Mục đích và câu hỏi nghiên cứu
Để cải thiện hoạt động thu gom chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) tại TPHCM, cần xác định nguyên nhân của việc điều tiết chưa hiệu quả hiện nay Từ đó, đề xuất các giải pháp chính sách cụ thể nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ thu gom CTRSH cho thành phố.
Nghiên cứu tập trung trả lời các câu hỏi sau:
- Thành phố nên quản lý hoạt động của các đơn vị cung ứng dịch vụ thu gom CTRSH như thế nào?
- Thành phố phải kiểm soát chất lượng dịch vụ thu gom CTRSH ở các khía cạnh nào?
Để đạt được sự đồng thuận cao hơn từ các bên liên quan, thành phố cần xây dựng một chính sách thu và quản lý phí dịch vụ thu gom CTRSH minh bạch và công bằng Chính sách này nên bao gồm việc xác định rõ ràng mức phí, quy trình thu phí và cách sử dụng các nguồn thu từ phí dịch vụ để nâng cao chất lượng dịch vụ Đồng thời, cần có sự tham gia của cộng đồng trong việc đóng góp ý kiến và giám sát quá trình thực hiện, nhằm tăng cường tính trách nhiệm và sự hài lòng của người dân.
Phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu này tập trung vào nội dung can thiệp của nhà nước trong việc thu gom chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) từ các hộ gia đình tại TPHCM Nghiên cứu chủ yếu phân tích tổ chức cung ứng của các doanh nghiệp tư nhân và các công ty DVCI tại các quận/huyện Đối với các hợp tác xã (HTX), tác giả chỉ khái quát thực trạng hiện tại dựa trên các nghiên cứu trước đó.
Từ năm 2005 đến 2010, bài viết phân tích các quy định hiện hành được ban hành từ năm 1998 cho đến nay, nhằm làm rõ sự phát triển và ảnh hưởng của chúng trong giai đoạn này.
Đề tài áp dụng phương pháp nghiên cứu định tính và thống kê mô tả, kết hợp với phỏng vấn và khảo sát nhằm làm rõ các nội dung phân tích.
Dựa trên định hướng nghiên cứu và các quy định hiện hành của thành phố, tác giả đã thiết kế bảng câu hỏi phỏng vấn cho ba nhóm đối tượng: hộ gia đình, người lao động trực tiếp và các khảo sát trước đây của Viện nghiên cứu phát triển TPHCM vào năm 2007.
3 Phụ lục 1 gom, UBND phường/xã 4 Cả 3 nhóm này được chọn ngẫu nhiên tại 5 phường/xã thuộc 5 quận/huyện khác nhau của TPHCM 5
Nhóm NLĐ trực tiếp thu gom CTRSH phải đối mặt với công việc nặng nhọc và độc hại, tuy nhiên, họ đang làm việc cho các tổ chức khác nhau với mức độ trang bị bảo hộ lao động và phúc lợi không đồng nhất Việc phỏng vấn NLĐ thu gom giúp so sánh điều kiện lao động và các khoản phúc lợi mà họ nhận được từ các tổ chức khác nhau Từ đó, có thể đưa ra kiến nghị về các quy định tối thiểu cần thiết cho NLĐ trong ngành này.
Nhóm hộ gia đình đã tiến hành phỏng vấn để đánh giá chất lượng dịch vụ mà người dân nhận được Qua đó, chúng tôi cũng nhận diện được thực trạng cách mà người dân trong khu vực xử lý lượng CTRSH hàng ngày của hộ gia đình mình.
UBND phường/xã là cơ quan quản lý nhà nước gần gũi nhất với người dân, có hiểu biết sâu sắc về tình hình cung ứng và sử dụng dịch vụ thu gom chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) tại địa phương Qua phỏng vấn trực tiếp với Chủ tịch, Phó Chủ tịch hoặc nhân viên môi trường tại 5 phường/xã, tác giả đã thu thập thông tin về thực trạng quản lý và cung ứng dịch vụ thu gom CTRSH Dựa trên những thông tin này, tác giả cũng đã thảo luận với các đối tượng phỏng vấn về một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình hiện tại.
Tác giả đã tiến hành phỏng vấn trực tiếp 3 chuyên gia từ 2 cơ quan chuyên môn và 1 viện nghiên cứu, đồng thời khảo sát tổ chức và hoạt động của 3 công ty TNHH một thành viên DVCI tại quận/huyện, 4 doanh nghiệp thu gom và vận chuyển rác, 1 Liên đoàn lao động quận cùng với 3 tổ LRDL.
Dựa trên kết quả phỏng vấn và khảo sát, tác giả chỉ ra sự khác biệt giữa mục tiêu thu gom chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) mà TPHCM mong muốn và thực tế hiện tại Phân tích này được thực hiện dựa vào các quy định hiện hành về quản lý CTRSH trên địa bàn thành phố.
5 Quận 1, quận 3, quận Phú Nhuận, quận 10 và huyện Bình Chánh
6 Sở Tài nguyên môi trường, Phòng Tài nguyên môi trường huyện Bình Chánh và Viện nghiên cứu phát triển Thành phố
7 Quận 1, quận 3 và huyện Bình Chánh
Công ty TNHH một thành viên thu gom rác Da Phát tại huyện Bình Chánh, Doanh nghiệp tư nhân thu gom rác Thanh Bình ở huyện Hóc Môn, công ty TNHH thu gom, vận chuyển rác Thành Vạn tại quận 11, và Công ty TNHH thương mại dịch vụ kỹ thuật môi trường Biển Xanh cũng ở huyện Bình Chánh đều là những đơn vị quan trọng trong lĩnh vực thu gom và vận chuyển rác thải tại TP.HCM.
Tại tổ 1, 2, 3 thuộc xã Bình Chánh, huyện Bình Chánh, đã xảy ra sự sai khác trong việc cung ứng dịch vụ thu gom chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) Để cải thiện tình hình này, cần đề xuất một số giải pháp chính sách nhằm nâng cao hiệu quả trong việc điều tiết dịch vụ thu gom CTRSH cho thành phố.
Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Trong bối cảnh các khu phố và ấp nhân dân tại thành phố đang nỗ lực đạt danh hiệu Khu phố/ấp văn hóa, thành phố hướng tới việc xây dựng một môi trường năng động, xứng đáng là trung tâm kinh tế - xã hội của cả nước Hệ thống thu gom chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) được triển khai hiệu quả nhằm cải thiện diện mạo đô thị và nâng cao chất lượng cuộc sống của cư dân, đồng thời thúc đẩy các phong trào thi đua trong cộng đồng đạt được kết quả thiết thực hơn.
Một số phân tích và đề xuất giải pháp chính sách của đề tài có thể là nguồn tham khảo cho các đô thị khác của Việt Nam.
Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được chia thành 4 chương:
Chương 1: Bối cảnh nghiên cứu và tổng quan đề tài
Chương 2: Can thiệp của nhà nước vào thị trường dịch vụ thu gom CTRSH
Chương 3: Thực trạng điều tiết hoạt động cung ứng dịch vụ thu gom CTRSH trên địa bàn
Chương 4: Khuyến nghị chính sách
BỐI CẢNH NGHIÊN CỨU VÀ TỔNG QUAN ĐỀ TÀI
Bối cảnh nghiên cứu đề tài
Dịch vụ thu gom CTRSH đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng, vệ sinh môi trường và mỹ quan đô thị, đặc biệt tại các thành phố lớn như TPHCM với lượng rác thải trung bình trên 5000 tấn/ngày Việc thu gom CTRSH kịp thời là cần thiết để tránh tình trạng ứ đọng, từ đó bảo vệ đời sống kinh tế - xã hội và ngăn chặn sự lây lan của các mầm bệnh Do đó, các đô thị phát triển cần xây dựng hệ thống thu gom CTRSH hiệu quả và có mức bao phủ hợp lý.
Hình 1.1: Biểu đồ khối lƣợng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh hàng năm tại TPHCM
(Nguồn: Số liệu thống kê giai đoạn 1992- 2009, Phòng quản lý chất thải rắn, Sở TNMT)
Tại TPHCM, dịch vụ thu gom chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) hiện được cung cấp bởi cả nhà nước và tư nhân, trong đó tư nhân chiếm hơn 60% khối lượng thu gom Hoạt động của các công ty dịch vụ công ích (DVCI) quận/huyện và hợp tác xã (HTX) được điều chỉnh bởi Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật Hợp tác xã.
10 Số liệu thống kê giai đoạn 1992- 2009, Phòng quản lý CTR, Sở TNMT TPHCM
Từ năm 1992 đến 2009, TP đã ban hành quy chế 5424 12 về tổ chức và hoạt động của lực lượng thu gom rác tư nhân, quy định chi tiết về việc cấp giấy chứng nhận hành nghề cho cá nhân và thành lập các tổ thu gom rác dân lập Quy chế này cho phép UBND phường/xã quản lý và các tổ LRDL được quyền tự thu, tự chi mà không phải nộp ngân sách Tuy nhiên, sau hơn 10 năm thực hiện, hoạt động của các lực lượng thu gom rác dân lập vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thành phố.
Thu gom CTRSH là hoạt động kinh doanh dịch vụ, nhưng từ trước đến nay, chỉ có các doanh nghiệp và HTX thực hiện nghĩa vụ thuế, trong khi những người khác chưa đóng góp cho ngân sách nhà nước Hằng năm, ngân sách thành phố vẫn phải chi gần 1000 tỷ đồng để tài trợ cho việc thu gom, vận chuyển và xử lý rác.
Để giảm gánh nặng quản lý CTR và tiến tới xóa bỏ bao cấp, TP.HCM đã ban hành Quyết định 88/2008/QĐ-UBND ngày 20/12/2008 về thu phí vệ sinh và phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn Theo quyết định này, phường/xã sẽ tiếp tục quản lý các tổ LRDL và đồng thời chịu trách nhiệm thu phí từ các hộ dân, trước đây do các tổ LRDL thực hiện Sau khi thu phí, UBND phường/xã sẽ trích 20% phí quản lý và nộp toàn bộ số phí thu được cho Phòng tài chính quận/huyện, nơi sẽ chi trả cho các đơn vị thu gom.
Quyết định 88 đã gặp phải sự phản đối không chỉ từ lực lượng thu gom rác dân lập mà còn từ các Phường/xã và Quận/huyện, cho thấy sự thiếu đồng thuận trong việc thực hiện Trước tình hình này, thành phố đã xem xét và thừa nhận một số điểm không hợp lý cần điều chỉnh Ngày 07/10/2009, Công văn liên ngành 7345/LCQ-TNMT-TC-CT đã được ban hành để hướng dẫn giải quyết vấn đề này.
Quyết định 5424/1998/Đ-UB-LĐT của UBND Thành phố Hồ Chí Minh ban hành quy chế quản lý chất thải rắn thông thường trên địa bàn TPHCM, được biết đến với tên gọi quy chế 5424, nhằm mục đích cải thiện công tác quản lý và xử lý chất thải rắn, bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng sống cho người dân.
Bài viết của Nguyễn Thanh (2009) đề cập đến việc triển khai thu phí vệ sinh và phí bảo vệ môi trường theo quy định mới, nhấn mạnh rằng điều này sẽ không ảnh hưởng đến lực lượng thu gom rác dân lập Thông tin này được Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố và có thể truy cập tại địa chỉ: http://www.monre.gov.vn/v35/default.aspx?tabidB8&cateID$&idf317&code=RFG1D66317.
Theo Nguyễn Thanh (2009), việc triển khai thu phí vệ sinh và phí bảo vệ môi trường theo quy định mới không ảnh hưởng đến lực lượng thu gom rác dân lập Thông tin này được Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố và có thể truy cập tại địa chỉ http://www.monre.gov.vn/v35/default.aspx?tabidB8&cateID$&idf317&code=RFG1D66317.
Vào đầu tháng 6/2009, hàng trăm người đã tập trung phản đối trước trụ sở Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố, với cao điểm vào ngày 8/6 Sự kiện này dẫn đến việc một số khu vực không tổ chức thu gom rác, gây ra tình trạng ùn ứ rác thải trong khu dân cư Điều này diễn ra trong bối cảnh thực hiện Quyết định 88/2008/QĐ-UBND, quy định điều chỉnh về cơ quan thu phí và tỷ lệ trích giữ lại cho phường/xã là 10%.
Mặc dù lực lượng thu gom CTRSH tại thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều nỗ lực trong việc bảo vệ môi trường, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế trong chất lượng dịch vụ Kết quả khảo sát PAPI năm 2010 cho thấy người dân đánh giá cao dịch vụ thu gom rác, nhưng không thể khẳng định rằng toàn bộ thành phố hài lòng với chất lượng này Thực tế, tình trạng rác thải sinh hoạt tràn ra đường phố và ứ đọng kéo dài là điều thường thấy, cùng với kỹ thuật thu gom chưa hiệu quả và mùi hôi từ các điểm tập trung rác ảnh hưởng đến môi trường sống của cư dân.
Thành phố hiện chưa có chính sách hợp lý để đảm bảo dịch vụ thu gom chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) chất lượng, với tổ chức cung ứng quy mô, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính với nhà nước.
Tổng quan các nghiên cứu trước
Nghiên cứu về quản lý CTRSH đang thu hút sự quan tâm lớn từ nhiều tác giả và nhà nghiên cứu cả trong và ngoài nước Tại TPHCM, Trung tâm nghiên cứu ứng dụng công nghệ và quản lý môi trường (CENTEMA) thuộc Đại học Văn Lang, dưới sự dẫn dắt của TS Nguyễn Trung Việt, đã thực hiện một báo cáo khoa học nhằm phân tích thực trạng quản lý CTRSH tại địa phương.
“ uy hoạch tổng thể hệ thống hành chính quản lý CTR đô thị TP.Hồ Chí Minh” (1998)
Báo cáo nghiên cứu đầu tiên về CTR tại TPHCM đã đưa ra ba kết luận quan trọng: Thứ nhất, hệ thống quản lý CTR đô thị được thiết lập từ cấp thành phố đến quận/huyện Thứ hai, hệ thống này bao gồm cả thành phần kinh tế nhà nước và tư nhân, hoạt động với hiệu quả khác nhau Thứ ba, hệ thống đang bộc lộ nhiều nhược điểm, trong đó nhược điểm lớn nhất là trình độ cán bộ quá thấp và cơ sở vật chất nghèo nàn.
16 CECODES (2010), “Chỉ số hiệu quả quản lý hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam , Trung tâm công tác lý luận MTTQVN, UNDP
Nghiên cứu của Giang Thị Yến (2006) từ góc độ quy phạm pháp luật, đặc biệt là Luật bảo vệ môi trường 2005, đã phân tích quản lý nhà nước về chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) tại TPHCM Trong đó, thu gom được xác định là một trong những nội dung cốt lõi của quản lý nhà nước về CTRSH, bao gồm các hoạt động phân loại, thu gom, vận chuyển, giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, xử lý, tiêu huỷ và thải loại chất thải Xã hội hóa quản lý cũng là một yếu tố quan trọng trong quá trình này.
CTRSH là một trong hai giải pháp chính sách được đề xuất trong nghiên cứu, với việc phân tích kinh nghiệm và phương pháp của một số quốc gia Tác giả chỉ ra rằng, thông qua việc đánh giá điểm mạnh và điểm yếu trong việc huy động các nguồn lực cho thu gom CTRSH, thành phố có thể cải thiện hệ thống thu gom nếu nhận được sự hỗ trợ cho các lực lượng thu gom từ khu vực tư nhân.
Nghiên cứu "Xây dựng hệ thống quản lý lực lượng thu gom CTRSH trên địa bàn TPHCM" của Trần Nhật Nguyên (2008) đã phân tích tình hình tổ chức cung ứng dịch vụ thu gom rác thải tại TPHCM, bao gồm các công ty DVCI quận/huyện, hợp tác xã, nghiệp đoàn lao động và lực lượng rác dân lập Sử dụng phương pháp SWOT, tác giả đã so sánh các hình thức thu gom hiện có và dự báo khối lượng CTRSH phát sinh đến năm 2020 Từ đó, nghiên cứu đề xuất một số giải pháp chính sách, trong đó nhấn mạnh việc lực lượng thu gom CTR dân lập cần đăng ký ngành nghề hoạt động và tuân thủ các quy định của Luật Doanh nghiệp để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ.
Tác giả đã tổng quan về các can thiệp của chính quyền TPHCM đối với hoạt động thu gom chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH), với hai lực lượng chính là khu vực nhà nước và tư nhân Các công ty DVCI và HTX hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và Luật HTX, trong khi các tổ LRDL chịu sự điều chỉnh của nhiều chính sách từ chính quyền thành phố, tuy nhiên việc thực thi chưa nhận được sự đồng thuận cao từ các bên liên quan Nhiều nghiên cứu trong nước đã được thực hiện về chủ đề này, trong đó có nghiên cứu đầu tiên của Nguyễn Trung Việt và cộng sự về quản lý CTR tại TPHCM.
Nghiên cứu của Giang Thị Yến (2006) và Trần Nhật Nguyên (2008) đã đóng góp những cái nhìn đa dạng về tình hình cung ứng dịch vụ, bên cạnh nghiên cứu từ năm 1998 Những nghiên cứu này giúp làm rõ thực trạng và các khía cạnh khác nhau của dịch vụ hiện có.
Điều 3, Khoản 12, Luật Bảo vệ môi trường 2005 quy định về thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn (CTR) tại TPHCM, đồng thời đề xuất các giải pháp chính sách nhằm cải thiện mạng lưới cung ứng dịch vụ liên quan đến CTR, đặc biệt là dịch vụ thu gom chất thải sinh hoạt (CTRSH) Hầu hết các giải pháp tập trung vào việc tác động đến khu vực tư nhân để nâng cao hiệu quả quản lý chất thải.
CAN THIỆP CỦA NHÀ NƯỚC VÀO THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ
Cơ sở để nhà nước can thiệp vào thị trường dịch vụ thu gom chất thải rắn sinh hoạt
Từ góc độ kinh tế học, Nhà nước can thiệp vào thị trường khi xuất hiện thất bại trong phân bổ nguồn lực hoặc khi kết quả kinh tế không đạt yêu cầu Các thất bại này bao gồm: thế lực thị trường, thông tin bất cân xứng, hàng hóa công, ngoại tác, bất bình đẳng và bất ổn vĩ mô.
Các thất bại trên thị trường dịch vụ thu gom chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) chủ yếu do bản chất hàng hóa và cách thức vận hành của thị trường Để xác định cơ sở can thiệp của nhà nước, cần xem xét các đặc điểm riêng của dịch vụ này.
Dịch vụ thu gom CTRSH, mặc dù không sản xuất ra sản phẩm vật chất, nhưng lại có tác động tích cực đến xã hội bằng cách giữ cho các hộ dân và đường phố luôn sạch sẽ Điều này không chỉ giúp cải thiện môi trường sống mà còn góp phần bảo vệ sức khỏe cộng đồng, ngăn ngừa sự phát sinh của các mầm bệnh nguy hiểm Vì vậy, có thể khẳng định rằng dịch vụ thu gom CTRSH đã tạo ra một ngoại tác tích cực cho xã hội.
Dịch vụ thu gom rác thải đang đối mặt với nguy cơ thất bại thị trường do cung cấp không đủ trong khi nhu cầu tiêu dùng lại quá lớn Công việc này không chỉ nặng nhọc mà còn tiềm ẩn nhiều nguy hiểm do rác thải thường có mùi hôi và bẩn Thời gian làm việc chủ yếu vào ban đêm, nhưng mức thu nhập trung bình chỉ dao động từ 0.5 đến 1.5 triệu đồng/tháng, thấp hơn so với nhiều công việc lao động chân tay khác Chính vì vậy, công việc thu gom rác chủ yếu thu hút lao động nhập cư.
Tình trạng tiêu dùng quá mức đang diễn ra nghiêm trọng, dẫn đến việc phát sinh rác thải từ hoạt động hàng ngày của người dân và các hộ gia đình Nguyên nhân một phần là do ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường còn thấp, bên cạnh đó là sự thiếu nghiêm khắc trong việc thực hiện các quy định xử phạt đối với hành vi gây ô nhiễm môi trường.
18 Vũ Thành Tự Anh (2010), Bài giảng Kinh tế học khu vực công, Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright
Theo nghiên cứu của Trần Nhật Nguyên (2008) tại Đại học Bách khoa TPHCM, hệ thống quản lý thu gom chất thải rắn sinh hoạt tại TPHCM đang gặp nhiều vấn đề Cụ thể, việc thực hiện quy định chưa nghiêm ngặt và cơ chế giám sát cộng đồng chưa hiệu quả dẫn đến tình trạng một bộ phận không nhỏ hộ dân không đóng phí thu gom rác, thay vào đó, họ thường vứt rác bừa bãi ở nhiều nơi.
Dịch vụ thu gom CTRSH là một trong những dịch vụ khuyến nghị, nhưng nhiều cá nhân và hộ gia đình vẫn không tuân thủ quy định, mặc dù họ nhận thức rằng việc thu gom rác đúng cách sẽ cải thiện chất lượng sống Động cơ cá nhân khiến họ lảng tránh việc đóng phí thu gom hàng tháng, mà họ cho rằng có thể mang lại lợi ích vật chất lớn hơn Tuy nhiên, lợi ích từ việc đóng phí để được thu gom đầy đủ không chỉ lớn hơn mà còn mang lại lợi ích cho cả cộng đồng Theo Joseph E Stiglitz, khi cá nhân không hành động vì lợi ích tốt nhất của mình, nhà nước cần can thiệp để đảm bảo mọi người sử dụng dịch vụ vì lợi ích chung.
Dịch vụ thu gom chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) dễ dàng dẫn đến tình trạng độc quyền trong cung ứng do bản chất đặc thù của nó Một trong những nguyên nhân chính gây ra tình trạng độc quyền này là hiệu ứng mạng lưới.
Dịch vụ thu gom CTRSH chỉ mang lại hiệu quả tích cực khi hầu hết các hộ dân trong khu vực đều sử dụng Nhà cung cấp dịch vụ cần đạt được số lượng hộ tối thiểu để bù đắp chi phí khi mở rộng tuyến đường thu gom Do đó, để tối ưu hóa hoạt động thu gom và lợi nhuận, các dây rác đã thỏa thuận ngầm về khu vực thu gom, mỗi dây rác đảm nhận một địa bàn riêng biệt.
Khác với các dịch vụ tiêu dùng thông thường, người tiêu dùng trong lĩnh vực thu gom CTRSH chỉ có hai lựa chọn: ký hợp đồng với nhà cung cấp dịch vụ đang phục vụ khu vực mình sinh sống hoặc tự xử lý rác thải.
Dịch vụ thu gom chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) có thể được xem như một loại hàng hóa công, với hai đặc điểm chính là không có tính tranh giành và không có tính loại trừ.
20 Joseph E.Stiglitz (1995), inh tế học công cộng, NXB Khoa học kỹ thuật và trường Đại học Kinh tế quốc dân, tr.121
Theo Joseph E Stiglitz (1995), dịch vụ thu gom chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) cần được nhà nước đảm bảo cung ứng do có yếu tố ngoại tác tích cực cho xã hội, mặc dù dịch vụ này có tính loại trừ và tính cạnh tranh Cần phân biệt giữa hàng hóa công do chính phủ cung cấp và hàng hóa công, vì số lượng hàng hóa công ít hơn so với nhu cầu xã hội (Robert S Pindyck và Daniel L Rubinfeld, 1999) Nhà nước không chỉ có chức năng quản lý mà còn phải phục vụ xã hội bằng cách cung cấp các dịch vụ thiết yếu, bao gồm cả dịch vụ công và đảm bảo môi trường trong lành Do đó, thu gom CTRSH là một dịch vụ mà nhà nước phải chịu trách nhiệm cung cấp (Lê Chi Mai, 2003) Bốn đặc điểm chính đã chỉ ra rằng thị trường dịch vụ thu gom CTRSH đang gặp phải thất bại thị trường, tạo cơ sở cho sự can thiệp của nhà nước.
Các hình thức can thiệp có thể
Hình 2.1: Cây quyết định cho sự can thiệp của chính quyền 23
Khi can thiệp vào bất cứ thị trường nào, nhà nước có hai phương thức cơ bản: duy trì thẩm quyền hoặc ủy quyền
Can thiệp theo phương thức duy trì thẩm quyền:
Nhà nước thiết lập hệ thống quy định nhằm điều tiết cung ứng dịch vụ trên thị trường, giúp hạn chế các thất bại và đảm bảo hoạt động theo định hướng của chính phủ Chẳng hạn, trong lĩnh vực giáo dục - một loại hàng hóa tư thuần túy, nhà nước ban hành các tiêu chuẩn về trường lớp, giáo viên và quy định thi tuyển để đảm bảo chất lượng tối thiểu cho người tiêu dùng.
Nhà nước sử dụng công cụ tài chính để hỗ trợ hai nhóm đối tượng chính: nhà cung ứng dịch vụ và người tiêu dùng Đối với nhà cung ứng, nhà nước có thể áp dụng các biện pháp như miễn, giảm thuế hoặc cấp trợ cấp Mục tiêu chính là chuyển giao một phần lợi ích từ nhà cung ứng sang người tiêu dùng.
Trong lĩnh vực quản lý công, việc cải thiện hiệu quả phục vụ người tiêu dùng là rất quan trọng Theo R.G Laking (1996) và nghiên cứu của Salvatore Schiavo-Campo cùng Pachampet Sundaram (2003), nhà nước có thể hỗ trợ người tiêu dùng thông qua các hình thức trợ cấp trực tiếp bằng tiền hoặc hiện vật, cũng như trợ cấp gián tiếp thông qua chính sách thuế.
Nhà nước có thể trực tiếp cung ứng dịch vụ cho thị trường thông qua các doanh nghiệp nhà nước hoặc các đơn vị sự nghiệp do nhà nước thành lập và quản lý.
Can thiệp theo phương thức ủy quyền bao gồm việc ủy quyền cho chính quyền cấp dưới và các thực thể có mục đích xác định Chính quyền cấp cao hơn có thể ủy quyền cho chính quyền cấp dưới lựa chọn chính sách dựa trên phân cấp và phân quyền hiện có Đồng thời, nhà nước cũng có thể ủy quyền cho các doanh nghiệp tư nhân cung ứng dịch vụ bằng cách ký hợp đồng trực tiếp, cho phép họ tự cung ứng dịch vụ theo các điều khoản nhất định, trong khi nhà nước vẫn giữ quyền phân phối dịch vụ.
Nhà nước cần can thiệp vào thị trường dịch vụ thu gom chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) vì đây là dịch vụ mang lại ngoại tác tích cực cho xã hội Tuy nhiên, dịch vụ này thường bị tiêu dùng quá mức trong khi nguồn cung hạn chế, dẫn đến khả năng độc quyền trong cung ứng Mặc dù là hàng hóa tư thuần túy, sự can thiệp của nhà nước là cần thiết để giảm thiểu các hạn chế trên thị trường Để thực hiện điều này, nhà nước có thể áp dụng hai phương thức cơ bản: duy trì thẩm quyền hoặc ủy quyền.
Dù can thiệp dưới bất cứ phương thức nào, Nhà nước vẫn phải đảm bảo thị trường cung ứng những sản phẩm có chất lượng ở một chuẩn nhất định
24 Lê Chi Mai (2003), Cải cách dịch vụ công ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, tr.47
THỰC TRẠNG ĐIỀU TIẾT HOẠT ĐỘNG CUNG ỨNG DỊCH VỤ
Cơ sở pháp lý điều tiết hoạt động cung ứng
Chính quyền TPHCM điều tiết hoạt động cung ứng dịch vụ thu gom CTRSH dựa vào một số văn bản luật chủ yếu sau:
3.1.1 Văn bản của Trung ương
Các văn bản của Trung ương có nội dung điều chỉnh hoạt động thu gom CTRSH hiện nay bao gồm 25 :
Luật bảo vệ môi trường (2005) Pháp lệnh phí và lệ phí (Pháp lệnh 38/2001/PL-UBTVQH10 ngày 28/8/2001) cùng các băn bản hướng dẫn thực hiện pháp lệnh này
Nghị định 59/2007/NĐ-CP, ban hành ngày 09/4/2007, quy định về quản lý chất thải rắn nhằm bảo vệ môi trường Đồng thời, Nghị định 174/2007/NĐ-CP, có hiệu lực từ ngày 29/11/2007, quy định về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn, góp phần nâng cao ý thức và trách nhiệm trong việc xử lý chất thải.
3.1.2.1 Quyết định số 5424/QĐ-UB-QLĐT ngày 15/10/1998 ban hành Quy chế về tổ chức và hoạt động của lực lượng làm dịch vụ thu gom rác dân lập
Quy chế xác định thu gom rác bao gồm việc dọn dẹp và chuyển rác đến nơi quy định Lực lượng thu gom rác dân lập được tổ chức thành các đơn vị gọi là “Tổ lấy rác dân lập” (LRDL), với số lượng tổ do phường/xã quyết định dựa trên tình hình thực tế Mỗi tổ gồm từ 3 đến 9 người, có một tổ trưởng và một hoặc hai tổ phó, được bầu tại hội nghị toàn thể do UBND phường/xã chủ trì, với nhiệm kỳ 12 tháng Khi cần thay đổi tổ trưởng hoặc tổ phó, phải tổ chức hội nghị để bầu lại Tổ trưởng và tổ phó chịu trách nhiệm trước UBND sở tại và cơ quan quản lý vệ sinh công cộng quận, huyện về việc thực hiện các chỉ đạo và quy định vệ sinh đô thị.
25 Phụ lục 7 phó là người đề xuất khen thưởng hoặc kỷ luật đối với tổ viên lên UBND địa phương sở tại (Điều 8)
Lực lượng thu gom rác dân lập chỉ được phép hoạt động khi có giấy chứng nhận hành nghề lấy rác, theo quy định tại điều 11 Những cá nhân đủ điều kiện sẽ được UBND phường/xã xem xét và ra quyết định chấp nhận, sau đó sẽ được bố trí vào Tổ LRDL tại địa phương.
Tổ LRDL chỉ được phép hoạt động dịch vụ thu gom rác tại những khu vực chưa có người thuộc lực lượng DVCI và phải có sự chấp thuận của cơ quan quản lý chuyên ngành vệ sinh công cộng quận/huyện Hoạt động này chỉ được thực hiện khi có hợp đồng dịch vụ bằng văn bản giữa tổ và chủ hộ hoặc nơi yêu cầu thu gom Ngoài ra, các thành viên trong tổ phải mặc quần áo bảo hộ lao động và tuyệt đối không được thuê mướn lại hoặc làm chủ thầu trong việc thu gom rác.
Nhìn chung, quy chế đã đưa ra một số quy định cơ bản sau:
Quá trình thu gom rác thải bao gồm việc quét dọn để thu nhặt rác và vận chuyển chúng đến địa điểm xử lý thích hợp Ngoài ra, cần phải có hợp đồng bằng văn bản giữa đơn vị thu gom và chủ nguồn thải để đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm trong việc quản lý rác thải.
Thứ ba, nghiêm cấm hành vi thuê mướn lại, làm chủ thầu việc thu gom
3.1.2.2 Quyết định 130/2002/QĐ-UB ngày 18/11/2002 của UBND Thành phố về việc ban hành quy chế quản lý CTR thông thường trên địa bàn thành phố
Quy định trách nhiệm của các chủ nguồn thải và các lực lượng liên quan đến quản lý, thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn thông thường, bao gồm cả chất thải rắn sinh hoạt, là rất cần thiết để đảm bảo môi trường sống sạch sẽ và bền vững.
Chủ nguồn thải cần trang bị từ 2 đến 3 thùng đựng rác để thực hiện phân loại rác tại nguồn, đồng thời có trách nhiệm đóng phí vệ sinh theo quy định của nhà nước.
Các tổ chức thu gom, vận chuyển, tiếp nhận và xử lý CTR phải tuân thủ Luật lao động và các quy định hiện hành, đảm bảo điều kiện cơ bản cho người lao động về dụng cụ, vệ sinh và an toàn lao động Rác thải cần được đưa ra khỏi thành phố trước 6 giờ sáng mỗi ngày, và chất lượng vệ sinh sau khi xử lý phải đạt tiêu chuẩn do Sở Giao thông Công chánh và Sở Khoa học và Công nghệ quy định.
Bài viết đề cập đến 26 đơn vị bao gồm các sở, ngành, UBND cấp quận và phường, cùng với các tổ chức, đơn vị và cá nhân có chức năng hoặc đã đăng ký thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn thông thường.
UBND phường/xã có trách nhiệm tuyên truyền, vận động và kiểm tra việc ký hợp đồng giao rác giữa các hộ dân với các đơn vị thu gom, vận chuyển rác.
3.1.2.3 Quyết định 88/2008/QĐ-UBND ngày 20/12/2008 của UBND Thành phố về phí vệ sinh và phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn thông thường
Sau khi quyết định được ban hành, Sở Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp với Sở Tài chính và Cục Thuế để hướng dẫn thực hiện cụ thể qua Công văn 7345/LCQ-TNMT-TC-CT vào ngày 07/10/2009.
Các hộ gia đình cần đóng phí thu gom rác hàng tháng, với mức phí từ 10.000đ đến 20.000đ, tùy thuộc vào vị trí cư trú như nội thành, ngoại thành, mặt tiền đường hay trong hẻm Các đơn vị có tư cách pháp nhân sẽ tiếp tục thu phí, trong khi tổ LRDL sẽ điều chỉnh phí dựa trên tình hình thực tế của từng địa phương.
UBND phường/xã có trách nhiệm tổ chức bộ phận thu phí hoặc ủy quyền cho cá nhân, tổ chức khác thực hiện việc thu phí Dù là đơn vị nào thu phí, tất cả đều phải sử dụng biên lai thu phí do cơ quan thuế phát hành hoặc biên lai tự in theo mẫu được cơ quan thuế chấp thuận.
Căn cứ vào tổng số phí thu được, cơ quan thu phí được giữ lại 10% tổng số thu để chi cho công tác thu gom tại nguồn và nộp ngân sách Phần phí này phục vụ cho việc thu phí không phải chịu thuế, trong khi đơn vị thu gom có nghĩa vụ nộp thuế dựa trên doanh thu Đặc biệt, các hộ dân lập lấy rác sẽ được miễn thuế.
Như vậy, Quyết định 88/2008/QĐ-UBND và Công văn 7345/LCQ-TNMT-TC-CT quy định những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất: Các đơn vị có tư cách pháp nhân được tiếp tục thu phí Riêng đối với các tổ
LRDL, UBND phường/xã có thể trực tiếp thu phí hoặc ủy quyền cho cá nhân, tổ chức khác thu phí
Thứ hai: Việc thu phí phải sử dụng biên lai thu phí do cơ quan thuế phát hành hoặc tự in theo mẫu được cơ quan thuế chấp nhận
Thứ ba: Mọi cá nhân, tổ chức có hoạt động làm phát sinh CTR phải nộp phí thu gom, vận chuyển và xử lý CTR
Các tổ chức thu gom CTRSH phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo quy định tương ứng với từng loại hình tổ chức, trong khi đó, các hộ lấy rác dân lập được miễn thuế.
27 Tỷ lệ 10% này là tạm thời Trong quá trình thực hiện sẽ có điều chỉnh sau
Phòng Quản lý chất thải rắn
Các bộ phận, phòng ban khác
Phòng Quản lý môi trường
Phòng Tài nguyên & Môi trường
Phòng Tài chính kế hoạch
Tổ chức bộ máy thực hiện điều tiết hoạt động thu gom CTRSH
Hình 3.1: Sơ đồ bộ máy điều tiết hoạt động thu gom CTRSH tại TPHCM
Thành phố thiết lập hệ thống quản lý hoạt động thu gom chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) tại ba cấp độ: thành phố, quận/huyện và phường/xã Các cơ quan có vai trò quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ này sẽ được mô tả chi tiết trong phụ lục 8.
3.2.1 Hội đồng nhân dân (HĐND) thành phố
3.2.2 Ủy ban nhân dân Thành phố
3.2.3 Sở Tài nguyên Môi trường:
3.2.3.1.Phòng quản lý chất thải rắn
3.2.3.2.Phòng quản lý môi trường
Các hình thức cung ứng và chất lượng dịch vụ cung ứng
3.2.6 Phòng Tài nguyên Môi trường
3.2.7 Phòng Tài chính- Kế hoạch
3.3.Các hình thức cung ứng và chất lƣợng dịch vụ cung ứng
3.3.1.1.Tổ chức hoạt động cung ứng của công ty dịch vụ công ích
Thu gom CTRSH là nhiệm vụ quan trọng của các công ty DVCI, nơi người lao động được trang bị đầy đủ phương tiện bảo hộ lao động Họ cũng được tham gia vào các tổ chức đoàn thể và xây dựng thỏa ước lao động tập thể để đảm bảo quyền lợi và an toàn trong công việc.
Người lao động (NLĐ) nhận lương theo thang bảng lương của công ty, với mức bình quân từ 3.5 triệu đến 10 triệu đồng mỗi tháng Để được tuyển dụng, NLĐ cần có bằng tốt nghiệp Trung học phổ thông và hoàn thành thời gian thử việc từ 1 đến 6 tháng.
3.3.1.2.Đánh giá tổ chức hoạt động cung ứng của các công ty dịch vụ công ích Điểm mạnh: Lực lượng thu gom tại các công ty DVCI vốn được tổ chức thành bộ máy quy củ từ trên 20 năm (tiền thân là các xí nghiệp công trình đô thị quận/huyện), được nhà nước đầu tư, trang bị các phương tiện thu gom, vận chuyển rác gần như hoàn chỉnh
Là một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân đầy đủ, công ty dễ dàng ký kết các hợp đồng thu gom với những chủ nguồn thải lớn.
Công ty tuân thủ đầy đủ các thủ tục pháp lý liên quan đến quyền lợi của người lao động (NLĐ), với mức lương tương đối cao, trong đó 60% NLĐ có thu nhập trên 3 triệu đồng/tháng Tuy nhiên, một điểm yếu là cấu trúc tổ chức có nhiều tầng nấc trung gian như đội, tổ, nhóm, và điều kiện tuyển dụng yêu cầu một số tiêu chuẩn nhất định, gây khó khăn cho một bộ phận lao động.
Các công ty DVCI vẫn duy trì cấu trúc tổ chức hành chính, dẫn đến việc các hoạt động đoàn thể và hội họp thường chỉ diễn ra theo hình thức truyền tải thông tin một chiều, điều này có thể tạo ra tâm lý e ngại cho người lao động.
Trong 10 năm qua, lực lượng thu gom chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) khu vực tư nhân đã phát triển với nhiều mô hình tổ chức khác nhau, bao gồm các đội thu gom riêng lẻ, hợp tác xã (HTX) và các loại hình doanh nghiệp.
3.3.2.1.Lực lượng thu gom hoạt động riêng lẻ:
Lực lượng thu gom rác dân lập, hay còn gọi là dây rác và các đường rác dân lập, đã được hình thành từ sau năm 1975 Ban đầu, lực lượng này chỉ sử dụng lao động gia đình, sau đó đã mở rộng bằng cách thuê thêm lao động để đáp ứng nhu cầu thu gom rác.
Sự xuất hiện của các đầu nậu trong thu gom rác là một vấn đề đáng lo ngại, theo nghiên cứu của Trần Nhật Nguyên (2008) Các đầu nậu này được mô tả là "chủ các đường rác với quy mô lớn, khai thác đường rác thực sự nhằm mục đích kinh doanh" Họ thường thuê lao động từ các tỉnh với mức lương rẻ mạt và không đảm bảo quyền lợi cho người lao động, thậm chí có những khu vực không trả lương cho họ.
29 Lần đầu tiên xác định tại quy chế 5424/1998/QĐ-UB-QLĐT ngày 15/10/1998
Hình 3.2: Mức lương bình quân hàng tháng của người lao động
2-3t/tháng3-4t/tháng4-5t/thángTheo bậc lươngKhông trả lời
Nghiên cứu cho thấy, tại quận 10, nhiều người lao động chỉ thu nhặt phế liệu từ đường dây rác mà không trực tiếp thu gom hay thu phí, và họ cũng không đăng ký ngành nghề Trần Nhật Nguyên chỉ ra rằng, vấn đề đáng lưu ý là các đầu nậu hoạt động như một tổ chức ngầm, khiến chính quyền gặp khó khăn trong việc can thiệp và nắm bắt thông tin Trong số 5 phường/xã được khảo sát, một địa phương ghi nhận hiện tượng chủ đường rác thu phí nhưng không trả công cho người thu gom, chỉ cho phép họ sử dụng phương tiện của chủ đường rác và được quyền bán các phế liệu thu gom.
Chủ đường rác trang bị một xe tải nhẹ để thu gom rác, có tài xế và hai người thu gom đi cùng Mặc dù người thu gom không nhận phí, họ được phép sử dụng phế liệu thu được trên toàn bộ tuyến Tài xế không chỉ lái xe mà còn giám sát để đảm bảo rằng những người thu gom thực hiện việc thu gom rác đầy đủ, không chỉ lấy phế liệu mà bỏ sót các loại rác khác.
Tình trạng “đầu nậu” trong thu gom CTRSH đã tồn tại từ lâu, và cần nhìn nhận thực trạng này một cách khách quan Mọi hoạt động kinh tế đều hướng tới lợi nhuận, do đó không thể đánh giá các đầu nậu chỉ dựa vào việc họ khai thác đường rác vì mục đích kinh doanh Các tổ LRDL, HTX và DNTN đều hoạt động với mục tiêu lợi nhuận, và khi thuê lao động, họ thường muốn trả công ở mức thấp nhất có thể Giá lao động là sự thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và NLĐ, vì vậy chỉ có thể xử phạt các đầu nậu nếu họ cưỡng bức lao động, không thể xử phạt vì lý do thuê lao động giá rẻ Vấn đề chính nằm ở tính chất ngầm ẩn, sự không tôn trọng luật pháp, và việc tự ý hình thành sở hữu cá nhân trong thị trường dịch vụ thu gom CTRSH.
Tổ chức và hoạt động:
Các dây rác dân lập có quy mô từ hai đến hàng chục lao động, với mức độ trang bị phương tiện và dụng cụ lao động khác nhau Mỗi dây rác thường có xe thu gom, chổi và ky rác Một số dây rác còn trang bị cho người lao động quần áo đồng phục, giày bata hoặc ủng, nhưng rất ít trường hợp có áo phản quang và nón bảo hộ Đặc biệt, hầu hết người lao động cho biết họ tự trang bị khẩu trang.
Từ năm 2009, thành phố đã thực hiện chuyển đổi phương tiện vận tải rác thô sơ, chủ yếu sử dụng xe thùng đẩy tay 660 lít hoặc xe tải nhỏ để thu gom Tuy nhiên, một số phương tiện thô sơ vẫn tồn tại do chi phí chuyển đổi cao so với thu nhập của các dây rác nhỏ Tại nội thành, rác thường được thu gom tận nhà từng hộ gia đình, trong khi ở ngoại thành, chỉ những hộ mặt tiền mới được thu gom tận nơi, còn các hộ ở hẻm phải tự mang rác ra đầu hẻm Mặc dù các phường/xã đã trang bị thùng rác, nhưng dung tích còn hạn chế (120 lít hoặc 240 lít) và ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường của người dân chưa cao, dẫn đến tình trạng rác thải tràn lan ở đầu các con hẻm.
Người lao động tại các dây tổ LRDL thường không có hợp đồng lao động bằng văn bản, mà chủ yếu thỏa thuận bằng lời về tiền công, số giờ làm việc và nội dung công việc.
Đánh giá kết quả vận hành cơ chế điều tiết
3.4.1.1.Về xây dựng bộ máy
Thành phố đã hoàn thiện bộ máy điều tiết 3 cấp, với sự phối hợp hiệu quả giữa các bộ phận trong phạm vi chức năng và nhiệm vụ của mình, nhằm đảm bảo hoạt động cung ứng dịch vụ thu gom chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) được thực hiện hiệu quả.
3.4.1.2.Về xây dựng thể chế Đã ban hành hệ thống các quy định tương đối đầy đủ, từ tổ chức và hoạt động của các tổ LRDL cho đến các biểu phí khác nhau, quy định trách nhiệm của các bên liên quan đến hoạt động quản lý CTRSH
3.4.1.3.Về kết quả cung ứng dịch vụ
Hệ thống cung ứng của thành phố đã đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì diện mạo đô thị trước áp lực từ khối lượng chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) hàng ngày Điều này được minh chứng qua kết quả điều tra chỉ số hiệu quả quản lý hành chính công cấp Tỉnh (PAPI) tại Việt Nam.
(2010) 36 , TPHCM có chỉ số hài lòng về dịch vụ công (trong đó có dịch vụ thu gom rác) cao nhất trong 30 tỉnh/thành được khảo sát
3.4.1.4.Tạo việc làm, ổn định đời sống cho NLĐ
Hệ thống điều tiết hiện nay đã tạo ra hơn 4500 việc làm cho lao động trong cả khu vực nhà nước và tư nhân Với mức thu nhập trung bình từ 3 đến 4 triệu đồng mỗi tháng, đời sống của lao động phổ thông đã được cải thiện đáng kể.
36 CECODES (2010), Chỉ số hiệu quả quản lý hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam, Trung tâm công tác lý luận MTTQVN, UNDP
37 Số liệu tổng hợp từ Phòng QLCTR, bình quân mỗi quận/huyện có 50 lao động tại các công ty DVCI và
150 lao động thuộc các đơn vị, tổ chức tư nhân
3.4.2 Mặt hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế:
3.4.2.1.Về xây dựng bộ máy
Năng lực chuyên môn giữa các cấp không đồng đều, đặc biệt là ở cấp phường/xã, nơi giám sát hoạt động thu gom và quản lý các tổ LRDL Mỗi phường/xã chỉ có một nhân viên môi trường hoặc một nhân viên kiêm nhiệm, dẫn đến tình trạng nhân lực mỏng trong khi địa bàn rộng lớn Áp lực từ các nhiệm vụ khác khiến các nhân viên gặp khó khăn trong việc đảm bảo giám sát hoạt động cung ứng dịch vụ.
Kỷ luật hành chính trong việc thực thi các quy định của thành phố còn lỏng lẻo, với sự khác biệt trong tỷ lệ trích nộp giữa các phường/xã, dao động từ 5% đến 10% Một số phường/xã thực hiện quyết toán biên lai thu phí hàng tháng, trong khi những nơi khác chỉ quyết toán hàng năm, dẫn đến việc không cấp biên lai cho các hộ dân khi thu phí hàng tháng Tình trạng này khiến tỷ lệ không phát biên lai của các tổ thu gom lên đến 20% đến 30%, nhưng một số phường/xã không nghiêm túc giám sát vấn đề này, cho rằng tỷ lệ này là "chấp nhận được" do tính chất công việc nặng nhọc Tuy nhiên, vấn đề không chỉ nằm ở số tiền trích nộp mà còn ở sự nghiêm túc trong việc thực thi chính sách, nếu chính quyền cơ sở không tuân thủ, sẽ khó có thể yêu cầu sự tôn trọng và chấp hành từ các chủ thể trong xã hội.
Khảo sát cho thấy rằng một số cán bộ, công chức vẫn chưa thực sự quyết tâm trong việc thực thi chính sách và thay đổi cách làm việc cũ để áp dụng những phương pháp hiệu quả hơn.
3.4.2.2.Về xây dựng thể chế: còn một số hạn chế tại các văn bản sau:
38 Theo công bố của Vụ lao động tiền lương, Bộ LĐTB&XH, lương trong các DNNN năm 2010 bình quân là 3.8 triệu đồng/người/tháng
39 Thường là thanh tra xây dựng hoặc nhân viên theo dõi kinh doanh, tiểu thủ công nghiệp
Các tổ LRDL được thành lập theo tổ chức của UBND các phường/xã, phản ánh mong muốn của các nhà hoạch định chính sách Tuy nhiên, việc vận động các tổ chức này hoạt động theo nhóm gặp nhiều khó khăn, đặc biệt khi yêu cầu họ có giấy chứng nhận hành nghề và phải tuân thủ quy trình hành chính phức tạp, điều này tạo ra thách thức lớn cho các phường/xã.
Các quy định về tổ chức tổ LRDL hiện tại khá chặt chẽ nhưng thiếu tính cụ thể, dẫn đến khó khăn trong việc thực thi Cụ thể, trách nhiệm của tổ trưởng và tổ phó trước UBND phường/xã chưa được làm rõ, không xác định được mức độ trách nhiệm cụ thể Bên cạnh đó, quy định cho phép tổ đề xuất khen thưởng hoặc kỷ luật nhưng lại thiếu tiêu chí và căn cứ rõ ràng để thực hiện điều này.
Quy chế yêu cầu người thu gom phải có giấy chứng nhận hành nghề, tuy nhiên, nội dung và hình thức cụ thể của giấy chứng nhận này vẫn chưa được quy định rõ ràng.
Công văn 7345/LCQ-TNMT-TC-CT:
Các đơn vị thu gom chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) có tư cách pháp nhân sẽ được tiếp tục thu phí theo quy định hiện hành Tuy nhiên, quy định này chưa đề cập đến các doanh nghiệp tư nhân thu gom CTRSH, vốn không có tư cách pháp nhân.
Theo quy định của UBND phường/xã, tổ chức thu phí có thể trực tiếp thu hoặc ủy quyền cho các tổ LRDL, và sẽ giữ lại 10% tổng số thu Mặc dù phí được thu chủ yếu bởi các tổ LRDL, nhưng họ vẫn phải nộp lại cho phường/xã từ 5% đến 10% tổng số thu Cơ cấu chi cho tổng phí thu được được quy định rõ ràng.
- 4% đến 9% chi cho công tác quản lý thu phí 41 của phường/xã
- 1% chi cho công tác quản lý thu phí của Phòng Tài chính kế hoạch và Phòng Tài nguyên môi trường quận/huyện
Về phía tổ LRDL, các tổ được cấp phát biên lai thu phí (loại có mệnh giá in sẵn)
Cơ cấu tỷ lệ điều tiết giữ lại khó thuyết phục các tổ LRDL về tính hợp lý, vì họ chỉ có nghĩa vụ đóng phí mà quyền lợi nhận được lại không rõ ràng.
40 phường/xã đã xác định số tổ thu gom rác phù hợp với yêu cầu địa phương, cấp giấy chứng nhận hành nghề cho những người lao động đủ điều kiện Đồng thời, các phường/xã quyết định chấp thuận và bố trí nhân sự vào các tổ thu gom rác, tổ chức hội nghị toàn thể để bầu tổ trưởng và tổ phó, cũng như phân công địa điểm thu gom rác.
41 Chi văn phòng phẩm, chi công tác phí, chi bồi dưỡng cho cán bộ kiêm nhiệm…
Quyết định 130/2002/QĐ-UB quy định tại khoản 5, điều 9 rằng lực lượng vệ sinh phải đạt yêu cầu tiêu chuẩn vệ sinh do Sở Giao thông Công chánh và Sở Khoa học và Công nghệ quy định Tuy nhiên, từ khi quyết định này được ban hành, cả hai sở vẫn chưa công bố bộ tiêu chuẩn vệ sinh nào.
3.4.2.3.Về kết quả cung ứng dịch vụ 43