỡ mẫu và sự khác biệt giữa câu trả lời và hành động thực tế của nhà đầu tư có thể khiến kết quả không phản ánh đầy đủ giá trị thực của độ nhạy cảm.

Cùng với sự phát triển của công nghệ và internet, các công cụ tìm kiếm hiện nay đã trở thành phương pháp mới trong việc đánh giá tâm lý của nhà đầu tư.

Do nguồn dữ liệu của công cụ tìm kiếm dựa trên Google chỉ khả dụng từ sau năm 2004 (Banholzer, Heiden và Schneller, 2019), số lượng bài viết sử dụng dữ liệu tìm kiếm trên internet bị giới hạn Điều này dẫn đến khó khăn trong việc so sánh hiệu quả của phương pháp này với hai phương pháp khác.

Dữ liệu thị trường là phương pháp phổ biến nhất để đánh giá mức độ nhạy cảm của nhà đầu tư, với nhiều nghiên cứu phát triển chỉ số đo lường dựa trên lý thuyết tài chính Phương pháp này sử dụng dữ liệu gián tiếp, dễ tiếp cận, giúp tiết kiệm thời gian và công sức so với các biện pháp trực tiếp như khảo sát Các chỉ số này phản ánh giao dịch của người tham gia thị trường trong thời gian thực Tuy nhiên, việc xác định giá trị mức độ nhạy cảm dựa trên lý thuyết tài chính hành vi mới phát triển vẫn chưa có sự thống nhất giữa các nghiên cứu ở các quốc gia khác nhau.

Nghiên cứu của Neal và Wheatley (1998) về tâm lý nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán đã chỉ ra rằng tỷ lệ chiết khấu của các quỹ đầu tư đóng và tỷ lệ mua lại ròng của quỹ tương hỗ có khả năng dự đoán rủi ro phi hệ thống tốt hơn so với tỷ lệ giao dịch lẻ Kết quả cho thấy có mối quan hệ cùng chiều giữa mức độ giảm giá và lợi nhuận kỳ vọng của các công ty nhỏ, trong khi không có mối liên hệ nào giữa chiết khấu và lợi nhuận kỳ vọng của doanh nghiệp lớn Những phát hiện này hỗ trợ giả thuyết rằng cổ phiếu của các doanh nghiệp nhỏ thường được nắm giữ bởi cá nhân, trong khi cổ phiếu của các công ty lớn chủ yếu thuộc về các tổ chức (Lee, Shleifer và Thaler, 1991).

Baker và Wurgler (2006, 2007) đã phát triển một chỉ số đo lường mức độ nhạy cảm của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Hoa Kỳ, dựa trên sáu biến số gián tiếp, bao gồm tỷ lệ chiết khấu của các quỹ đầu tư đóng, tỷ lệ doanh thu cổ phiếu trên sàn NYSE, số lượng đợt phát hành cổ phiếu lần đầu (IPO), lợi suất trung bình trong ngày IPO đầu tiên, hệ số vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn và giá trị khuyến khích cổ tức trong giá cổ phiếu Họ nhận thấy rằng tâm lý nhà đầu tư có ảnh hưởng mạnh mẽ hơn đến các cổ phiếu được định giá chủ quan hoặc khó giao dịch chênh lệch trên thị trường này.

Nghiên cứu của Baker, Wurgler và Yuan (2012) phát triển từ công trình trước đó của Baker và Wurgler (2007), tập trung vào bốn đại lượng gián tiếp: chênh lệch biến động thị trường, số lượng đợt phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng, lợi suất trung bình ngày IPO đầu tiên và tỷ lệ cổ phiếu giao dịch Nghiên cứu đã xây dựng các chỉ số độ nhạy cảm của nhà đầu tư cho sáu thị trường chứng khoán: Canada, Pháp, Đức, Nhật, Anh và Hoa Kỳ, sau đó gộp thành một chỉ số toàn cầu Kết quả cho thấy tâm lý nhà đầu tư có mối tương quan ngược chiều có ý nghĩa thống kê với lợi nhuận thị trường, khẳng định và mở rộng kết quả nghiên cứu trước đó tại thị trường Hoa Kỳ.

Năm 2012, nghiên cứu của Claudia và Francisco trên thị trường cổ phiếu Brazil đã sử dụng năm biến đại diện cho tâm lý nhà đầu tư, bao gồm tỷ lệ phần trăm cổ phần trong các đợt phát hành mới, số lượng IPO, số lượng cổ phiếu giao dịch, sự khác biệt giữa tỷ lệ giá trị sổ sách và giá trị thị trường của các công ty trả và không trả cổ tức, cùng chỉ số giao dịch thị trường (TRIN) Kết quả cho thấy có mối quan hệ nghịch biến có ý nghĩa thống kê giữa mức độ nhạy cảm của thị trường và tỷ suất lợi nhuận trong tương lai Nhóm tác giả khuyến nghị nên đưa yếu tố hành vi của nhà đầu tư vào mô hình nghiên cứu định giá tài sản tương lai.

Công trình gần đây của Banholzer, Heiden và Schneller (2019) đã mở rộng bộ dữ liệu của Baker và Wurgler (2006) để đo lường tâm lý nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Các tác giả phát triển chỉ số nhạy cảm dựa trên bốn đại lượng: mức chiết khấu của quỹ đầu tư đóng theo giá trị tài sản ròng, số lượng đợt phát hành cổ phiếu lần đầu, số lượng cổ phiếu giao dịch và chênh lệch biến động cổ phiếu Kết quả nghiên cứu một lần nữa khẳng định tính chính xác của phương pháp mà Baker và Wurgler đã đề xuất.

Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu chính của luận văn là đánh giá mức độ nhạy cảm của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Hồ Chí Minh, sử dụng dữ liệu từ Bloomberg về giao dịch cổ phiếu tại Sàn Giao dịch Chứng khoán Hồ Chí Minh (HOSE) Nghiên cứu áp dụng khung lý thuyết tài chính hành vi và phương pháp tiếp cận của Baker và Wurgler (2006).

Các nghiên cứu trước đây tại Việt Nam chủ yếu dựa trên phương pháp định tính, thiếu các kết quả thực nghiệm để xác nhận tính phù hợp của lý thuyết với thị trường Nghiên cứu này tập trung vào việc đo lường mức độ nhạy cảm trong tâm lý nhà đầu tư bằng cách sử dụng dữ liệu thị trường, nhằm ứng dụng các luận cứ thu thập được vào thông tin bất cân xứng trên thị trường chứng khoán Việt Nam Mục tiêu của nghiên cứu là trả lời các câu hỏi liên quan đến vấn đề này.

(1) Những yếu tố tác động đến mức độ nhạy cảm của nhà đầu tư trên thị trường Việt Nam.

Chiều hướng và mức độ tác động của các yếu tố đến mức độ nhạy cảm trên thị trường chứng khoán Việt Nam được nghiên cứu thông qua đề tài “Đo lường chỉ số mức độ nhạy cảm của nhà đầu tư” Đề tài này tập trung làm rõ bốn vấn đề chính liên quan đến sự nhạy cảm của nhà đầu tư trong bối cảnh thị trường hiện tại.

Bài viết trình bày cơ sở lý luận về tài chính học hành vi, tập trung vào mức độ nhạy cảm của nhà đầu tư và ảnh hưởng của nó đến thị trường chứng khoán Ngoài ra, nghiên cứu cũng đề cập đến một số lý thuyết nền tảng quan trọng trong lĩnh vực tài chính học hành vi.

Phân tích thị trường chứng khoán Việt Nam, đặc biệt là sàn giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh (HOSE), từ góc độ tài chính hành vi giúp hiểu rõ hơn về tâm lý và hành vi của các nhà đầu tư Nghiên cứu này đánh giá mức độ nhạy cảm của nhà đầu tư trên HOSE, từ đó cung cấp cái nhìn sâu sắc về các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư và xu hướng giao dịch trên thị trường Việc nắm bắt những yếu tố tâm lý này có thể hỗ trợ trong việc dự đoán biến động thị trường và tối ưu hóa chiến lược đầu tư.

Đo lường chỉ số mức độ nhạy cảm của nhà đầu tư chứng khoán có thể thực hiện thông qua năm biến đại diện, sử dụng phương pháp phân tích thành phần chính (Principal Component Analysis) Phương pháp này giúp xác định các yếu tố chính ảnh hưởng đến quyết định đầu tư, từ đó cung cấp cái nhìn sâu sắc về hành vi và tâm lý của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán.

Dựa trên kết quả thu được, chúng tôi đã đưa ra kết luận về chỉ số nhạy cảm của nhà đầu tư trên thị trường Việt Nam Từ đó, chúng tôi đề xuất một số gợi ý hữu ích cho nhà đầu tư và doanh nghiệp, đồng thời kiến nghị các cơ quan nhà nước có liên quan để cải thiện môi trường đầu tư.

Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của Luận văn tập trung vào mức độ nhạy cảm của nhà đầu tư trên Sàn Giao dịch Chứng khoán Hồ Chí Minh (HOSE) Mức độ nhạy cảm này được đo lường thông qua năm biến đại diện, bao gồm chênh lệch biến động giao dịch cổ phiếu (volatility premium), số lượng đợt phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng, lợi suất trung bình ngày IPO đầu tiên, chỉ số giao dịch thị trường (TRIN) và số lượng tỷ lệ cổ phiếu giao dịch trên thị trường.

Phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu này được thực hiện trên thị trường chứng khoán Việt Nam, tập trung vào dữ liệu từ Sàn Giao dịch Chứng khoán Hồ Chí Minh (HOSE), nơi có thời gian hoạt động dài hơn so với Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) HOSE, được thành lập vào tháng 07/2000, có quy mô và khối lượng giao dịch lớn hơn, với nhiều cổ phiếu vốn hóa lớn và dẫn đầu thị trường như Vinamilk, Masan, Vingroup, Kinh Đô, Vietcombank, và FPT được niêm yết tại đây Vì vậy, dữ liệu từ HOSE được chọn làm đại diện cho toàn bộ thị trường chứng khoán Việt Nam.

Để đạt được kết quả đáng tin cậy và thực tiễn, luận văn này sử dụng dữ liệu giao dịch từ sàn HOSE trong năm 2019.

Phương pháp nghiên cứu

Để nghiên cứu mức độ nhạy cảm của nhà đầu tư chứng khoán, luận văn áp dụng đồng thời hai phương pháp định tính và định lượng nhằm cung cấp cái nhìn toàn diện và chính xác về hành vi của nhà đầu tư.

Phương pháp định tính bao gồm phân tích và mô tả tình hình nghiên cứu tài chính hành vi, lý thuyết trong lĩnh vực này, cũng như mức độ nhạy cảm tâm lý của nhà đầu tư chứng khoán trên sàn HOSE Bài viết cũng phân tích tác động của sự nhạy cảm này đến kết quả giao dịch toàn thị trường Dựa trên các nguồn thông tin hiện có, tác giả sẽ lựa chọn phương pháp tiếp cận phù hợp nhất với bối cảnh nghiên cứu tại Việt Nam, khả năng thu thập dữ liệu và kiến thức của mình.

Phương pháp nghiên cứu định lượng được áp dụng trong bài viết là phân tích thành phần chính (PCA), sử dụng dữ liệu thu thập từ phần mềm Bloomberg Tác giả tính toán giá trị các biến đã chọn theo công thức trong Phần 3.2 bằng Excel Sau đó, PCA được thực hiện bằng phần mềm Stata với năm đại lượng: chênh lệch biến động giao dịch cổ phiếu (VP), số lượng đợt phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (NIPO), lợi suất trung bình ngày IPO đầu tiên (RIPO), chỉ số giao dịch thị trường (TRIN) và số lượng tỷ lệ cổ phiếu giao dịch trên thị trường (TURN) Mục tiêu là đo lường mức độ nhạy cảm của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

Đóng góp và tính mới của đề tài

Nghiên cứu mức độ nhạy cảm trong tâm lý nhà đầu tư nhằm phản ánh thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam Hiện tại, số lượng nghiên cứu thực nghiệm về tâm lý nhà đầu tư ở các thị trường đang phát triển như Việt Nam còn hạn chế, dẫn đến việc đánh giá tác động của yếu tố tâm lý lên thị trường chưa được chính xác.

Luận văn này nhằm làm phong phú thêm các nghiên cứu về hiện tượng tài chính thông qua lăng kính tâm lý học Bài viết sẽ tổng quan về tài chính hành vi và sự nhạy cảm trong tâm lý của nhà đầu tư, đồng thời trình bày các lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm liên quan Điều này sẽ giúp các nhà đầu tư và nhà hoạch định chính sách có cái nhìn rõ ràng hơn về yếu tố tâm lý trong giao dịch, từ đó phát triển các giải pháp phù hợp.

Nghiên cứu của Baker và Wurgler (2006) về mức độ nhạy cảm của nhà đầu tư trên nền tảng dữ liệu giao dịch thị trường đã trở thành phương pháp phổ biến trong nhiều thị trường Phương pháp này dễ thực hiện nhờ vào nguồn dữ liệu công bố có sẵn và đã được chứng minh độ tin cậy qua nhiều công trình nghiên cứu, cho thấy khả năng đo lường chính xác mức độ nhạy cảm của nhà đầu tư tham gia thị trường.

Luận văn không chỉ cung cấp cái nhìn tổng quan về tài chính học hành vi và phương pháp đánh giá tính nhạy cảm trong tâm lý nhà đầu tư, mà còn phân tích sâu sắc tâm lý nhạy cảm và ảnh hưởng của nó đến kết quả thị trường và giao dịch của nhà đầu tư Đây là một điểm mới mẻ so với các nghiên cứu trước đây, khi mà hầu hết các công trình định lượng chỉ chú trọng vào việc giải thích các biến đại diện mà chưa khai thác rõ ràng các tác động trực tiếp và gián tiếp của tâm lý nhạy cảm đối với hành vi đầu tư.

Nghiên cứu này cung cấp luận cứ khoa học về cách tạo ra các chỉ số tâm lý để đo lường mức độ nhạy cảm của nhà đầu tư trên thị trường Kết quả cho thấy có mối liên hệ chặt chẽ giữa tâm lý nhà đầu tư và các thông tin như đợt phát hành mới, khối lượng giao dịch, cũng như tính thanh khoản của thị trường.

Kết cấu của đề tài

Luận văn được tổ chức thành 5 chương, bao gồm Giới thiệu đề tài nghiên cứu, Cơ sở lý luận về mức độ nhạy cảm của nhà đầu tư, Phương pháp nghiên cứu, Phân tích dữ liệu và kết quả nghiên cứu, và cuối cùng là Kết luận cùng với một số gợi ý Ngoài ra, bài viết còn có Danh mục Từ viết tắt, Bảng biểu, Sơ đồ, Tài liệu tham khảo và Phụ lục.

Chương 1: Giới thiệu đề tài nghiên cứu

Chương 1 giới thiệu tổng quan về Luận văn bao gồm tính cấp thiết, tình hình nghiên cứu trên thế giới, mục tiêu nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, các giới hạn của phạm vi nghiên cứu Từ các thông tin cơ bản trên, Chương này làm rõ tính mới, những đóng góp của đề tài và động lực thực hiện nghiên cứu, đồng thời cung cấp cho người đọc cái nhìn tổng quát và toàn diện về đề tài Các nội dung ở Chương 1 sẽ là cơ sở để tác giả phát triển sâu hơn các chương tiếp theo.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỨC ĐỘ NHẠY CẢM CỦA NHÀ ĐẦU TƯ

Tài chính học hành vi

Trước đây, lý thuyết thị trường hiệu quả và các mô hình định giá tài sản vốn đã được sử dụng để dự đoán và giải thích các sự kiện tài chính Tuy nhiên, theo thời gian, các học giả đã phát hiện ra nhiều vấn đề bất thường và hành vi không thể lý giải bằng những lý thuyết này Mặc dù các lý thuyết tài chính có thể hoạt động trong điều kiện lý tưởng, thực tế lại phức tạp hơn và hành vi của các nhà đầu tư thường vượt ra ngoài dự đoán.

Một trong những giả định cơ bản của kinh tế học là con người hành động lý trí để tối đa hóa lợi nhuận, tuy nhiên, thực tế cho thấy họ thường phản ứng phi lý trí Ví dụ, việc mua vé số với tỷ lệ thắng cược thấp là một hành động không hợp lý, nhưng hàng triệu người vẫn chi tiền cho nó mỗi ngày Điều này cho thấy rằng cảm xúc và các yếu tố ngoại lai ảnh hưởng đến quyết định kinh tế, điều mà kinh tế học truyền thống không thể giải thích Do đó, các nhà lý luận đã phải xem xét tâm lý học nhận thức để hiểu rõ hơn về hành vi phi lý trí của con người trong lĩnh vực tài chính.

(homo economicus) trong khi tài chính học hành vi tìm kiếm lý giải cho hành động dưới góc độ một “con người”.

2.1.1 Khái niệm hành vi nhà đầu tư và tài chính hành vi

Hành vi của con người, theo Guez và Allen (2000), là cách mà con người phản ứng với các kích thích từ môi trường, được chia thành ba nhóm chính: hành vi bản năng, hành vi kỹ xảo và hành vi trí tuệ Những hành vi này là kết quả của một quá trình phức tạp, phản ánh các phản ứng của cơ thể trước nhiều kích thích bên ngoài Hành vi có thể ổn định hoặc bị thiên lệch, dẫn đến những kết quả bất thường, ảnh hưởng đến quyết định đầu tư Nguyễn Đức Hiển (2012) định nghĩa hành vi nhà đầu tư là chuỗi hành động của nhà đầu tư khi đối mặt với các yếu tố bên ngoài liên quan đến thị trường tài chính và các yếu tố nội tại của chính nhà đầu tư.

Tài chính hành vi là một lĩnh vực khoa học nghiên cứu tác động của tâm lý con người đến thị trường và hệ thống tài chính Nó kết hợp hành vi và lý thuyết tâm lý học nhận thức với kinh tế học và tài chính, giúp lý giải tại sao con người thường đưa ra những quyết định phi lý trí, mặc dù có khả năng chọn lựa các phương án hợp lý hơn Tâm lý không chỉ ảnh hưởng đến hành vi cá nhân mà còn gián tiếp tác động đến kết quả giao dịch của toàn bộ thị trường.

Tài chính hành vi kết hợp kiến thức từ tâm lý học, xã hội học và tài chính để phân tích quyết định kinh tế của các nhà đầu tư trên thị trường Hiểu biết này giúp đánh giá tác động của hành vi đến giá cả tài sản, lợi nhuận và phân bổ nguồn lực xã hội, đồng thời giải thích các hành vi không hợp lý và ảnh hưởng của tâm lý nhà đầu tư đến thị trường chứng khoán Theo lý thuyết tài chính hành vi, quyết định đầu tư của nhà đầu tư bị ảnh hưởng bởi kinh nghiệm cá nhân, nhận thức, cảm xúc, sự nhạy cảm, kỹ năng, thói quen và thông tin có sẵn.

Như vậy, tài chính hành vi được xây dựng trên ba yếu tố: tâm lý học, xã hội học và tài chính.

Sơ đồ 2.1: Các yếu tố chi phối tài chính hành vi

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp

Ba yếu tố chính tác động đến tài chính hành vi bao gồm tâm lý học, xã hội học và tài chính học Tâm lý học nghiên cứu hành vi, cảm xúc và ý chí của con người, cũng như ảnh hưởng của yếu tố vật lý và bên ngoài đến trạng thái tâm lý Xã hội học phân tích các quy luật xã hội và cách chúng ảnh hưởng đến hoạt động của cá nhân và tổ chức trên thị trường Cuối cùng, tài chính học tập trung vào mối quan hệ phân phối của cải vật chất xã hội và quá trình hình thành, phân phối các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế.

Mỗi thị trường có những đặc trưng riêng về tính chất như thời gian tồn tại, quy mô, quy định pháp luật, và hoạt động của các tổ chức tài chính, cũng như đặc điểm của nhà đầu tư như cá nhân hay tổ chức, độ tuổi, tâm lý, tôn giáo, giới tính, trình độ học vấn và kinh nghiệm Những yếu tố này ảnh hưởng khác nhau đến tài chính hành vi, tạo ra sự đa dạng trong cách thức mà các yếu tố này tác động đến quyết định đầu tư.

2.1.2 Lịch sử hình thành và phát triển tài chính học hành vi

2.1.2.1 Sơ lược về Tài chính học truyền thống

Nền tảng của tài chính học truyền thống bao gồm các nguyên lý quan trọng như nguyên tắc kinh doanh chênh lệch giá của Miller và Modigliani, lý thuyết xây dựng danh mục đầu tư của Harry Markowitz, mô hình định giá tài sản CAPM của John Lintner và William Sharpe, cùng với lý thuyết định giá chứng khoán quyền chọn của Fisher Black, Myron Scholes và Robert Merton Tất cả các lý thuyết này dựa trên giả định rằng con người luôn hợp lý và hoạt động trong một thị trường hiệu quả Theo giả định này, nhà đầu tư sẽ sử dụng thông tin có sẵn từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm thông tin kinh tế vĩ mô, thị trường chứng khoán, thông tin ngành, và thông tin vi mô từ tổ chức phát hành, để đưa ra những dự đoán hợp lý về tương lai và xác định giá trị công ty cũng như sức khỏe của nền kinh tế.

Theo giả thuyết thị trường hiệu quả, mọi thông tin có sẵn ảnh hưởng đến giá chứng khoán đều được phản ánh trong giá cả, cho thấy sự cạnh tranh hoàn hảo trong thị trường Điều này dẫn đến việc giá chứng khoán chỉ thay đổi khi có thông tin mới được thu thập Thị trường nhanh chóng cập nhật thông tin, khiến kỳ vọng về biến động giá trong tương lai trở nên ngẫu nhiên so với giá trị cơ bản Do đó, nhà đầu tư không thể thu lợi từ thông tin đã biết hay từ các biến động giá trong quá khứ Thị trường hiệu quả được chia thành ba loại: dạng yếu, dạng trung bình và dạng mạnh.

Phiên bản thị trường hiệu quả dạng yếu cho rằng giá chứng khoán đã phản ánh đầy đủ thông tin công bố trong quá khứ Nhà đầu tư có thể kiếm thu nhập thặng dư bằng cách áp dụng các chiến lược đầu tư dựa trên nghiên cứu giá cổ phiếu trước đó hoặc các số liệu tài chính khác Theo lý thuyết, những nhà đầu tư khéo léo có khả năng tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc phân tích các báo cáo tài chính và thông tin liên quan.

Lý thuyết phiên bản trung bình cho rằng giá chứng khoán đã phản ánh đầy đủ thông tin công bố trong quá khứ và thông tin mới nhất Giá cổ phiếu sẽ chỉ điều chỉnh một cách nhỏ và công bằng trước các thông tin được công bố rộng rãi Do đó, nhà đầu cơ không thể lợi dụng thông tin cũ hay mới để mua rẻ bán đắt, vì giá chứng khoán đã nhanh chóng điều chỉnh theo thông tin vừa được công bố.

Thị trường hiệu quả dạng mạnh khẳng định rằng giá chứng khoán phản ánh đầy đủ thông tin công bố trong quá khứ, hiện tại và thông tin nội bộ, do đó không ai có thể kiếm lợi nhuận thặng dư trong dài hạn Theo lý thuyết này, nếu có thông tin nội bộ, người nắm giữ sẽ giao dịch ngay để thu lợi, khiến giá chứng khoán thay đổi cho đến khi không còn lợi nhuận Khi thị trường hiệu quả, cơ chế điều chỉnh giá thông qua kinh doanh chênh lệch giá sẽ tồn tại; khi giá trị tài sản không phản ánh đúng giá trị hợp lý, nhà đầu tư sẽ mua tài sản bị định giá thấp và bán tài sản định giá quá cao, góp phần đưa giá cả về trạng thái cân bằng hợp lý.

Tài chính truyền thống cho rằng con người hành động hợp lý khi đặt ra mục tiêu và đưa ra quyết định phù hợp Tuy nhiên, lịch sử chứng khoán cho thấy các nhà đầu tư thường bị chi phối bởi cảm xúc và tâm lý, dẫn đến những quyết định không sáng suốt Điều này cho thấy giả thuyết thị trường hiệu quả khó có thể áp dụng thực tế, khi giá cổ phiếu thường lệch khỏi giá trị thực Từ đó, tài chính hành vi ra đời với giả định rằng "thị trường không luôn đúng" và "nhà đầu tư không hợp lý".

2.1.2.2 Sự ra đời của Tài chính hành vi

Tài chính hành vi, được hình thành muộn hơn so với lý thuyết tài chính chuẩn, kết hợp kiến thức về tâm lý học và xã hội học nhằm lý giải các hành vi không hợp lý của nhà đầu tư và ảnh hưởng của chúng đến thị trường tài chính Theo Nguyễn Đức Hiển (2012), tài chính học hành vi bắt đầu từ những năm 80 của thế kỷ 19 với nghiên cứu của nhà tâm lý học Gabriel Tarde về ứng dụng tâm lý học vào kinh tế Tuy nhiên, phải gần một thế kỷ sau, tài chính hành vi mới phát triển mạnh mẽ với sự ra đời của nhiều công trình nền tảng như Lý thuyết triển vọng của Daniel Kahneman và Amos Tversky (1979) và Lý thuyết ra quyết định dựa trên kinh nghiệm chủ quan Từ đây, tài chính học hành vi mở ra một hướng tiếp cận mới cho các vấn đề tồn tại và trở thành một bổ sung quan trọng cho tài chính truyền thống.

Tài chính hành vi là một lĩnh vực mới trong tài chính hiện đại, tập trung vào việc nghiên cứu và giải thích các yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến hành vi của con người trên thị trường tài chính Theo Trần Ngọc Thơ và Hồ Quốc Tuấn (2007), lý thuyết tài chính hành vi vẫn chưa được hệ thống hóa đầy đủ, nhưng có ba điều kiện quan trọng cho sự tồn tại của nó: (i) sự hiện diện của hành vi bất hợp lý, (ii) tính hệ thống của hành vi bất hợp lý, hay còn gọi là “tâm lý bầy đàn”, và (iii) giới hạn trong khả năng kinh doanh chênh lệch giá trên thị trường.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Ngày đăng: 04/08/2021, 16:54

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Ana, O., B. (2019) "Google Search-Based Sentiment Indexes", IIWB Management Review Sách, tạp chí
Tiêu đề: Google Search-Based Sentiment Indexes
2. Baker, M. and Wurgler, J. (2006) "Investor sentiment and the Cross-Section of Stock Returns", The Journal of Finance, Volume LXI, No.4 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Investor sentiment and the Cross-Section ofStock Returns
3. Baker, M. and Wurgler, J. (2007) "Investor sentiment in the stock market", The Journal of Economic Perspectives 21 (2) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Investor sentiment in the stock market
4. Baker, M., Wurgler, J., Yuan Y. (2012) "Global, local, and contagious investor sentiment", Journal of Financial Economics Sách, tạp chí
Tiêu đề: Global, local, and contagious investor sentiment
5. Banholzer, N., Heiden, S. and Schneller D. (2019) "Exploiting investor sentiment for portfolio optimization", Business Research 12, 671-702 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Exploiting investor sentimentfor portfolio optimization
6. Claudia, E. Y. and Francisco, H. F. (2012) "The Relationship between Market Sentiment Index and Stock Rates of Return: a panel Data Analysis", Brazillian Administration Review, Volume 9, No. 2, Article 4, 189-210 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The Relationship between MarketSentiment Index and Stock Rates of Return: a panel Data Analysis
7. David, C. L., Andy, N., and Benjamin, S. (2010) "Investor Sentiment and Asset Pricing in Public and Private Markets", Department of Finance, Insurance, and Real Estate, Warrington College of Business Administration, University of Florida Sách, tạp chí
Tiêu đề: Investor Sentiment and AssetPricing in Public and Private Markets
8. De Long, J., Bradford, Andrei, S., Lawrence, H., and Robert, J. (1990) "Noise Trader Risk in Financial Markets", Journal of Political Economy, 98, 703-738 Sách, tạp chí
Tiêu đề: NoiseTrader Risk in Financial Markets
9. Francisca, B. and Mohamed, Z. (2013) "Measuring stock market investor sentiment", The Journal of Applied Business Research, Volume 29, No.1 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Measuring stock market investor sentiment
10. Kaiser, H. F. (1960) “The application of electronic computers to factor analysis”, Educational cand Psychologyical Measurement, 20(1), 141-151 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The application of electronic computers to factor analysis
11. Lee, C., M., Shleifer, A. and Thaler, R., H. (1991) "Investment sentiment and the closed-end fund puzzle", The Journal of Finance, 21(3), 233-249 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Investment sentiment and theclosed-end fund puzzle
12. Lily, Q., Ivo, W. (2004) "Investor Sentiment Measures", NBER Working paper No. 10794 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Investor Sentiment Measures
13. Ling, D., Naranjo, A.and Scheick, B. (2010) "Investment sentiment and asset pricing in public and private markets", Department of Finance, Insurance, and Real Estate. University of Florida Sách, tạp chí
Tiêu đề: Investment sentiment and asset pricing in public and private markets
14. Neal, R. and Wheatley, S. M. (1998) "Do measures of investor sentiment predict returns?", Journal of Financial & Quantitative Analysis 33 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Do measures of investor sentiment predictreturns
15. Shleifer, A., Robert, V. (1997) "The Limits of Arbitrage", Journal of Finance, 54, 375-421 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The Limits of Arbitrage
16. Wang, Y., Keswani, A. and Taylor, S. J. (2006) “The relationships between sentiment, returns and volatility”, International Journal of Forecasting, 22(1), 109- 123 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The relationships between sentiment, returns and volatility
28. Duino, S, 2019, The roller coaster of investor’s emotions: 14 steps that will improve your investing decisions, Modern Times Investor. Available at:https://moderntimesinvestors.com/investing/investor-emotion-cycle/ Link
35. Natsuko, W., 2009, Investor Sentiment Roadmap, Reuter’s Blog. Available at:http://blogs.reuters.com/macroscope/2009/08/07/investor-sentiment-roadmap/ Link
1. Lê Hoàng Nga, Hoàng Phương Mai, 2015, Tài chính hành vi và Thị trường tài chính Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng Khác
2. Đặng Văn Dân, 2016, Lý thuyết tài chính hành vi trên thị trường chứng khoán Việt Nam và những vấn đề đặt ra, Tạp chí Tài chính kỳ 2 số 03/2016, 13 – 16 Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w