TỔNG QUAN
Bối cảnh chính sách
Giáo dục đại học đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng hiểu biết và phát triển xã hội Đại hội VII Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, nhằm phát huy nhân tố con người, động lực cho sự phát triển Đầu tư vào giáo dục không chỉ tích lũy vốn con người mà còn là chìa khóa cho tăng trưởng kinh tế và nâng cao thu nhập Vì vậy, giáo dục đào tạo có vị trí và vai trò to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
Vào những năm 80 của thế kỷ trước, nhà nước hoàn toàn chịu trách nhiệm về giáo dục và y tế, đầu tư và quản lý các lĩnh vực này Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế thị trường hiện nay, vai trò của nhà nước trong hoạt động kinh tế - xã hội đã thay đổi, với khu vực tư nhân ngày càng đóng góp vào sự phát triển của đất nước Theo xu hướng xã hội, nhà nước đã chuyển giao một số lĩnh vực cho tư nhân, tạo nền tảng cho "xã hội hóa" trong văn hóa, giáo dục và y tế tại Việt Nam.
Gần 25 năm xây dựng và phát triển, các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập (NCL) đã đóng góp đáng kể cho nền giáo dục Hiện nay, hệ thống trường NCL đã chiếm 1/5 số trường, chiếm 1/7 số sinh viên cả nước, trong khi đó Nhà nước lại không tốn ngân sách cho việc đào tạo Một số chính sách của Nhà nước trong những năm gần đây liên quan đến xã hội hóa GDĐH và lưu ý nhiều đến loại hình các trường tư thục “Chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao” cũng đã đưa ra những biện pháp khuyến khích các loại hình nhà trường NCL
Sự phát triển nhanh chóng của các trường đại học NCL không tương xứng với chất lượng đào tạo, dẫn đến tình trạng sinh viên tốt nghiệp, đặc biệt từ các trường đại học tư thục, không đáp ứng được yêu cầu thị trường lao động và gia tăng tỷ lệ thất nghiệp Các phương tiện truyền thông thường xuyên phản ánh sự bất ổn trong quản lý và sở hữu tại các trường ĐHTT, cũng như nguy cơ tan rã của chúng Dù đã đạt được một số thành tựu trong quá khứ, các trường đại học NCL hiện nay đang đối mặt với nhiều thách thức lớn, bao gồm chất lượng đào tạo thấp, cơ sở vật chất chưa được đầu tư đúng mức, đội ngũ giảng dạy và quản lý yếu kém, cùng với đầu vào sinh viên có chất lượng thấp hơn so với các trường công lập Mặc dù các trường này hoạt động như tổ chức tư nhân không theo ngân sách nhà nước, nhưng vai trò của giáo dục đại học là rất quan trọng, và thị trường giáo dục không hoàn hảo, thường gặp phải thất bại Do đó, sự can thiệp của nhà nước trong quản lý các trường này là cần thiết Tuy nhiên, hiện tại, khung pháp lý và cơ chế chính sách cho loại hình này còn nhiều bất cập, gây khó khăn cho việc kiểm soát và thanh tra từ Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Lý do chọn đề tài
Hiện nay, giáo dục đại học (GDĐH) đang đối mặt với nhiều bất cập như việc mở trường, mở ngành ồ ạt, tuyển sinh vượt chỉ tiêu, và cơ sở vật chất cùng đội ngũ giảng viên chưa đáp ứng yêu cầu Những vấn đề này không chỉ được phản ánh trên các phương tiện truyền thông mà còn là chủ đề thảo luận tại Quốc hội Do đó, việc tìm hiểu cơ sở can thiệp của nhà nước và đánh giá công tác quản lý nhà nước đối với các trường đại học là cần thiết Điều này giúp làm rõ các vấn đề tồn tại và đưa ra những kiến nghị chính sách phù hợp, nhằm tháo gỡ vướng mắc, hỗ trợ các trường đại học ngoài công lập phát triển và đóng góp vào sự nghiệp chung của đất nước.
Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn này đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với các trường đại học ngoài công lập (NCL), nhằm xác định những ưu điểm và khuyết điểm trong quản lý Bài viết cũng phân tích nguyên nhân dẫn đến những ưu khuyết điểm này và đề xuất các cơ sở khoa học cần thiết để đổi mới công tác quản lý nhà nước, từ đó thúc đẩy sự phát triển ổn định và bền vững của các trường đại học tư thục (ĐHTT).
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các trường đại học NCL, bao gồm các trường ĐHTT và dân lập, không tính các trường quốc tế và có vốn đầu tư 100% nước ngoài Nghiên cứu sẽ thực hiện thông qua việc đánh giá và phân tích các văn bản pháp lý như Luật, Thông tư, Quy chế và Quyết định liên quan đến hệ thống giáo dục NCL Đề tài tập trung vào việc nghiên cứu quản lý của nhà nước đối với hoạt động của các trường ĐHTT và dân lập, mà không đi sâu vào quá trình thành lập trường.
Câu hỏi nghiên cứu
Đề tài nhằm trả lời hai câu hỏi sau:
Thứ nhất, những khó khăn, vấn đề nổi cộm của hệ thống đại học NCL hiện nay là gì?
Thứ hai, vai trò của nhà nước trong việc sửa chữa, khắc phục khó khăn của hệ thống giáo dục tư thục?
Thứ ba, những chính sách nào cần áp dụng để nhà nước giải quyết những khó khăn đó?
Phương pháp nghiên cứu
Bài viết sử dụng phương pháp phân tích định tính để nghiên cứu các chính sách, luật, thông tư, quy định và quyết định của Chính phủ, Bộ và UBND liên quan đến các trường đại học ngoài công lập (NCL) Tác giả tiến hành so sánh các chính sách này với các trường đại học công lập, đồng thời phỏng vấn ý kiến của một số chuyên gia trong lĩnh vực giáo dục để làm rõ hơn về tình hình hiện tại.
Nguồn thông tin
Nghiên cứu này dựa trên các nguồn thông tin hiện có, bao gồm Luật Giáo dục Đại học 2012, Luật Giáo dục 2005, Luật Doanh nghiệp 2005, cùng với các Thông tư và Quyết định của Chính phủ và UBND liên quan đến lĩnh vực giáo dục Ngoài ra, tác giả cũng đã tham khảo ý kiến từ các chuyên gia thông qua phỏng vấn để bổ sung thông tin cho nghiên cứu.
Kết cấu đề tài và khung phân tích
Đề tài bao gồm 4 chương chính, bắt đầu với Chương 1 là Tổng quan Chương 2 trình bày cơ sở lý thuyết, phương pháp nghiên cứu và nguồn thông tin Chương 3 khái quát thực trạng hoạt động của các trường ĐHTT tại Việt Nam Chương 4 phân tích và đánh giá chính sách của nhà nước đối với các trường ĐHTT thông qua các văn bản quy phạm pháp luật Cuối cùng, Chương 5 đưa ra kết luận, kiến nghị chính sách và đánh giá tính khả thi cũng như những hạn chế của nghiên cứu.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN
Một số khái niệm
Giáo dục tư thục, theo từ điển Cambridge, là hình thức giáo dục do cá nhân hoặc tổ chức xã hội, công ty ngoài chính phủ thực hiện.
Ngoài giáo dục chính phủ, còn có các hình thức giáo dục khác như giáo dục do cá nhân và cộng đồng điều hành, thường được gọi là Owned-run Education và Community-run Education.
Theo quy định pháp luật, trường tư thục được thành lập bởi các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức kinh tế hoặc cá nhân, với nhiệm vụ đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và đảm bảo kinh phí hoạt động từ nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước.
Theo Điều 48 của Luật Giáo dục 2005, trường đại học tư thục được thành lập và đầu tư bởi các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức kinh tế hoặc cá nhân, với nguồn vốn hoạt động ngoài ngân sách nhà nước Quy chế tổ chức và hoạt động của trường đại học tư thục được quy định tại Điều 1 của Quy chế ban hành kèm theo Quyết định 61 ngày 17/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ, và được sửa đổi, bổ sung theo Quyết định 63 ngày 10/11/2011 Thêm vào đó, theo Điều 7 của Luật Giáo dục Đại học 2012, cơ sở giáo dục đại học tư thục thuộc sở hữu của các tổ chức và cá nhân trên, đảm bảo đầu tư và xây dựng cơ sở vật chất theo quy định pháp luật.
Trường ĐHTT là cơ sở giáo dục đại học thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, được thành lập và hoạt động bởi cá nhân hoặc tổ chức, sử dụng nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước.
Các trường đại học tư thục (ĐHTT) được phân loại thành hai loại chính: trường ĐHTT vì lợi nhuận, hoạt động như các công ty thương mại, và trường ĐHTT phi lợi nhuận, không có cấu trúc cổ phần, cổ đông, cũng như không chia lợi tức.
2.1.2 Quản lý nhà nước về giáo dục đại học
Quản lý nhà nước về giáo dục đại học (GDĐH) là việc sử dụng quyền lực công để điều tiết hoạt động GDĐH theo mục tiêu của nhà nước, bao gồm việc quyết định các chủ trương quản lý, tổ chức bộ máy thực hiện nhiệm vụ, lựa chọn và sắp xếp cán bộ, giáo dục và bồi dưỡng nguồn nhân lực, ra chính sách khích lệ, cũng như kiểm tra và đánh giá kết quả quản lý Hành động này là sự tác động tự giác của chủ thể quản lý đến tất cả các mắt xích của hệ thống nhằm đảm bảo chất lượng và hiệu quả trong phát triển GDĐH.
Cơ sở để nhà nước can thiệp vào hoạt động của các trường đại học NCL
Nhà nước can thiệp vào thị trường khi xuất hiện thất bại trong phân bổ nguồn lực hoặc khi nền kinh tế không đạt được kết quả mong muốn Các biểu hiện của thất bại thị trường bao gồm thế lực thị trường, thông tin bất cân xứng, hàng hóa công, ngoại tác và bất ổn vĩ mô Nguyên nhân chính của thất bại này thường liên quan đến bản chất hàng hóa và cách thức vận hành của thị trường Do đó, cần xem xét đặc điểm của thị trường giáo dục đại học tư nhân để xác định cơ sở cho sự can thiệp của nhà nước.
GDĐH được coi là một dịch vụ tư thuần túy khi xem xét dưới góc độ hàng hóa công, với hai đặc điểm chính là không có tính cạnh tranh và tính loại trừ (Pindyck & Rubinfeld, 1999, tr.691).
Tính loại trừ trong giáo dục đại học thể hiện qua việc người học cần tham gia thi tuyển và đóng học phí để được sử dụng dịch vụ Nếu không đáp ứng các điều kiện này, họ sẽ không được hưởng thụ dịch vụ giáo dục đại học.
Tính cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ được xác định khi một cá nhân tiêu dùng mà không làm giảm lợi ích cho người khác, tức là chi phí biên cung cấp cho người tiêu dùng bổ sung bằng không Tuy nhiên, trong trường hợp dịch vụ giáo dục đại học, chi phí biên cho việc cung cấp dịch vụ cho một sinh viên bổ sung là lớn hơn không Điều này là do các trường đại học bị hạn chế về cơ sở vật chất, số lượng sinh viên và tỷ lệ sinh viên trên giảng viên, dẫn đến việc tăng thêm một sinh viên sẽ phát sinh chi phí về cơ sở vật chất, lương giảng viên và quản lý, đồng thời có thể ảnh hưởng đến chất lượng học tập của các sinh viên khác.
GDĐH mang lại nhiều lợi ích ngoại tác tích cực cho xã hội Lợi ích cá nhân từ việc học thường thấp hơn so với lợi ích xã hội do những tác động tích cực mà việc học mang lại cho cộng đồng Việc học giúp giảm thiểu tệ nạn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà nước trong việc thực hiện các chính sách kinh tế, văn hóa và xã hội Ngoài ra, doanh nghiệp và cơ quan tuyển dụng cũng thu được lợi nhuận từ việc học của cá nhân Sau khi tốt nghiệp, người học không chỉ hưởng lợi từ kiến thức mà còn góp phần nâng cao hiệu quả lao động, mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp thông qua sự chênh lệch giữa tiền lương và hiệu suất làm việc.
Do đó, dịch vụ GDĐH phải được nhà nước đảm bảo về chất lượng đào tạo để phục vụ tốt cho nhu cầu xã hội
Thị trường giáo dục hiện nay đang hoạt động không hiệu quả, với nhiều trường ĐHTT bị đánh giá có chất lượng đào tạo kém Điều này dẫn đến nguy cơ tan rã do thiếu nguồn tuyển sinh Tỉ lệ thất nghiệp của sinh viên tốt nghiệp từ các trường NCL rất cao, cho thấy họ không được thị trường lao động chấp nhận như nguồn nhân lực chất lượng cao Trong khi chất lượng đầu vào được đảm bảo qua thi tuyển, chất lượng đầu ra lại chưa được kiểm định một cách chặt chẽ bởi cơ quan nào, mà hoàn toàn phụ thuộc vào các cơ sở giáo dục.
GDĐH tư thục có thể dẫn đến sự thất bại của thị trường, từ đó nhà nước cần can thiệp Nhiều chuyên gia giáo dục và chính sách không đồng ý với việc giao hoàn toàn giáo dục cho thị trường Theo UNESCO, "Giáo dục là tài sản chung không thể phó mặc cho thị trường." Do đó, bất kể tổ chức hay cấp độ phân quyền nào, nhà nước phải chịu trách nhiệm với công dân, đảm bảo sự thống nhất trong giáo dục và cung cấp một tầm nhìn dài hạn cho tương lai.
Các hình thức can thiệp của nhà nước
Nhà nước có hai phương th Ủy quyền
Phương thức duy trì thẩm quy
Nhà nước quy định các dịch vụ trên thị trường giáo dục, nhằm đảm bảo tiêu chuẩn cơ sở vật chất và trình độ giảng viên Điều này giúp cung cấp cho sinh viên những điều kiện học tập tốt nhất và nâng cao chất lượng giáo dục.
Trong lĩnh vực tài chính, có hai đối tượng chính là nhà cung cấp và người tiêu dùng Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các nhà cung cấp, từ đó tạo điều kiện cho người tiêu dùng Việc này không chỉ giúp ổn định thị trường mà còn đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng.
Can thiệp ức can thiệp của nhà nước nh sự can thiệp của nhà nước
2003), trích trong S Chiavo-Campo và P.S.A Sundaram c có hai phương thức cơ bản để can thiệp vào thị trường: Duy trì th m quyền
Nhà nước áp dụng các quy định nhằm hạn chế thất bại trong giáo dục đại học, thông qua việc ban hành quy chế, quy định tuyển sinh và chỉ tiêu để đảm bảo chất lượng sinh viên Đối tượng chính sử dụng dịch vụ này là các nhà cung cấp tiêu dùng Ngoài ra, nhà nước có thể sử dụng công cụ thuế như miễn, giảm thuế để chuyển một phần lợi ích từ nhà cung cấp, có thể thông qua tiền, hiện vật hoặc chính sách gián tiếp.
Cơ quan nhà nước khác
Các nhà cung cấp dịch vụ
Người tiêu dùng Quy định Ủy quyền
Thực thể có mục đích
LỰA CHỌN CHÍNH SÁCH m (1999) ng: Duy trì thẩm quyền và ều tiết việc cung n có, theo định hướng nhà
, quy định về tiêu t lượng nhất định này là các nhà cung cấp dịch m thuế) hoặc trợ cấp nhà cung cấp sang người p qua chính sách thuế để trợ
Các tổ chức phi chính phủ
Phiếu trả tiền và Trợ giúp đặc biệt
Nhà nước có thể cung cấp dịch vụ trực tiếp cho thị trường thông qua các doanh nghiệp nhà nước hoặc các đơn vị được thành lập và vận hành bởi nhà nước.
Phương thức ủy quyền trong cung cấp dịch vụ bao gồm việc ủy quyền cho cấp dưới và các thực thể có mục đích xác định Chính quyền có thể ủy quyền cho các cấp thấp hơn lựa chọn chính sách dựa trên phân cấp hiện có Đồng thời, Nhà nước có thể ký hợp đồng trực tiếp với các doanh nghiệp tư nhân để mua dịch vụ hoặc cho phép họ tự cung ứng dịch vụ theo các điều khoản nhất định Dù dưới hình thức nào, Nhà nước vẫn giữ trách nhiệm trước xã hội về việc cung cấp các dịch vụ này.
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOÀI CÔNG LẬP
Sự hình thành và phát triển của các trường đại học NCL
Trước năm 1986, hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam hoàn toàn do chính phủ quản lý và tài trợ Tuy nhiên, sau thời kỳ đổi mới, nhà nước đã nhận ra tầm quan trọng của nền kinh tế tư nhân và bắt đầu cho phép cá nhân, tổ chức tham gia vào lĩnh vực giáo dục.
Năm 1988, Trường Đại học Thăng Long, đại học tư nhân đầu tiên của Việt Nam, được thành lập tại Hà Nội trong bối cảnh chính sách đổi mới của chính phủ Dưới sự lãnh đạo của Tiến sĩ Hoàng Xuân Sính, trường đã đặt nền tảng cho sự phát triển của hệ thống giáo dục đại học không công lập Ban đầu, trường chỉ đào tạo khoa “Toán và Khoa học máy tính” và tuyển sinh khóa đầu tiên vào năm 1989, với 150 sinh viên khoa Toán và 54 sinh viên khoa Quản trị vào năm 1993 để đảm bảo chất lượng đào tạo Kinh phí hoạt động phụ thuộc vào học phí và hỗ trợ từ nước ngoài, nhưng do nhận thức của phụ huynh về các trường tư còn hạn chế, chất lượng sinh viên chưa đạt kỳ vọng.
Giữa năm 1993 và 1995, sau sự ra đời của trường Đại học Thăng Long, Việt Nam đã hình thành 7 trường đại học tư thục mới, bao gồm 2 trường ở miền Bắc là Đại học Phương Đông và Đại học Đông Đô, cùng với 4 trường ở miền Nam như Đại học Ngoại ngữ Tin học (HUFLIT), Đại học Văn Lang, Đại học Hùng Vương và Đại học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh (HUTECH), cùng với Đại học Duy Tân tại Đà Nẵng, miền Trung.
Bảng 3.1 Danh sách các trường đại học ngoài công lập năm 1995
STT Trường Đại học Địa điểm Khoa ngành đào tạo Số lượng sinh viên Đội ngũ giảng viên
1 Thăng Long Hà Nội Toán và khoa học máy tính,
Quản trị, Luật, Ngoại ngữ
2 Phương Đông Hà Nội Tin học, Quản trị kinh doanh
(QTKD), Luật, Kế toán ngân hàng, Ngoại ngữ
3 Đông Đô Hà Nội Tin học, QTKD, Luật, Ngoại ngữ
4 HUFLIT TPHCM Ngoại ngữ, Công nghệ thông tin (CNTT), Văn hóa và đông phương học, QTKD quốc tế
5 Văn Lang TPHCM CNTT, QTKD, Ngoại ngữ,
Tài chính kế toán, Quản lý kỹ thuật môi trường
6 Hùng Vương TPHCM Tin học, QTKD, Luật, Ngoại ngữ
7 HUTECH TPHCM Điện tử viễn thông, Tin học,
8 Duy Tân Đà Nẵng Công nghệ, Kinh doanh, Kế toán
Hầu hết các trường đại học NCL tập trung vào các ngành như quản trị kinh doanh, ngoại ngữ, CNTT và kế toán, do những ngành này không yêu cầu đầu tư cơ sở vật chất cao Trong bối cảnh phát triển của thời kỳ đó, CNTT trở thành một ngành học phổ biến tại nhiều trường cao đẳng và đại học, cả công lập lẫn NCL Số lượng sinh viên tại các trường NCL dao động từ 500 đến 4,700, với tổng số sinh viên vào năm 1995 khoảng 13,000, cùng với 22,000 sinh viên từ các trường bán công, chiếm khoảng 10% tổng số sinh viên (Lam, 1995).
Nhiều trường đại học NCL đã được thành lập tại TPHCM, bao gồm ĐH Hồng Bàng và ĐH Kỹ thuật Tôn Đức Thắng vào năm 1997 ĐH Kỹ thuật Tôn Đức Thắng, do Liên đoàn Lao động TPHCM thành lập, hoạt động như một trường công lập và không nhận tài trợ từ tư nhân Năm 2003, trường đổi tên thành ĐH Tôn Đức Thắng và hiện nay đã chuyển sang mô hình bán công Tất cả các trường này đều dưới sự quản lý của Bộ GD&ĐT, và sau vài năm hoạt động, nhiều trường đã mở rộng thêm các ngành học mới.
Bảng 3.2 Các trường đại học ngoài công lập ở Việt Nam năm 2001
STT Trường đại học Địa điểm Khoa ngành đào tạo
1 Thăng Long Hà Nội Toán và khoa học máy tính, Quản trị, Ngoại ngữ
2 Phương Đông Hà Nội Tin học, QTKD, Luật, Kế toán, Ngân hàng, Ngoại ngữ
3 Đông Đô Hà Nội Tin học, QTKD, Luật, Ngoại ngữ
4 Mở Hà Nội Hà Nội Điện tử viễn thông, Công nghệ sinh học, CNTT, Du lịch, Kinh tế, Luật, Mỹ thuật công nghiệp
5 Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội
Hà Nội QTKD, Tin học, Tiếng Anh, Thương mại và
Marketing, Tài chính kế toán
Hải Phòng là một thành phố phát triển mạnh mẽ trong các lĩnh vực như công nghệ thông tin, điện điện tử, điện tử viễn thông, công nghệ môi trường, xây dựng, công nghệ khoáng sản, nông nghiệp, văn hóa và du lịch, cùng với việc chú trọng đến ngoại ngữ.
7 HUFLIT TPHCM Ngoại ngữ, CNTT, Văn hóa và đông phương học,
QTKD quốc tế, Du lịch, Quan hệ quốc tế
Trường Văn Lang TPHCM cung cấp đa dạng chuyên ngành đào tạo, bao gồm Công nghệ Thông tin, Quản trị Kinh doanh, Kiến trúc, Công nghệ Kỹ thuật Môi trường, Cơ khí, Ngoại ngữ, Tài chính Kế toán, Kỹ thuật Công trình Xây dựng và Mỹ thuật Công nghiệp.
9 HUTECH TPHCM Điện điện tử, CNTT, Xây dựng, Cơ khí, Công nghệ Kỹ thuật môi trường, QTKD, Thiết kế thời trang, Ngoại ngữ
10 Hùng Vương TPHCM CNTT, QTKD, Ngoại ngữ, Luật
Trường 11 Hồng Bàng TPHCM cung cấp đa dạng ngành học, bao gồm Sinh học và Môi trường, Công nghệ Thông tin, Kỹ thuật Xây dựng, Điện Tự động, Mỹ thuật Công nghiệp, Kỹ thuật Dệt may và Da giày, Kinh tế, Ngoại ngữ, cùng với Châu Á Thái Bình Dương học.
12 Tôn Đức Thắng TPHCM Khoa học ứng dụng, Khoa học xã hội và nhân văn,
CNTT và Toán ứng dụng, Kỹ thuật xây dựng, Điện điện tử, Khoa học môi trường, Kinh tế, Ngoại ngữ, Mỹ thuật và thiết kế
13 Văn Hiến TPHCM CNTT, Điện tử viễn thông, Kinh tế, Vật ký, Tâm lý học, Văn hóa học, Xã hội học, Du lịch, Ngoại ngữ
14 Duy Tân Đà Nẵng CNTT, QTKD, Luật, Ngoại ngữ
15 Lạc Hồng Đồng Nai Đông phương học, Điện tử, Công nghệ thực phẩm,
CNTT, Điện ứng dụng, Công nghệ sinh học và môi trường, QTKD, Tài chính kế toán
Nguồn: Thi Xa Phuong Pham (2006), tr.46
Hiện nay, các trường đại học tư thục (ĐHTT) phát triển đa dạng, đào tạo hầu hết các ngành nghề, ngoại trừ một số ngành đặc thù như an ninh quốc phòng, sư phạm và y khoa Trước đây, nhiều trường đại học NCL đã tìm cách tăng doanh thu bằng cách tuyển sinh vượt chỉ tiêu, dẫn đến việc một số sinh viên có khả năng học tập không đáng tin cậy Hơn nữa, một số trường đã đào tạo số lượng sinh viên vượt quá khả năng cơ sở vật chất và đội ngũ giảng viên, gây ra tình trạng quá tải Xu hướng hiện tại cho thấy các trường NCL thường tập trung vào các ngành nghề có chi phí đầu tư thấp nhưng lợi nhuận cao như kinh doanh, kinh tế, CNTT và ngoại ngữ, dẫn đến việc đầu tư ngắn hạn và tìm kiếm lợi nhuận, khiến cho các trường này trở thành nơi tiếp nhận “rác” từ các trường công lập Tình trạng này vẫn tiếp diễn đến nay.
Những vấn đề các trường đại học NCL đang phải đối mặt
Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2008-2020 của Bộ GD&ĐT nhằm nâng tỷ lệ sinh viên đạt 450 trên 10.000 dân vào năm 2020 và mở rộng quy mô giáo dục đại học (GDĐH) ngoài công lập (NCL) Mục tiêu là đến năm 2020, tỷ lệ sinh viên tại các cơ sở NCL sẽ chiếm 30-40% tổng số sinh viên cả nước Trong 10 năm qua (2001-2011), quy mô các cơ sở GDĐH NCL đã tăng từ 23 trường lên 82 trường, trong khi các cơ sở công lập tăng từ 168 trường lên 337 trường Số lượng trường công lập đã tăng 201%, trong khi các trường NCL tăng 357%, gấp rưỡi so với các trường công lập.
Hình 3.1 Số lượng các trường đại học, cao đẳng và sinh viên các cơ sở GDĐH
Nguồn: Tác giả tự vẽ theo số liệu của Tổng cục thống kê (2012)
Số lượng sinh viên ở các trường NCL cũng tăng nhanh, từ 101.1 ngàn sinh viên (2001) lên đến 335 ngàn (2011), tăng 331% sau 10 năm
Mặc dù số lượng trường và sinh viên tăng nhanh, các trường NCL vẫn đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt là chất lượng đào tạo Những khó khăn như tuyển dụng giảng viên chất lượng, mức lương thấp, nguồn lực hạn chế cho nghiên cứu khoa học và quản lý chặt chẽ chương trình đào tạo cần được giải quyết để nâng cao hiệu quả giáo dục.
Theo UNESCO, tỷ lệ giáo viên trên sinh viên trong giáo dục đại học tại Việt Nam là 30/1, một con số cao không chỉ so với tiêu chuẩn toàn cầu mà còn vượt trội so với nhiều quốc gia khác trong khu vực (UNESCO, 2006).
1 Tỉ lệ sinh viên/giảng viên tương ứng là 23/1 ở Philippines, 20/1 ở Malaysia và 15/1 ở Indonesia
Số lượng trường và sinh viên các cơ sở GDĐH
Số lượng trường công lập
Số lượng trường ngoài công lập
Số sinh viên trường công lập
Số sinh viên trường ngoài công lập
Hình 3.2 Tỉ lệ sinh viên/giảng viên ở các trường đại học
Nguồn: Tác giả tự vẽ theo số liệu của Tổng cục thống kê (2012)
Tỉ lệ giảng viên trên sinh viên tại các trường NCL đã có sự biến động lớn qua các năm, đạt đỉnh 39.3/1 vào năm 2007, nhưng không theo kịp sự gia tăng số lượng sinh viên Gần đây, tỉ lệ này giảm do quy định tuyển sinh của Bộ GD&ĐT và không tính đến sinh viên tại chức, văn bằng 2, liên thông từ 2009 Chỉ khoảng 30% giảng viên tại các trường NCL là cơ hữu, trong khi trên 60% là giảng viên thỉnh giảng, khiến họ không thể đầu tư nhiều cho công việc giảng dạy Hơn nữa, giảng viên tại các trường NCL thường dành nhiều thời gian cho giảng dạy hơn là nghiên cứu, dẫn đến tỉ lệ công bố nghiên cứu rất thấp, chỉ 1 nghiên cứu trên 100 giảng viên, so với 39 nghiên cứu ở các trường công lập.
3.2.2 Chất lượng đào tạo chưa cao
Chất lượng đào tạo hiện nay đang gây lo ngại, thể hiện rõ qua tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm và số lượng sinh viên phải làm trái ngành nghề đào tạo Thực tế này cho thấy sự cần thiết phải cải thiện chương trình giảng dạy và kết nối giữa giáo dục và thị trường lao động.
Tỉ lệ sinh viên/giảng viên
Nền giáo dục đại học (GDĐH) Việt Nam đang đối mặt với sự đánh đổi giữa chất lượng và số lượng, theo khảo sát của Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực TPHCM, chỉ 80% sinh viên tốt nghiệp tìm được việc làm, trong đó 50% có công việc phù hợp với năng lực Thống kê từ Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn cho thấy 26.2% cử nhân không có việc làm, và 70.8% làm trái ngành nghề, chỉ 19% làm đúng chuyên môn được đào tạo Giáo sư Phạm Minh Hạc nhận định rằng trong các trường ĐHTT, chỉ 1 trong 10 sinh viên đạt chất lượng thực sự Sinh viên tốt nghiệp từ các trường ngoài công lập thường không được thị trường lao động công nhận, điều này không chỉ xảy ra ở doanh nghiệp tư nhân mà còn ở khu vực nhà nước, như trường hợp tại tỉnh Nam Định khi nhiều thí sinh bị loại vì tốt nghiệp từ trường dân lập.
Các trường đại học cao đẳng ngoài công lập (NCL) ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của sinh viên không thể vào các trường công lập, do sự chênh lệch giữa cung và cầu Học phí tại các trường NCL thường cao hơn so với các trường công lập, trong khi chất lượng đào tạo lại thấp hơn (Pham & Gerald, 2005) Hầu hết sinh viên theo học tại các trường NCL đều là những người không đủ điểm vào các trường công, dẫn đến việc chất lượng giáo dục ở đây bị ảnh hưởng tiêu cực.
3.2.3 Tình hình tuyển sinh tại các trường NCL
Bộ GD&ĐT đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm kiểm soát tình trạng các trường NCL không đảm bảo chất lượng đào tạo và tuyển sinh ồ ạt Năm 2004, Bộ quyết định mức “điểm sàn” tối thiểu cho thí sinh muốn đăng ký vào các trường đại học, bao gồm cả công lập và NCL Kết quả là số lượng sinh viên theo học tại các trường NCL đã giảm đáng kể trong năm học 2003-2004 và 2005-2006 (Le, 2006, tr.80) Tuy nhiên, trong vài năm gần đây, con số này đã có xu hướng tăng trở lại.
Nhiều trường đại học tư thục (ĐHTT) đang đối mặt với vấn đề cơ sở vật chất (CSVC) và đã xác định chỉ tiêu tuyển sinh vượt quá quy định Trong đợt thanh tra năm 2012 đối với 30 trường đại học, có đến 21 trường vi phạm chỉ tiêu tuyển sinh, bao gồm cả công lập và tư thục Cụ thể, trường ĐH dân lập Ngoại ngữ - Tin học TPHCM đã tự xác định 2000 chỉ tiêu dù không còn năng lực tuyển sinh, trong khi ĐH Văn Lang và ĐH Lương Thế Vinh cũng tự xác định lần lượt 2000 và 1800 chỉ tiêu mặc dù năng lực thực tế chỉ có 1021 và 473 Đây chỉ là ba trong số nhiều trường vi phạm trong tổng số 30 trường được thanh tra, và con số thực tế có thể còn cao hơn nhiều.
3.2.4 Vấn đề về quyền sở hữu khi chuyển đổi từ loại hình dân lập sang tư thục
Theo Luật Giáo dục 2005, cơ sở giáo dục dân lập được thành lập bởi cộng đồng dân cư với trách nhiệm đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và đảm bảo kinh phí hoạt động Trong khi đó, cơ sở giáo dục tư thục do các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế hoặc cá nhân thành lập, nhưng phải được sự cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền Nguồn vốn để xây dựng cơ sở vật chất và đảm bảo kinh phí hoạt động cho cơ sở giáo dục tư thục chủ yếu là từ nguồn ngoài ngân sách nhà nước.
Nghị định 75, được ban hành năm 2006, hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục năm 2005, quy định rằng giáo dục đại học chỉ bao gồm hai loại hình là công lập và tư thục, không có loại hình dân lập.
Ngày 29/5/2006, Chính phủ đã ban hành Quyết định 122 nhằm chuyển đổi các trường đại học dân lập sang mô hình tư thục Quyết định này nhằm làm rõ khái niệm “lợi nhuận” và “phi lợi nhuận”, đồng thời tạo điều kiện cho các trường phát triển theo đúng hướng của chủ trương xã hội hóa giáo dục, khuyến khích sự đa dạng hóa các loại hình trường và hình thức giáo dục, cũng như tạo cơ hội cho tổ chức và cá nhân tham gia.
Tiêu chí thứ hai liên quan đến diện tích sàn xây dựng phục vụ đào tạo, yêu cầu mỗi sinh viên phải có tối thiểu 2m² Theo Quyết định 122 của Chính phủ, 19 trường đại học dân lập cần hoàn thành chuyển đổi trước ngày 30/6/2007, với Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm phối hợp ban hành quy định hướng dẫn Tuy nhiên, tính đến nay, chỉ có hai trường là ĐH Thăng Long và ĐH Hồng Bàng thực hiện thành công quá trình chuyển đổi này.
Chủ trương chuyển các trường dân lập sang tư thục được ủng hộ, nhưng không giải quyết vấn đề sở hữu Theo quy chế tạm thời ban hành kèm Quyết định số 196/TCCB ngày 21/04/1994 của Bộ GD&ĐT, đại học dân lập được thành lập bởi cá nhân, tập thể hoặc tổ chức kinh tế - xã hội với mục đích không kinh doanh, không vụ lợi Quy chế này đã thúc đẩy sự ra đời nhiều trường đại học dân lập Đến năm 2000, quy chế mới theo Quyết định số 86/2000/QĐ-TTg quy định tài sản của trường đại học dân lập thuộc quyền sở hữu tập thể của những người góp vốn, giảng viên và nhân viên.
Các trường đại học và cao đẳng NCL hiện nay hoạt động theo cơ chế không rõ ràng về nguồn tài sản Sau một thời gian, tài sản của các trường đã tăng nhanh từ vài tỷ đồng lên hàng trăm tỷ đồng, nhưng không xác định được chủ sở hữu của khối tài sản này Nếu coi đây là tài sản của những người góp vốn ban đầu thì vi phạm quy định, còn nếu xem là tài sản chung thì các cá nhân góp vốn không đồng ý.
Cơ sở pháp lý quản lý các trường ĐHTT
Quản lý nhà nước đối với các trường ĐHTT hiện nay được thực hiện theo nhiều chính sách khác nhau thông qua các văn bản sau:
Luật Giáo dục 2005 quy định rằng tài sản và tài chính của trường tư thục thuộc sở hữu của các thành viên góp vốn, theo điều 67 Bên cạnh đó, luật cũng đưa ra các quy định khác liên quan đến hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học tư thục, nhằm đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm trong quản lý tài sản giáo dục.
- Luật Giáo dục Đại học 2012;
Quyết định số 61/2009/QĐ-TTg, ban hành ngày 17/4/2009 bởi Thủ tướng Chính phủ, quy định về tổ chức và hoạt động của trường ĐHTT, đã bổ sung một số khái niệm quan trọng liên quan đến sở hữu, bao gồm "Chủ sở hữu chung", "Cổ phần" và "Cổ đông" Những khái niệm này giúp làm rõ cấu trúc sở hữu và quản lý trong các cơ sở giáo dục, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của trường ĐHTT.
- Quyết định số 63/2011/QĐ-TTg (QĐ 63) ngày 10/11//2011 của Thủ tướng Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của QĐ 61;
- Nghị định số 115/2010/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục
Thông tư số 57/2011/TT-BGDĐT của Bộ GD&ĐT quy định về việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh cho các trình độ tiến sĩ, thạc sĩ, đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp Văn bản này thể hiện xu hướng giao quyền tự chủ nhiều hơn cho các trường đại học, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đáp ứng nhu cầu nhân lực trong xã hội.
- Thông tư 20/2010/TT-BGDĐT Quy định nội dung, trình tự, thủ tục chuyển đổi loại hình trường đại học dân lập sang loại hình trường ĐHTT
Thông tư số 09/2009/TT-BGDĐT, ban hành ngày 07 tháng 5 năm 2009 bởi Bộ Giáo dục và Đào tạo, quy định về việc thực hiện công khai thông tin tại các cơ sở giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân Quy chế này nhằm nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm của các cơ sở giáo dục, đảm bảo quyền lợi cho học sinh và phụ huynh.
Mô hình quản lý nhà nước đối với các trường ĐHTT
Nền giáo dục Việt Nam được quản lý trực tiếp bởi hệ thống chính trị, từ các chủ trương của Đảng Cộng sản đến các chính sách của Quốc hội và Chính phủ Theo quy chế hoạt động, các trường đại học tư thục (ĐHTT) chịu sự quản lý của Bộ GD&ĐT và UBND tỉnh, thành phố nơi trường đặt trụ sở Việc thành lập, hoạt động, đình chỉ, sáp nhập, chia, tách, và giải thể các trường ĐHTT phải tuân theo quy định của Thủ tướng Chính phủ Hàng năm, tài sản của các trường cần được kiểm kê và kiểm toán theo quy định pháp luật.
Quy trình quản lý nhà nước đối với các trường ĐHTT ở Việt Nam được thực hiện theo hướng chỉ huy từ cấp trên xuống Các trường này có quyền tự chủ về nhân sự, ngoại trừ một số vị trí quan trọng như Hiệu trưởng và Chủ tịch HĐQT Tuy nhiên, về mặt tài chính, các trường ĐHTT vẫn phải nộp thuế và tuân thủ các quy định quản lý tài chính tương tự như các trường công lập.
ĐÁNH GIÁ CÁC CHÍNH SÁCH CAN THIỆP CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TRƯỜNG ĐẠI HỌC TƯ THỤC
Cơ sở can thiệp của nhà nước
GDĐH là dịch vụ tư thuần túy, và theo lý thuyết kinh tế, thị trường tự do có thể cung cấp hàng hóa, dịch vụ này mà không cần sự can thiệp của nhà nước, dẫn đến điểm cân bằng tối ưu giữa cung và cầu Tuy nhiên, thị trường GDĐH tư thục hiện đang đối mặt với nhiều vấn đề nghiêm trọng, nếu để tự điều chỉnh sẽ dẫn đến tình trạng khủng hoảng và tan rã của các trường ĐHTT Điều này được coi là thất bại trong việc cung ứng dịch vụ GDĐH Hiệp hội các trường Đại học, Cao đẳng NCL đã yêu cầu nhà nước can thiệp, nhấn mạnh rằng nếu không có sự hỗ trợ, các trường này sẽ không thể duy trì hoạt động Nhà nước có cơ sở can thiệp khi các cơ chế tự điều chỉnh khác đã trở nên bất lực, gây ra sự bất công và không ổn định.
Giáo dục đại học (GDĐH) đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của đất nước, tạo ra giá trị gia tăng và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời mang lại tác động tích cực cho xã hội Tuy nhiên, những thất bại trong hệ thống GDĐH Việt Nam đã gây thiệt hại đáng kể, đẩy các trường đại học tư thục vào nguy cơ suy giảm và nâng cao vị thế độc quyền của các trường công lập GDĐH cũng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng lao động và nhận thức xã hội, từ đó tác động đến phân phối thu nhập trong nền kinh tế và nâng cao vị thế quốc gia Vì vậy, nhà nước có trách nhiệm can thiệp vào thị trường GDĐH để giảm thiểu những thất bại mà thị trường gây ra.
Nhà nước can thiệp vào thị trường giáo dục thông qua việc duy trì thẩm quyền bằng các văn bản pháp luật như luật, quy định, quyết định và thông tư Mục tiêu là định hướng thị trường theo hướng tích cực Để khắc phục tình trạng tuyển sinh ồ ạt của các trường đại học tư thục và giảm tỷ lệ sinh viên trên giảng viên, nhà nước đã ban hành Thông tư số 57/2011/TT-BGDĐT.
57) của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT “Quy định về việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh trình độ tiến sĩ, thạc sĩ, đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp” để giao quyền tự chủ cho các cơ sở GDĐH
Để nâng cao chất lượng giáo dục, nhà nước đã ban hành Thông tư số 09/2009/TT-BGDĐT vào ngày 07 tháng 5 năm 2009, quy định về việc thực hiện công khai thông tin tại các cơ sở giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Về vấn đề sở hữu tại các trường đại học tư thục, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 61/2009/QĐ-TTg ngày 17/4/2009 quy định về tổ chức và hoạt động của các trường này Để cập nhật và điều chỉnh một số quy định, Quyết định số 63/2011/QĐ-TTg ngày 10/11/2011 đã được ban hành nhằm sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định 61.
Để đánh giá chính sách một cách khoa học và chính xác, cần có một tiêu chuẩn chung được công nhận rộng rãi Nhận thấy sự thất bại của thị trường, nhà nước đã can thiệp bằng cách ban hành hệ thống văn bản pháp luật Hiện nay, nhiều tiêu chí được sử dụng để đánh giá chất lượng chính sách, trong đó bộ tiêu chí của OECD được xem là phù hợp nhất Bộ tiêu chí này giúp đánh giá chính sách của nhà nước đối với các trường đại học NCL, nhằm truyền đạt mục tiêu, lợi ích của cải cách, xác định trách nhiệm rõ ràng, thiết lập cơ chế phối hợp hiệu quả và nâng cao chất lượng chính sách thông qua phân bổ nguồn lực hợp lý.
Các tiêu chí đánh giá chính sách theo OECD
Để đánh giá hiệu quả của chính sách quản lý nhà nước đối với các trường đại học tư thục, nghiên cứu áp dụng bộ tiêu chí đánh giá chính sách của OECD Theo đó, các quy định cần phải đảm bảo tính hợp lý và minh bạch, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đáp ứng nhu cầu của xã hội.
(1) Phục vụ các mục tiêu chính sách được xác định rõ ràng và có hiệu quả trong việc đạt được các mục tiêu đó;
(2) Có nền tảng pháp lý và kinh nghiệm hợp lý;
Tạo ra lợi ích bù đắp các khoản chi phí cần xem xét sự phân bổ tác động trong xã hội, bao gồm các yếu tố kinh tế, môi trường và xã hội.
(4) Giảm thiểu tối đa chi phí và biến dạng thị trường;
(5) Khuyến khích sự đổi mới thông qua các biện pháp khuyến khích thị trường và các tiếp cận dựa trên mục tiêu;
(6) Rõ ràng, đơn giản và thực tế đối với người sử dụng;
(7) Phù hợp với các quy định và chính sách khác; và
(8) Tương thích đối đa với các nguyên lý cạnh tranh, thương mại và thuận lợi cho đầu tư ở cấp độ trong nước và quốc tế
Tiêu chí “Phục vụ các mục tiêu chính sách”
Mục tiêu ban hành các văn bản là xóa bỏ thất bại thị trường, nâng cao chất lượng đào tạo, xác định rõ hình thức và đối tượng sở hữu tài sản chung tại các trường ĐHTT Qua đó, văn bản góp phần minh bạch quyền sở hữu và lãnh đạo, thu hút đầu tư, thực hiện chính sách xã hội hóa giáo dục của Chính phủ.
Sau một thời gian hoạt động, các trường D9HTT vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc nâng cao chất lượng đào tạo, đặc biệt là trong tuyển sinh và quyền sở hữu tài sản Vào ngày 17/1/2013, Hiệp hội các trường NCL đã gửi kiến nghị lên Thủ tướng về những vấn đề cấp bách ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của hệ thống GDĐH NCL, nguyên nhân chủ yếu được cho là do các chính sách của nhà nước Hơn nữa, quá trình chuyển đổi từ trường đại học dân lập sang tư thục vẫn chưa có tiến triển, không có thêm trường nào được thành lập trong năm qua.
Tiêu chí “Nền tảng pháp lý và kinh nghiệm hợp lý”
Chính phủ đã xây dựng một chính sách xã hội hóa rõ ràng trong lĩnh vực giáo dục, được quy định tại Nghị định 69/2008/NĐ-CP, nhằm khuyến khích các hoạt động giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao và môi trường Để cụ thể hóa chính sách này, Chính phủ đã ban hành các luật và văn bản hướng dẫn Điều này đã tạo ra một nền tảng pháp lý vững chắc cho việc xác định và thực hiện quyền sở hữu tài sản của các trường đại học tư thục.
Bảng 4.1 Hệ thống văn bản nhà nước quản lý các trường đại học NCL
Văn bản Ngày ban hành
Quyết định số 240/QĐ-TTg
Quy chế ĐHTT đánh dấu lần đầu tiên quy định về trường tư tại Việt Nam, nhấn mạnh vốn góp cổ phần và quyền điều hành của các nhà đầu tư.
Năm 1999, Chính phủ đã ban hành chính sách khuyến khích xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể thao, nhằm tạo điều kiện phát triển các cơ sở giáo dục ngoài công lập (NCL) Văn bản này nêu rõ các đặc trưng của trường NCL và thể hiện chủ trương ưu tiên cho việc phát triển loại hình giáo dục này, đồng thời khuyến khích một số trường công lập chuyển sang hình thức bán công.
Quy chế trường đại học dân lập
Quyết định 39/2001/QĐ- BGD&ĐT
2001 Bộ GD&ĐT Quy chế tổ chức và hoạt động của các trường
Quy chế tổ chức và hoạt động của trường ĐHTT, luật hóa một cách rõ ràng nhất những hoạt động cũng như quyền sở hữu của các trường NCL
Luật Giáo dục 2005 Quốc hội Thông tư 0/2010/
16/07/2010 Bộ GD&ĐT Quy định nội dung, trình tự, thủ tục chuyển đổi loại hình trường đại học dân lập sang loại hình trường ĐHTT
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp)
Trong giai đoạn hình thành các trường NCL, thuật ngữ "dân lập" được sử dụng thay cho "tư thục" Theo Quy chế 86/2000/QĐ-TTg, trường đại học dân lập phải do một tổ chức thành lập, nhưng thực tế, vốn chủ yếu đến từ cá nhân và quyền sở hữu tài sản không rõ ràng Ngày 26/5/2006, Phó thủ tướng Phạm Gia Khiêm ký quyết định cho phép 19 trường đại học dân lập chuyển sang tư thục nhằm giải quyết vấn đề sở hữu Để xác định rõ hoạt động của các trường ĐHTT là vì lợi nhuận hay không, cần có chính sách phân định cụ thể Tuy nhiên, quy định hiện tại lại công nhận tất cả các trường ĐHTT đều hoạt động vì mục đích lợi nhuận, bắt buộc phải vận hành theo mô hình doanh nghiệp Sự tương đồng giữa công ty cổ phần và ĐHTT càng làm nổi bật điều này.
Bảng 4.2 So sánh sự tương đồng giữa công ty cổ phần và đại học NCL
Quy chế công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp 2005
Quy chế trường ĐHTT theo
Góp vốn Là việc đưa tài sản vào công ty để trở thành chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung của công ty (Điều 4.3)
Là việc đưa tài sản vào nhà trường để trở thành chủ sở hữu của nhà trường (Điều 3.1)
Vốn điều lệ là tổng số vốn mà các thành viên hoặc cổ đông cam kết góp trong một thời hạn nhất định, và được ghi rõ trong điều lệ công ty theo quy định tại Điều 4.6.
Tổng giá trị số vốn góp bằng đồng Việt Nam của tất cả các thành viên được ghi rõ trong Quy chế tổ chức và hoạt động của trường (Điều 3.3).
Phần góp vốn Là tỷ lệ vốn mà chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu chung của công ty góp vào vốn điều lệ (Điều 4.5)
Là tỷ lệ tính bằng phần trăm của phần vốn mà từng chủ sở hữu đóng góp so với vốn điều lệ (Điều 3.4)
Vốn có quyền biểu quyết
Vốn góp hoặc cổ phần là tài sản mà người sở hữu có quyền biểu quyết trong các vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng thành viên hoặc Đại hội đồng cổ đông (Điều 4.8).
Là phần vốn góp, theo đó người sở hữu có quyền biểu quyết về những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông quyết định (Điều 3.8)
Cổ đông Là người sở hữu ít nhất một cổ phần đã phát hành của công ty cổ phần (Điều 4.11)
Là người sở hữu ít nhất một cổ phần (Điều 3.8)
Cơ cấu tổ chức - Đại hội đồng cổ đông;
- Giám đốc/Tổng giám đốc
- Đại hội đồng cổ đông;
- Hiệu trưởng và các Phó Hiệu trưởng;
Số lượng cổ đông/thành viên tối
Quy chế công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp 2005
Quy chế trường ĐHTT theo
Chuyển nhượng phần vốn góp
Cổ đông có quyền chuyển nhượng hoặc rút vốn một phần hoặc toàn bộ số vốn góp theo quy định của Đại hội đồng cổ đông Việc quy định cụ thể về chuyển nhượng quyền sở hữu và rút vốn được thực hiện dựa trên Luật Doanh nghiệp (Điều 31.1).
Trong trường hợp nhà trường bị giải thể, việc xử lý tài chính và tài sản sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật về giải thể doanh nghiệp, cụ thể là Điều 31.3.
Sử dụng thu nhập Được quyền chi trả cổ tức sau khi đã hoàn thành các nghĩa vụ thuế và tài chính (Điều 93.2)
Tổng thu nhập sau khi đã trừ các khoản chi phí, được phân chia cho các cổ đông theo tỷ lệ góp vốn (Điều 30.3)
Chính sách của nhà nước về quyền sở hữu tại các trường đại học tư thục được xây dựng trên một nền tảng pháp lý rõ ràng, nhưng thiếu sự hợp lý trong việc xác định mục tiêu hoạt động của các trường này Điều này dẫn đến những hệ quả tiêu cực trong quá trình thực hiện chính sách.
Tiêu chí “Lợi ích – chi phí và phân bổ tác động”
Trong 10 năm qua, Nhà nước chi ngân sách cho GDĐH luôn đảm bảo năm sau tăng cao hơn năm trước, như giai đoạn 1998 – 2004 tăng bình quân 17%/năm; giai đoạn 2005 –
Từ năm 1999 đến 2009, ngân sách nhà nước chi cho giáo dục đại học tăng từ 0.36% GDP lên 0.66% GDP, nhưng vẫn còn thấp so với tổng chi ngân sách cho giáo dục, chưa đáp ứng đủ nhu cầu đào tạo và nghiên cứu khoa học Các trường đại học tư thục hoạt động chủ yếu bằng kinh phí ngoài ngân sách, dẫn đến việc quản lý và giám sát chính sách tiêu tốn ngân sách nhà nước Chi phí này được tính trong mục “Chi thường xuyên” của ngân sách giáo dục, gây khó khăn trong việc tính toán lợi ích - chi phí và phân bổ nguồn lực.
Theo quan điểm của các nhà khoa học và nhà sáng lập trường, mâu thuẫn lợi ích giữa quyền lãnh đạo và quyền sở hữu đã làm giảm nhiệt huyết của họ trong việc đóng góp cho nghiên cứu và năng lực điều hành của trường Hơn nữa, tình trạng các trường đại học không tuyển sinh trong những năm gần đây đã gây ra chi phí đáng kể cho các trường đại học tư thục.
Chính sách giáo dục hiện tại ảnh hưởng đến uy tín của các trường đại học và lòng tin của phụ huynh về chất lượng đào tạo Học sinh và sinh viên có xu hướng lựa chọn các trường quốc tế 100% vốn nước ngoài hoặc quyết định bỏ học, dẫn đến những thiệt hại nhất định cho nền giáo dục Việt Nam.
Tiêu chí “Giảm thiểu tối đa chi phí và biến dạng thị trường”
Thông tư số 57/2011/TT-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã được ban hành nhằm quy định về việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh cho các trình độ từ tiến sĩ đến trung cấp chuyên nghiệp, với mục tiêu hợp lý hóa chỉ tiêu và trao quyền tự chủ cho các trường đại học Tuy nhiên, quy định này đã khiến nhiều trường đại học tư thục gặp khó khăn trong việc tìm nguồn đầu vào, đặt họ vào tình thế nguy hiểm có thể dẫn đến sự tan rã.
Bảng 3.3 Thực tế tuyển sinh tại một số trường đại học NCL
Trường đại học Tổng chỉ tiêu Thực tế tuyển sinh
Kinh tế Công nghiệp Long An 1300 50%
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ nhiều nguồn
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do trường công lập có khả năng mở rộng chỉ tiêu tuyển sinh nhiều hơn so với năm trước, nhờ vào lợi thế về cơ sở vật chất Cụ thể, trong kỳ tuyển sinh 2012, tổng chỉ tiêu tuyển sinh đại học và cao đẳng hệ chính quy của các trường công lập đạt 504,000, vượt qua chỉ tiêu của toàn ngành trong ba năm trước đó là 502,000 Với tâm lý ưu tiên các trường công lập và mức học phí thấp hơn so với trường ĐHTT, cùng với việc mở rộng chỉ tiêu tuyển sinh, nguồn đầu vào cho các trường ĐHTT gần như cạn kiệt Hầu hết các trường ĐHTT chỉ tuyển được 30-60% chỉ tiêu, một số trường chỉ đạt 20-30%, thậm chí có trường chỉ tuyển được một lượng rất nhỏ.
Quy định "điểm sàn" của Bộ GD&ĐT đang gây khó khăn cho các trường ĐHTT do lượng thí sinh bị giới hạn Chính sách này không hợp lý vì nó phụ thuộc quá nhiều vào đề thi tuyển sinh, trong khi đề thi lại không có tiêu chuẩn rõ ràng về độ khó và phân bố điểm.
Vấn đề quyền sở hữu tại các trường tư ĐHTT gặp nhiều khó khăn khi quy chế chỉ đề cập đến quyền lực của người sở hữu mà không xem xét vai trò của các nhà khoa học và giáo dục Sự mâu thuẫn trong quyền sở hữu dẫn đến sự bất phục và hình thành các phe nhóm đối kháng giữa lãnh đạo nhà trường và nhà đầu tư, làm tăng chi phí cho trường và chi phí quản lý nhà nước Điều này không chỉ ảnh hưởng đến học sinh, sinh viên mà còn tạo gánh nặng cho toàn xã hội Các trường có quyền lãnh đạo và quyền sở hữu thuộc về hai đối tượng khác nhau còn phát sinh chi phí đại diện do xung đột lợi ích.
Từ những điều trên cho thấy, chính sách này chưa đạt được tiêu chí giảm thiểu tối đa chi phí và biến dạng thị trường.
Tiêu chí “Rõ ràng, đơn giản và thực tế với người sử dụng”
Theo Quyết định 63, tài sản chung không phân chia của trường đại học dân lập sẽ được chuyển giao cho Hội đồng Quản trị trường ĐHTT, nhằm bảo đảm quản lý và điều hành theo nguyên tắc bảo tồn và phát triển Tài sản này sẽ được chuyển đổi thành vốn góp, chia thành cổ phần để tính cổ tức, và cổ tức sẽ được bổ sung vào vốn sở hữu chung Đại diện cho tài sản này sẽ là người do tập thể góp vốn và thành viên cơ hữu của trường đại học dân lập bầu chọn.
Theo Điều 10, Hội đồng Quản trị (HĐQT) là cơ quan quản lý duy nhất đại diện cho quyền sở hữu của trường ĐHTT Người đại diện vốn sở hữu chung chỉ được xem như cổ đông và có quyền tham gia quản lý khi được bầu vào HĐQT Do đó, HĐQT là cơ quan quản lý cao nhất của trường.
Điều 63 quy định về hai chủ thể quản lý hoạt động song song, nhưng quyền hạn và nhiệm vụ của họ không được phân định rõ ràng, dẫn đến sự mâu thuẫn trong cùng một quyết định.
Về việc góp vốn, tài sản chung được đưa vào vốn góp, và cổ tức cũng như bổ sung vốn góp hàng năm Theo Quyết định 63, Đại hội đồng cổ đông có quyền thông qua quyết định tăng, giảm vốn điều lệ (Điều 9, Khoản 2, Mục e) Tuy nhiên, Quyết định 63 cũng quy định rằng vốn sở hữu chung được chia thành cổ phần và tính cổ tức, dẫn đến việc tự động tăng vốn điều lệ, làm cho Đại hội đồng cổ đông không thể thực hiện quyền quyết định của mình theo quy định tại Điều 9.
Theo QĐ 63 thì vốn sở hữu chung được chia thành cổ phần, nghĩa là chia theo mệnh giá
Cổ phần được chia cổ tức và nhập vào vốn, giúp tăng vốn theo mệnh giá ban đầu Khi chuyển từ dân lập sang tư thục, vốn cổ đông và vốn sở hữu chung có tỷ lệ 50-50 Nếu tỷ suất lợi nhuận đạt 15% mỗi năm và được chia hết, sau 3 năm vốn sở hữu chung sẽ gấp 1,5 lần vốn cổ đông; sau 5 năm sẽ gấp 2 lần, chiếm 67% tổng vốn Theo QĐ 63, đại diện phần vốn sở hữu chung do tập thể người góp vốn và thành viên cơ hữu bầu ra Chỉ sau 5 năm chuyển đổi, người đại diện này đã nắm 67% cổ phần Theo Điều 9 QĐ 61 sửa đổi, quyết định của Đại hội đồng cổ đông cần ít nhất 65% phiếu biểu quyết chấp thuận, nghĩa là sau 5 năm, người đại diện đã có quyền quyết định hoàn toàn đối với trường Ở những trường có tài sản chung lớn hơn, quyền này có thể đạt được ngay sau khi chuyển đổi.
Theo quy định tại Điều 7, mỗi cổ đông chỉ được sở hữu tối đa 51% vốn góp Tuy nhiên, Khoản 6 bổ sung vào Điều 29 (theo QĐ 63) cho phép cổ đông đại diện vốn sở hữu chung chiếm tỷ lệ vượt quá 51%, có thể lên đến 99% vốn điều lệ.
Theo thông tư 09, tất cả các trường đại học cần xác định chuẩn đầu vào và đầu ra, đồng thời công khai tài chính Trong khi chuẩn đầu vào được thực hiện dễ dàng qua tiêu chí tuyển sinh, chuẩn đầu ra lại thiếu rõ ràng và thường được thiết lập một cách cảm tính, dẫn đến sự sao chép giữa các trường Việc kiểm tra và thẩm định chất lượng đào tạo cũng gặp nhiều khó khăn, do các tiêu chuẩn về chất lượng không cụ thể Trong số 10 tiêu chuẩn ban hành, không có tiêu chuẩn nào được coi là cụ thể, đặc biệt trong tiêu chuẩn về "Chương trình giáo dục".
Chương trình giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên được thiết kế theo quy định nhằm đảm bảo chất lượng đào tạo Mặc dù có quy định về tiêu chuẩn chất lượng, nhưng không nêu rõ tiêu chuẩn cụ thể nào mà chỉ yêu cầu phải đảm bảo chất lượng tổng thể.
Từ những điểm bất hợp lý trên, có thể nói chính sách không đáp ứng được tiêu chí “Rõ ràng, đơn giản và thực tế với người sử dụng.”
Tiêu chí “Khuyến khích đổi mới”
Các trường đại học tư thục (ĐHTT) vẫn chưa thu hút được sự đầu tư từ các nhà đầu tư bên ngoài ngành giáo dục Khi quyết định đầu tư vào lĩnh vực này, các nhà đầu tư thường quan tâm đến việc đóng góp cho cộng đồng thông qua hệ thống giáo dục đại học cũng như lợi nhuận từ hoạt động đầu tư Hiện tại, chất lượng đào tạo tại các trường ĐHTT vẫn chưa đạt yêu cầu cao.
Hộp 4.1 Mười tiêu chuẩn GDĐH (theo Qui định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường đại học 65/2007/QĐ- BGDĐT)
1 Sứ mạng và mục tiêu của trường đại học
2 Tổ chức và quản lý
5 Đội ngũ cán bộ quản lí, giảng viên và nhân viên
7 Nghiên cứu khoa học, ứng dụng, phát triển và chuyển giao công nghệ
8 Hoạt động hợp tác quốc tế
9 Thư viện, trang thiết bị học tập và CSVC khác
10 Tài chính và quản lý tài chính như các trường công lập, do đó các nhà đầu tư chưa nhận thấy được lợi ích rõ ràng khi quyết định đầu tư vào các trường đại học tư trong cả hai khía cạnh trên
Sự mâu thuẫn giữa quyền sở hữu và quyền lãnh đạo đang cản trở các ĐHTT tìm ra giải pháp cải cách và đổi mới trong quản lý tổ chức Trước mắt, hầu hết các trường đại học cần tập trung giải quyết mâu thuẫn nội tại trước khi tiến tới việc đổi mới.
Hộp 4.2 Mâu thuẫn nội bộ tại trường ĐH Hùng Vương
Chủ tịch Tập đoàn đầu tư Sài Gòn, Đặng Thành Tâm, đã được Thành ủy TPHCM mời làm nhà bảo trợ cho trường Đại học Hùng Vương từ năm 2004 Kể từ khi trường chuyển từ hình thức dân lập sang tư thục, ông Tâm cùng bạn bè đã góp vốn bất vụ lợi lên tới 50 tỷ đồng, với lãi suất được sử dụng để tái đầu tư Sự hỗ trợ này đã giúp trường vượt qua nhiều khó khăn.
Sự đồng thuận giữa các thành viên Hội đồng quản trị không kéo dài, dẫn đến mâu thuẫn kể từ khi trường chuyển sang tư thục, với cơ chế quản lý khác biệt so với thời gian còn là dân lập Đỉnh điểm của bất ổn là tranh chấp liên quan đến con dấu, khi ông Đặng Thành Tâm cho rằng hiệu trưởng Lê Văn Lý đang làm suy yếu Hội đồng quản trị, khiến đại hội cổ đông không thể triệu tập do thiếu con dấu để hoàn thiện hồ sơ.
[…] Trong khi đó, Hiệu trưởng trường Đại học Hùng Vương TPHCM Lê Văn Lý lại cho rằng mình bị ép đóng dấu vào những văn bản sai quy định […]
Nhìn chung, QĐ 63 chưa thỏa mãn tiêu chí “khuyến khích đổi mới” theo yêu cầu của OECD.
Tiêu chí “Phù hợp với các quy định và chính sách khác”
Quyết định 63 được ban hành nhằm bổ sung và khắc phục những bất cập trong việc thực thi Quyết định 61, dựa trên nền tảng các văn bản pháp luật trước đó Nhiều điểm sửa đổi trong Quyết định 63 đã giải quyết hiệu quả những nhược điểm và thiếu sót của Quyết định trước đó.
61, làm QĐ 61 hoàn thiện hơn Một số điểm nổi bật là:
Quyết định 63 đã làm rõ những hiểu lầm liên quan đến "cổ đông phổ thông" và "Đại hội đồng cổ đông" trong Quyết định 61 bằng cách loại bỏ Khoản 5 và chỉnh sửa Khoản 8 trong Điều 3.
61 Đồng thời Quy chế này khẳng định Đại hội đồng cổ đông bao gồm tất cả cổ đông và mọi cổ đông đều có quyền tham gia biểu quyết Đây là điểm khác biệt so với QĐ 61
- QĐ 63 cũng khẳng định Đại hội đồng cổ đông là cơ quan có quyền quyết định cao nhất của trường, tương tự như Luật doanh nghiệp
QĐ 63 quy định các điều khoản riêng cho các trường ĐHTT, bổ sung những nội dung mà Luật Giáo dục hiện hành chưa làm rõ Quyết định này cũng phù hợp với mục tiêu xã hội hóa giáo dục của chính phủ.
Tiêu chí “Tương thích với các nguyên lý cạnh tranh, thương mại và thuận lợi cho đầu tư”
Mười hai năm trước, Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) đã được thông qua bất chấp sự phản đối từ các nước đang phát triển, chiếm đa số trong WTO Trong khi nhiều người trong ngành giáo dục coi giáo dục là một phúc lợi xã hội không nên thương mại hóa, GATS lại xem giáo dục như một dịch vụ thương mại cần được tự do hoá.
Sức ép cạnh tranh đối với các trường đại học tư thục tại Việt Nam đến từ sự cạnh tranh nội bộ, với các trường công lập và các cơ sở giáo dục quốc tế Để nâng cao năng lực cạnh tranh, chất lượng hệ thống pháp luật đóng vai trò quan trọng, cần loại bỏ các rào cản không cần thiết gây bất lợi cho sự phát triển của các trường này Quyết định 63 đã phần nào hoàn thiện thể chế cho các trường đại học tư thục, mặc dù vẫn còn nhiều vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Theo Quyết định 63, các trường đại học nước ngoài hiện đang được ưu đãi hơn so với các trường đại học tư thục trong nước Điều này dẫn đến sự chênh lệch ngày càng lớn về chất lượng đào tạo và cơ sở vật chất giữa các trường đại học tư thục trong nước, do chưa thu hút được đầu tư ổn định.